Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016

Phạm Việt Hưng - Các nhà Bác Học mọi thời đại phát biểu thế nào về chủ nghĩa duy vật

Chủ nghĩa duy vật cho rằng thế giới tồn tại là nhờ vật chất, vật chất quyết định ý thức, từ đó mà đưa ra luận thuyết vô thần.
Các nhà Bác Học mọi thời đại từ trước đến nay, trong các công trình nghiên cứu của mình, vào cuối tác phẩm đều tin vào sự hiện diện của Thần, Nhưng khi dịch sang tiếng Việt, vì để phù hợp với học thuyết vô thần nên những phát biểu này đều đã bị cắt bỏ đi.
Lược sử tối giản của chủ nghĩa duy vật
Với chủ nghĩa duy vật, các khái niệm tưởng là phi vật chất như tư tưởng, tinh thần xét cho cùng cũng chỉ là sự biểu lộ của hoạt động vật chất.
Chủ nghĩa duy vật không phải là một hiện tượng mới mẻ. Nó vốn có từ xa xưa, ít nhất từ thời cổ Hy Lạp. Có lẽ ngay từ thời ấy nó đã tỏ ra kém cỏi trong khả năng giải thích thế giới nên Plato, một trong những cha đẻ của nền văn minh triết học và khoa học Tây phương, đã phải phê phán nó một cách gay gắt như đã dẫn trong bài báo của John Spencer nói trên. Đối với Plato, Cái Đẹp (The Beauty), Cái Thiện (The Goodness), Luật Đạo Đức (The Moral Law) là những giá trị phi vật chất nói lên sự hiện hữu của Thần. Nếu không tin Thần đã « thổi » tâm tính tốt đẹp vào con người thì sẽ rất khó giải thích vì sao con người có xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức, trong khi mọi tạo vật khác không có ý thức về những giá trị này (Chú ý rằng xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức hoàn toàn trái ngược với quy luật “đấu tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua” của thuyết tiến hóa Darwin).
Nhưng mặc dù chủ nghĩa duy vật đã có từ xa xưa, nó chưa bao giờ trồi lên mạnh mẽ như từ giữa thế kỷ 19 để trở thành một hệ tư tưởng khuynh đảo xã hội từ đó cho tới nay. May mắn thay, chính khoa học lại cung cấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy chủ nghĩa duy vật không phải là một tiến bộ về nhận thức, mà hóa ra mà là một bước thụt lùi. Đó là lý do để giữa thế kỷ 20, đúng vào lúc chủ nghĩa duy vật lên đến tột đỉnh và các nhà duy vật đang ngạo nghễ đắc thắng, nhà toán học trứ danh Kurt Gödel đã hạ bệ nó bằng một tuyên bố chắc nịch: « Chủ nghĩa duy vật là sai lầm ! ».
Mãi đến cuối thế kỷ 20, khi Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness) của Gödel được thừa nhận một cách rộng rãi thì nhiều người mới bắt đầu giật mình tỉnh ngộ ra để nhìn nhận lại bản chất của chủ nghĩa duy vật. Tại sao vậy ? Vì định lý Gödel chỉ ra rằng chủ nghĩa duy vật, bao gồm logic máy móc và tư duy cơ giới thô thiển, đã tự bịt mắt trước sự thật – thế giới hiện thực rộng hơn thế giới nhận thức ; thế giới nhận thức rộng hơn tư duy khoa học; tư duy khoa học rộng hơn tư duy logic máy móc… Nói cách khác, có nhiều chân lý nằm bên ngoài thế giới nhận thức bằng thực chứng và logic – khoa học duy vật không bao giờ đủ để nhận thức được chân lý đầu tiên, chân lý cuối cùng và chân lý toàn thể. Muốn nhận thức sâu hơn và rộng hơn về thế giới, bắt buộc con người phải sử dụng nhiều phương pháp nhận thức khác nhau để tiệm cận tới chân lý. Những phương pháp nhận thức này tuy khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau, trong đó trực giác đóng vai trò định hướng dẫn đường.
Trực giác là gì nếu không phải ánh sáng của Thần soi rọi vào mỗi con người ?
Albert Einstein là người nhấn mạnh đến trực giác nhiều nhất. Ông từng nói « Tư duy trực giác là quà tặng thiêng liêng… » (The intuitive mind is the sacred gift…). Quà tặng thiêng liêng đó là của ai, nếu không phải của Thần ? Không thừa nhận sự thật này thì làm thế nào để giải thích sự hiện hữu của trực giác ? Computer vượt xa chúng ta về tốc độ và sức khỏe tính toán nhưng chỉ là một gã ngu đần khi đứng trước một vấn đề đòi hỏi trực giác. Chủ nghĩa duy vật không dám phủ nhận trực giác, nhưng nó lúng túng không biết làm thế nào để giải thích trực giác, vì thế nó nói bừa rằng đó là bản năng tự nhiên và nhờ “tiến hóa” mà có. Khái niệm “tiến hóa” là một khái niệm mơ hồ, bởi thực tế không bao giờ có một cơ chế tiến hóa nào có thể kiểm chứng được một cách cụ thể, rõ ràng.
Thực tế, trực giác là một trong những bí ẩn lớn nhất của tự nhiên – khả năng nắm bắt được bản chất sự vật một cách trực tiếp ngay tức khắc không thông qua lý luận. Trực giác có nhiều tầng khác nhau. Ở tầng thấp, một học trò có trực giác tốt sẽ định hướng lời giải của một bài toán hình học nhanh hơn những học trò có trực giác kém. Ở tầng cao, trực giác giúp Isaac Newton cảm thấy có lực hấp dẫn giữa các vật chất có khối lượng, Albert Einstein “nhìn thấy” quy luật tương đối chi phối tự nhiên, Louis Pasteur “cảm thấy” tính bất đối xứng của sự sống,… Ở tầng cao hơn nữa, nó giúp con người “nhìn thấy” những thế giới không nhìn thấy – thế giới siêu tự nhiên, phi vật lý, nơi phương pháp thực chứng và logic của khoa học hoàn toàn bất lực. Vì thế những thầy giáo giỏi không phải là những người truyền đạt giỏi, mà là những người giỏi đánh thức người học, giúp người học tỉnh thức để vận dụng trực giác sẵn có trong tâm mà thấu cảm chân lý, thay vì lý luận chứng minh. Đức Phật và Đức Chúa Jesus là những nhà truyền giảng và đánh thức vĩ đại. Câu nói bất hủ của Chúa Jesus, rằng “Phúc cho ai không thấy mà tin” là một lời đánh thức tất cả những ai muốn tìm chân lý, nhưng rất tiếc là có nhiều người không hiểu, thờ ơ với lời đánh thức đó. Nhưng những người như Kurt Gödel thì không như vậy. Lời nói quả quyết của ông, Chủ nghĩa duy vật là sai lầm, chứng tỏ ông là một người tỉnh thức hơn ai hết – ông phủ nhận chủ nghĩa duy vật và vô thần quyết liệt tới chừng nào.
Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều người hiểu Gödel hơn, và do đó ngày càng có nhiều người từ bỏ chủ nghĩa duy vật hơn. Tiến sĩ John Spencer, với tư cách một nhà triết học về vật lý lượng tử, đã ủng hộ Gödel bằng lập luận logic một cách mạnh mẽ đến nỗi phải trích dẫn Plato để phê phán chủ nghĩa duy vật như một thứ triết học tầm thường và ngoan cố. Lập luận của Spencer vừa mang tính khoa học vừa mang tính triết học.
Logic bác bỏ chủ nghĩa duy vật
Trong bài báo nói trên, Spencer lưu ý độc giả rằng : Kurt Gödel tuy không nổi tiếng như Albert Einstein, nhưng đừng quên rằng ông là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ 20, và là nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle; bản thân Einstein trong thời gian làm việc cùng với Gödel tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton đã từng công khai nói với mọi người rằng ông đến Viện nghiên cứu chỉ cốt để gặp gỡ trò chuyện với Gödel, rồi cùng đi bộ với Gödel về nhà; một bạn thân khác của Gödel tại đây là nhà toán học lừng danh John von Newman, một trong những cha đẻ của computer ngày nay.
Vậy điều gì đã làm cho một nhà khoa học bậc nhất như Gödel chối bỏ chủ nghĩa duy vật?
Spencer nói: “Chủ nghĩa duy vật, một thứ triết lý dựa trên tiên đề cho rằng chỉ có vật chất mới là cái có thật, đã trở thành nền tảng cố hữu không thể tranh cãi trong rất nhiều trường phái khoa học chính thống”.
Cái nền tảng ấy đã trở thành một xiềng xích trói buộc, một tảng đá đè nặng lên tư duy khoa học, cản trở tư duy sáng tạo đến nỗi nhà thần kinh học Mario Beauregard đã phải lên tiếng kêu gọi: “Nay đã đến lúc chúng ta phải tự giải phóng mình ra khỏi những xiềng xích trói buộc và những tấm vải che mắt của ý thức hệ duy vật cỗ lỗ sĩ” (It’s now time to free ourselves from the shackles and blinders of the old materialist ideology).
Thực ra những người tài giỏi thực sự không cần phải chờ đợi lời kêu gọi đó. Họ đã tự giải phóng mình từ lâu, đúng như Spencer nhận xét: “Trớ trêu thay, có một sự thật là nhiều nhà khoa học đi tiên phong trong khoa học hiện đại từ vài thế kỷ trước đây cho tới những nhà sáng lập cơ học lượng tử như Max Planck và Werner Heisenberg cũng đều bác bỏ chủ nghĩa duy vật”.
Ủng hộ lời kêu gọi của Mario Beauregard, John Spencer nêu lên một lập luận 9 điểm để bác bỏ chủ nghĩa duy vật:
Các định luật vật lý là nền tảng của tất cả mọi khoa học.
Các định luật vật lý là những quan hệ toán học.
Các quan hệ toán học phụ thuộc vào các con số.
Mọi con số được xây dựng từ 1 và 0 (“2” là 1 + 1, và zero là sự vắng mặt của mọi thứ)
Số 0 bản thân nó là phi vật lý (nó không đại diện cho bất kỳ một vật chất cụ thể nào cả).
Số 1 bản thân nó cũng phi vật lý. Có thể có 1 cái cây, 1 cái ôtô,… nhưng bản thân số 1 không phải cái cây hoặc cái ôtô (số 1 chỉ là một mã hoặc một thông tin).
Vì các số là “cái gì đó” phi vật lý, do đó các định luật vật lý thể hiện hoặc phụ thuộc vào cái gì đó phi vật lý.
Vậy buộc phải đi đến kết luận: hoặc a) các định luật vật lý là có thực nhưng phi vật lý, điều này cho thấy chủ nghĩa duy vật là sai; hoặc b) các định luật vật lý là phi hiện thực, điều này làm cho nền tảng của mọi khoa học trở thành phi hiện thực.
Bất chấp thắng lợi phi thường bề ngoài của khoa học, nếu nền tảng của khoa học là phi hiện thực thì rốt cuộc nó không thể cung cấp bất kỳ cơ sở nào cho chân lý khách quan trong hiện thực, và do đó không thể nói rằng chủ nghĩa duy vật phản ánh chân lý khách quan.
john spencer lập luận trên đã được Spencer phát triển lên một trình độ sâu sắc hơn rất nhiều trong cuốn “The Eternal Law” (Định luật Vĩnh cửu), một cuốn sách tích hợp các tri thức triết học, khoa học và thậm chí cả tâm linh, rất đáng đọc, đã được nhà toán học và vật lý lỗi lạc Roger Penrose đánh giá là một cuốn sách làm cho người đọc cảm thấy “vô cùng khoan khoái” (enormously refreshing). Nhưng bất chấp ý kiến của những người như Penrose, các nhà duy vật vẫn ngoan cố cho rằng ngoài vật chất chẳng có bất cứ thứ gì khác. Spencer than phiền: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai. Vì thế người ta phải băn khoăn tự hỏi: Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?” [0].
Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sự thật dễ thấy nhất là hầu hết những nhà khoa học giỏi nhất, thâm thúy nhất đều từ chối chủ nghĩa duy vật. Để lập một danh sách những nhà khoa học như thế, xin lấy một nhận định của Louis Pasteur làm tiêu chuẩn: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa [2]; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa” (Un peu de science nous éloigne de Dieu, beaucoup nous y ramène).
Đó là một nhận định chính xác. Quan sát thực tế, tôi thấy đa số những người có đầu óc khoa học nửa vời, thậm chí tầm thường, thường trở thành những kẻ tự phụ, tưởng mình có thể “thế thiên hành đạo”, bịa ra những lý thuyết giải thích thế giới mà không cần đến Thần; ngược lại những người tài giỏi thực sự lại có thái độ khiêm tốn, biết kinh ngạc thán phục trước những kỳ quan của Tạo Hóa, và do đó tin vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu nhiên.
Einstein có lẽ là một nhân vật tiêu biểu nhất cho loại người biết kinh ngạc trước những phép mầu của Tự nhiên, vì thế ông cũng là người nêu lên một công thức chính xác để đo lường tri thức của con người: Ego = 1/Knowledge (Cái tôi = 1/Tri thức) – cái tôi tỷ lệ nghịch với tri thức, tri thức càng ít thì cái tôi càng lớn, tri thức càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ.
Người có cái tôi lớn thường không thừa nhận Thần, người có cái tôi nhỏ thường thừa nhận Thần, thán phục Thần. Một người có khiêm tốn hay không, hãy xem anh ta đối xử với Thần như thế nào. Cách đo lường đó hoàn toàn phù hợp với “tiêu chuẩn” của Pasteur nói trên. Vậy dựa trên “tiêu chuẩn” này, xin nêu một danh sách những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại từ chối chủ nghĩa duy vật như sau đây.
NHỮNG NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI CÓ ĐỨC TIN VÀO THẦN
1.Galileo Galilei (1564-1642) :
galileo galileiViệc Tòa án Giáo hội Công giáo La mã năm 1633 kết tội Galileo vì ông ủng hộ thuyết Nhật tâm đã trở thành một vết đen trong lịch sử Công giáo, đánh dấu một cuộc đối đầu không đáng có giữa khoa học và tôn giáo, để lại một hệ lụy vô cùng đáng tiếc cho tới tận hôm nay. Hệ lụy lớn là gây ra một sự hiểu lầm vô cùng tai hại rằng khoa học và tôn giáo là hai hệ thống nhận thức đối đầu nhau và loại trừ lẫn nhau từ trong bản chất. Hệ lụy nhỏ là gây ra sự hiểu lầm lớn rằng Galileo là người vô thần, chống đối tôn giáo. Cả hai hệ lụy đó đều bắt nguồn từ sai lầm của Tòa án Giáo hội năm 1633. Năm 1992, sau 13 năm nghiên cứu lại vụ án Galileo, Giáo hội Công giáo La mã dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Jean Paul II đã chính thức sửa chữa sai lầm của 359 năm trước: thừa nhận Tòa án Giáo hội sai và Galileo đúng, khôi phục lại mọi danh dự cho nhà khoa học chính trực Galileo Galilei. Đây là một quyết định dũng cảm, nhân bản, đề cao công lý, thể hiện rõ ý Chúa. Nhân dịp này báo chí thế giới cũng nói nhiều đến Galileo, qua đó cho thấy ông là người có Đức tin vững chắc. Thật vậy, ông tuyên bố: “Chúa được biết đến nhờ những công trình Ngài kiến tạo trong tự nhiên, và nhờ những lời dạy Ngài vén mở trong các kinh sách” (God is known by nature in His works, and by doctrine in His revealed word). Đối với Galileo, khoa học càng làm ông tin chắc vào vai trò sáng tạo của Chúa. Đây, hãy nghe ông nói: “Toán học là bảng chữ cái trong đó Chúa viết về vũ trụ” (Mathematics is the alphabet in which God has written the universe).
2.Isaac Newton (1643-1727) :
isaac newtonNewton nổi tiếng là một người Thiên Chúa giáo ngoan đạo, vì thế ông cũng là người rất khiêm tốn, biết mình bé nhỏ và tầm thường trước Đấng Sáng tạo vĩ đại. Khi được hỏi làm thế nào để ông có thể khám phá được nhiều điều kỳ lạ đến thế, ông nói ông chỉ giống như một đứa trẻ dạo chơi ngoài bãi biển, say mê nhặt những vỏ sò đẹp, và mỗi khám phá của ông giống như một vỏ sò đẹp mà thôi. Khi ông khám phá ra Định luật Vạn vật Hấp dẫn rồi dùng nó để giải thích chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời, có người chất vấn ông: “Nếu không có chuyển động quán tính của hành tinh theo phương tiếp tuyến với quỹ đạo thì hành tinh sẽ bị hút vào Mặt Trời, vậy chuyển động quán tính ấy từ đâu mà ra?”. Newton đáp ngay: “Đó là cú hích ban đầu của Chúa!”. Ngày xưa thầy dạy vật lý của tôi kể lại chuyện này cho học trò nghe rồi kết luận: “Newton rốt cuộc vẫn là người duy tâm”. Ý thầy chê duy tâm là kém. Lũ trẻ nhỏ chúng tôi đứa nào chẳng tin thầy? Sau này lớn lên tôi mới vỡ nhẽ ra rằng một nhận định sai của giáo dục một khi đã được nhồi nhét vào đầu trẻ em sẽ để lại một hậu quả vô cùng tai hại đối với con người, và điều đó rất khó sửa chữa. Đó chính là tình trạng của thuyết tiến hóa hiện nay. Sau này tự đọc sách, tự suy ngẫm, tôi hiểu ra rằng chỗ thầy tôi chê Newton chính là chỗ để lộ thiên tài của Newton. Thiên tài hơn người tầm thường ở chỗ cảm nhận được cái gì là có thể, cái gì là không thể. Giải thích nguyên nhân đầu tiên là không thể! Nguyên nhân đầu tiên luôn luôn thuộc về Chúa. Tôi dám phát biểu điều đó như một định lý. Sự sống đầu tiên cũng vậy. Thuyết tiến hóa SAI vì nó bịa ra sự sống đầu tiên nẩy sinh từ “nồi soup nguyên thủy”. Hơn 150 năm sau vẫn không làm thế nào mà chứng minh được chuyện bịa này là sự thật. Thay vì thừa nhận chuyện bịa đó đã thất bại, các nhà tiến hóa lại bịa ra những giả thuyết mới, chẳng hạn giả thuyết về “thế giới RNA”, và cứ thế kéo một đám đông khờ dại cả tin đi theo họ. Đám đông này bị cuốn theo đống chữ nghĩa phức tạp hàn lâm mà cứ ngỡ đó là khoa học. Trong khi đó Newton rất tỉnh táo, ông không để cho ai có thể lung lạc được ông. Ông trả lời người chất vấn ông ngay tức khắc bằng một câu trả lời cần thiết nhất, dứt khoát nhất, như một bài học dạy cho người hỏi. Newton biết rõ ai tin Chúa, ai không tin. Hãy nghe ông nói: “Người suy nghĩ nửa vời sẽ không tin Chúa; nhưng người suy nghĩ thấu đáo sẽ phải tin Chúa” (He who thinks half-heartedly will not believe in God ; but he who thinks really has to believe in God).
3.Blaise Pascal (1623-1662) :
blaise pascalTôi đã thảo luận khá nhiều về Pascal trên tất cả những diễn đàn mà tôi từng tham gia, nhưng chưa bao giờ cảm thấy là đủ, vì nhiều lý do. Một, ông quá vĩ đại để có quá nhiều điều cho hậu thế học hỏi, bàn luận; Hai, ông là người Thiên Chúa giáo có Đức tin mãnh liệt, một nhà khoa học có uy tín lớn bênh vực Thiên Chúa giáo, vì thế ông bị giới vô thần ngấm ngầm chống đối bằng cách che đậy, tảng lờ các công trình của ông về triết học và thần học, sao cho càng ít người biết tư tưởng của ông càng tốt. Chính Pascal cũng biết điều đó. Ông nói: “Người ta khinh thường tôn giáo. Họ thù ghét nó nhưng sợ nó đúng” (Les hommes ont mépris pour la réligion. Ils en ont haine et peur qu’elle soit vraie). Vì thế tôi muốn giới thiệu với mọi người càng nhiều về Pascal càng tốt, nhất là về những gì bấy lâu nay ít người biết. Càng đọc Pascal, tôi càng ngạc nhiên và choáng ngợp vì tầm vóc và chiều sâu tư tưởng của ông. Ông chính là người đầu tiên chứ không phải Kurt Gödel đã thảo luận rất kỹ về tính hạn chế của toán học nói riêng và nhận thức lý lẽ nói chung. Đó là những công trình ông viết về cơ sở của Hình học, trong đó ông chỉ ra rằng không có cách nào để kiểm tra một hệ tiên đề là đầy đủ và tuyệt đối chắc chắn. Từ đó suy ra rằng toán học nói riêng và khoa học nói chung là không đầy đủ và không tuyệt đối chắc chắn. Nhận thức muốn vươn lên cao hơn, phải vận dụng “lý lẽ của trái tim” (la raison du Coeur), Pascal nói, “chính trái tim giúp ta nhận biết Chúa chứ không phải lý lẽ” (C’est le Coeur qui sent Dieu et non la raison). Nếu Gödel có gì khác Pascal, thì đơn giản là ông sinh sau đẻ muộn hơn Pascal gần 3 thế kỷ, và biến những luận điểm triết học khoa học của Pascal thành một định lý toán học không thể tranh cãi: Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness). Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong nhiều bài viết trên PVHg’s Home: “Lý lẽ của Trái tim” (La Raison du Cœur) ngày 05/12/2013, “LỬA của PASCAL” (PASCAL’s FIRE) ngày 16/12/2013; “VỀ TÍNH BẤT TOÀN: TỪ PASCAL ĐẾN GODEL (On the Incompleteness: From Pascal to Godel)” ngày 28/05/2015. Trong những bài đó, tôi đã trích dẫn một ý kiến của Pascal mà qua đó có thể thấy Pascal đánh giá thấp tư tưởng duy vật như thế nào: “Chủ nghĩa vô thần thể hiện sức mạnh của tinh thần, nhưng chỉ ở một mức độ nhất định mà thôi” (Athéisme marque de force d’esprit, mais jusqu’à un certain degré seulement).
4.Gregor Mendel (1822-1884) :
gregor mendelMendel là một tu sĩ Công giáo toàn tâm toàn ý, vì thế không có gì phải nghi ngờ Đức tin của ông đối với Thần. Trong cuốn “Các nhà khoa học có Đức tin” (Scientists of Faith), Dan Graves nhận xét về Mendel như sau: “Mặc dù ông đọc Darwin, nhưng ông không chấp nhận nhiều lý thuyết của Darwin, vì ông tin rằng Thần sáng tạo ra thế giới và sự ngẫu nhiên mù quáng không thể là lý do tạo ra thế giới…” (Although he read Darwin, he [Mendel] did not accept many of his [Darwin’s] theories, believing that God had created the world and blind chance could not be responsible for the outcome…) [1]. Chú ý rằng thuyết tiến hóa của Darwin nói rằng sự sống đầu tiên hình thành một cách ngẫu nhiên, mù quáng, vô mục đích từ vật chất không sống. Và đó là điều Mendel không thể nào chấp nhận được! Năm 1966, trong một hội nghị lớn tại Mỹ, các nhà toán học cũng thảo luận về xác suất để sự sống hình thành ngẫu nhiên từ các phân tử không sống. Hội nghị đã đi đến kết luận rằng xác suất này vô cùng nhỏ, nhỏ gần như bằng 0, và do đó sự sống không thể xẩy ra ngẫu nhiên. Nhà toán học Anh Fred Hoyle đặc biệt quan tâm tới thuyết tiến hóa, cũng đi đến kết luận rằng sự sống không thể hình thành từ “nồi soup nguyên thủy”. Mendel rất giỏi toán, không biết ông có nghĩ tới việc tính xác suất để phủ nhận Darwin hay không, nhưng trực giác thiên tài của ông đã đủ để ông bác bỏ Darwin. Xin lưu ý độc giả rằng thông tin Mendel bác bỏ Darwin bị giới tiến hóa che đậy trong hơn 150 năm qua. Hiện nay dưới ánh sáng internet, sự thật ngày càng được sáng tỏ. Từ đó tôi dám nói rằng ai đã thực sự ngưỡng mộ Mendel thì ắt phải bác bỏ Darwin. Trường phái “Darwin mới” (Neo-Darwinism) đã phải vội vàng kết hợp học thuyết di truyền của Mendel vào thuyết tiến hóa, nhưng thực chất đã phản lại chính Darwin, vì quan điểm về di truyền của Darwin hoàn toàn khác với các định luật di truyền của Mendel. Quan niệm di truyền của Darwin tiếp thu từ Lamark là một quan niệm hoàn toàn sai lầm, nhưng giới tiến hóa che đậy sự thật này, giấu nhẹm sai lầm của Darwin. Nhưng không che giấu được những người ham hiểu biết. Chỉ cần vào Google, gõ “what did Darwin learn from Lamark?”, sự thật sẽ lộ ra ngay.
5.Louis Pasteur (1822-1895):
louis pasteurNếu phải mô tả Pasteur bằng một câu ngắn nhất thì đó là : « Pasteur : Người con ưu tú của Chúa và ân nhân của nhân loại ». Giới vô thần không yêu mến Pasteur, vì ông có Đức tin Thiên Chúa giáo sâu sắc, và vì ông chống thuyết tiến hóa một cách rõ rệt. Tương tự như cách họ đối xử với Pascal, giới vô thần cố làm cho mọi người nhắc đến Pasteur càng ít càng tốt, đơn giản vì càng nhắc đến ông càng làm cho thuyết tiến hóa lộ diện là một lý thuyết ngụy khoa học. Đó là lý do vì sao người ta không tiếc lời ca ngợi Pasteur như cha đẻ của khoa học vi sinh (microbiology) và miễn dịch học (immunology), nhưng người ra rất ít nói đến Pasteur như một nhà khoa học lớn khám phá ra những nguyên lý cơ bản của sự sống. Cụ thể người ta rất sợ nhắc đến hai định luật cơ bản của sự sống do Pasteur khám phá: Định luật sự sống bất đối xứng (thuận tay trái) và Định luật sự sống chỉ ra đời từ sự sống (biogenesis). Lẽ ra những định luật mang tính cơ bản này phải được dạy trong chương trình Sinh học ở trường phổ thông. Nhưng chỉ có những sinh viên đại học chuyên ngành mới được học. Tại sao họ sợ hai định luật đó? Vì cả hai đều phủ nhận thuyết tiến hóa khi thuyết này nói rằng sự sống hình thành một cách tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Chương trình Sinh học ở trường phổ thông phớt lờ hai định luật cơ bản này và tiếp tục nhồi nhét vào đầu học trò kiến thức sai lầm rằng sự sống hình thành một cách ngẫu nhiên từ vật chất không sống, mặc dù không làm thế nào mà chứng minh được nhận định đó. Khi học trò trở thành người lớn, rất khó để sửa chữa nhận thức sai lầm này, ngay cả khi được trông thấy những bằng chứng rành rành tố cáo sự gian lận của thuyết tiến hóa. Đó là một thảm họa. Tôi tin rằng đến một ngày nào đó, khi thuyết tiến hóa hoàn toàn bị xóa bỏ, công lao của Pasteur sẽ còn được đánh giá cao hơn nữa. Nhưng bản thân ông, ông biết rõ rằng thành công của ông là nhờ có may mắn – ông “có Chúa ở bên trong”. Thật vậy, ông nói: “Người Hy-lạp hiểu được sức mạnh bí ẩn nằm bên dưới sự vật. Chính họ đã cho chúng ta một trong những từ ngữ đẹp nhất trong ngôn ngữ của chúng ta, đó là chữ “enthousiasme” (cảm hứng), chữ Hy-lạp là Εν Θεος , có nghĩa là ‘có Chúa ở bên trong’. Tầm vóc hành vi của con người được đo bởi niềm cảm hứng mà từ đó những hành vi ấy hiện ra. Hạnh phúc thay cho ai có Chúa ở bên trong”.
6.Henri Poincaré (1854-1912) :
henri poincareKhi còn là học sinh, Poincaré đã được mệnh danh là “con quỷ toán học” (monstre de mathématiques). Ở tuổi trưởng thành, giới toán học gọi ông là « Mozart của toán học ». Tổng kết cả cuộc đời, giới bác học mô tả ông như “the last Universalist” (nhà đại quảng bác cuối cùng), bởi khó có thể tưởng tượng được bề rộng của những mảnh đất toán học và vật lý mà ông đã khám phá ra hoặc đặt chân tới, rồi để lại ở đó những dấu ấn sâu sắc, những di huấn, những tư tưởng, những bài toán khổng lồ cho hậu thế tiếp tục khai phá. Nhà toán học đàn em nhưng cùng thời với ông, Bertrand Russell, người nổi tiếng với Nghịch lý Russell, không tiếc lời ngợi ca Poincaré là “nhà toán học vĩ đại nhất đang còn sống”, bất chấp sự hiện diện của những nhà toán học lớn đương thời khác như David Hilbert,… Có thể quên công trình nào đó của Poincaré, nhưng không được phép quên ông là cha đẻ của Topo Đại số, cha đẻ của Giả thuyết Poincaré, người đầu tiên định hướng cho lời giải tổng quát của Bài toán Ba Vật thể (Problème à Trois Corps), người đặt nền móng cho Lý thuyết Hỗn độn (Theory of Chaos), đồng tác giả của Thuyết Tương đối hẹp, và đặc biệt, một nhà triết học khoa học nhìn xa trông rộng, kẻ thù số 1 của chủ nghĩa toán học hình thức do Hilbert cầm đầu… Chỉ cần ghé qua tiểu sử khoa học của ông, một người trung thực không thể không có cảm giác khiếp sợ trước những công trình sáng tạo vĩ đại của ông, cả về số lượng lẫn tầm vóc khổng lồ về tư tưởng. Một người vĩ đại như thế mà vẫn biết rằng có Thần, và Thần chính là tác giả của những quy luật vũ trụ được diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học: “Nếu Thần nói với con người, không nghi ngờ gì nữa rằng Ngài sử dụng ngôn ngữ toán học” (If God speaks to man, He undoubtedly uses the language of mathematics), Poincaré nói [2].
7.Max Planck (1858-1947):
max planckLà cha đẻ của Thuyết Lượng tử, Planck ắt hẳn phải là một nhà tư tưởng. Đối với ông, Thần là nhu cầu tất yếu của cả tôn giáo lẫn khoa học. Ông nói: “Cả tôn giáo lẫn khoa học đều cần đến Đức tin vào Thần để phụng sự cho hoạt động của mình, hơn nữa, tôn giáo cần có Thần ngay từ lúc khởi đầu, khoa học cần đến Thần vào lúc kết thúc toàn bộ tư duy. Đối với tôn giáo, Thần là nền tảng, đối với khoa học, Thần là đỉnh cao nhất của bất kỳ lý lẽ nào liên quan đến vũ trụ quan” (Both religion and science need for their activities the belief in God, and moreover God stands for the former in the beginning, and for the latter at the end of the whole thinking. For the former, God represents the basis, for the latter – the crown of any reasoning concerning the world-view).
8.Albert Einstein (1879-1955):
albert einsteinEinstein nổi tiếng là người hay nhắc đến Thần như Đấng Sáng tạo vũ trụ và tác giả của các định luật vũ trụ. Ông yêu Cái Đẹp và Cái Trật tự say đắm đến nỗi tin chắc rằng Thần bao giờ cũng ngay ngắn rõ ràng mạch lạc đẹp đẽ, Thần không thể chơi trò may rủi ú tim nước đôi lập lờ. Vì thế ông chống đối Nguyên lý Bất định đến cùng, và điều đó làm rạn nứt tình bạn vốn có giữa ông với Niels Bohr. Mặc dù Thần của Einstein không phải là Chúa của Thiên Chúa giáo, nhưng ông cho rằng niềm tin vào Thần của ông, Đấng Sáng tạo, là điều ắt phải có đối với một nhà khoa học. Thậm chí ông coi đó là một tôn giáo đích thực. “Khoa học không có tôn giáo là khoa học khập khiễng; tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng” (Science without religion is lame; Religion without science is blind). Hóa ra Einstein đã phát biểu một chân lý rõ ràng rằng khoa học và tôn giáo rất cần thiết có nhau, bổ sung cho nhau, thay vì loại trừ nhau như chủ nghĩa duy vật tuyên bố. Nói cách khác, Einstein đã mặc nhiên bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học tôi càng tin vào Thần” (The more I study science, the more I believe in God).
9.Werner Heisenberg (1901-1976):
chủ nghĩa duy vậtSau khi Einstein và Bohr mất, Heisenberg được tôn vinh như nhà vật lý số 1 của thế giới. Ông đã phạm sai lầm lớn về chính trị khi làm giám đốc chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Hitler. Có lẽ việc này để lại trong lòng ông một nỗi hối hận suốt đời. Theo những gì tôi biết, ông là người ngây thơ về chính trị, nhưng ông không phải kẻ ác. Đây là vấn đề thuộc về lịch sử, đáng để cho những ai yêu lịch sử tìm hiểu kỹ. Nhưng về triết học và vũ trụ quan, ông là người vô cùng sâu sắc. Ông nhắn nhủ các nhà khoa học rằng: “Ngụm nước đầu tiên từ cốc nước khoa học tự nhiên sẽ biến bạn thành một người vô thần, nhưng ở đáy cốc Thần đang đợi bạn” (Der erste Trunk aus dem Becher der Naturwissenschaft macht atheistisch, aber auf dem Grund des Bechers wartet Gott). Đối chiếu câu nói này của Heisenberg với câu nói của Pasteur ở trên (mà tôi lấy làm tiêu chuẩn đo lường tri thức của các nhà khoa học), ta thấy hai câu nói giống nhau đến mức có thể nghĩ rằng “Heisenberg nhắc lại lời Pasteur chăng?”. Không! Đó là “tư tưởng lớn gặp nhau!” (Les grands esprits se rencontrent!)
10. Kurt Gödel (1906-1978):
kurt godelToàn bộ bài viết mà độc giả đang đọc có thể xem như một bình luận về tư tưởng của Gödel. Có lẽ Gödel là nhà khoa học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thẳng thắn nhất, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất. Chúng ta đã thấy nhiều bậc tiền bối của Gödel có những suy nghĩ rất giống ông, điển hình là Blaise Pascal, hay sau này là Max Planck. Nhưng công lao và thiên tài của Gödel là ở chỗ ông đã biến tất cả những nhận định mang tính triết học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thành những định lý toán học không thể tranh cãi được. Thiết tưởng nếu không có Định lý Bất toàn của ông thì không biết những trường phái duy vật và vô thần như Hilbert sẽ còn làm mưa làm gió đến bao giờ. Bài báo “Gödel chứng minh Thần hiện hữu (Gödel proved that God Exists)” trên PVHg’s Home ngày 17/09/2014 đã cung cấp cho độc giả một cái nhìn tương đối đầy đủ về vũ trụ quan và tư tưởng triết học và thần học của Gödel. Nhưng sau khi trình bầy 14 quan điểm triết học của Gödel (nội dung bác bỏ chủ nghĩa duy vật và khẳng định sự cần thiết của Đức tin) bài báo đã kết luận bằng lời của Thánh Thomas Aquinas rằng “Đối với người có đức tin, không cần có sự giải thích nào cả. Đối với người không có đức tin, chẳng có lời giải thích nào là đủ” (To one who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is possible). Nhận định đó thật chí lý.


Phạm Việt Hưng

Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016

Nhạc sĩ Tuấn Khanh : Cái ác trỗi dậy, vì người Việt không còn niềm tin

 
Ảnh từ internet, của tác giả KiraUsagi
Người Việt đang bị đay nghiến là những kẻ độc ác với đồng loại. Rất nhiều chứng cứ cho thấy tâm tính ngàn đời của dòng giống Lạc Hồng đang vào cơn lốc thay đổi đến chóng mặt: hàng ngàn người va chạm nhau trong dịp lễ Tết, xung đột đến mức vào bệnh viện, nông dân âm thầm bỏ hóa chất vào ruộng đồng, người chăn nuôi bơm thuốc độc vào sản phẩm trước khi mang ra chợ. Đất nước như đang vào một cuộc nội chiến không tên gọi. Cuộc chiến không có người chiến thắng mà chỉ có tự hủy diệt như trong đấu trường La Mã Colosseum, còn những kẻ chủ mưu nào đó thì hò hét và vỗ tay trên các khán đài.
Hóa ra, như cách nói hiện nay thì người Việt âm ỉ mang cái ác trong lòng từ lâu, chỉ chờ thời cơ để bùng nổ hay sao? Dân tộc ngàn đời sống với lúa nước, với chài lưới hiền lành lại giao truyền lại cho nhau tính hiếu sát?
Thật khác biệt với những gì lịch sử ghi chép về một đất nước mà Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo để không phải mở đại sát giới, phát lương thực cho kẻ quy hàng hồi hương. Bạn có nghĩ giống tôi không, rằng dân tộc mình không như những gì đang thấy, mà đang vào giai đoạn bị bỏ độc vào tư duy, trở nên biến dị lạ thường.
Trong một lần được chất vấn về thế nào là sức mạnh, Đức Phật đã trả lời rằng “hiền lương mạnh nhất”. Bởi hiền lương không tạo ra kẻ thù, và cũng không thể có kẻ thù. Hiền lương sống và tồn tại với thế gian trong tâm thế hợp nhất, không gì có thể đổi dời được. Dân tộc Việt Nam trãi qua hàng ngàn năm luôn chiến thắng mọi sức mạnh bên ngoài bởi không cí ham muốn dùng sức mạnh nào để cướp đoạt hay thống trị. Mà chính sự hiền lương của một dân tộc biết nhớ thương mái đình, ngôi làng, con trâu, mảnh lưới… của mình khiến họ cuỡng lại được mọi loại cường quyền. Người Việt hôm nay rất mạnh và khác biệt. Người Việt thích khoe sức mạnh, thích giới thiệu đẳng cấp và vượt lên hào nhoáng trên đám đông. Người Việt đang trong một quá trình lọc máu tim mình, học đòi theo những hình mẫu khác và đânh mất dần sức mạnh thật sự của mình là sự hiền lương.
Vì sao đánh mất sự hiền lương? Cuộc sống hôm nay quá đỗi eo sèo, đang hối thúc những con người chân chất nhất phải nhìn lại mình, rằng mình có đang rất ngu ngốc không giữa cuộc đời đang ngày càng ích kỷ và vô tâm này. Vài năm trước, người ta đọc tin một đôi vợ chồng trẻ ở Bắc Kinh bán đứa con nhỏ để mua iphone đời mới. Ít lâu sau ở Việt Nam đã có người giết ông bà của mình để lấy tiền chơi game. Ở Thượng Hải từng có video đường phố, ghi lại cảnh đứa con khỏe mạnh đánh đập cha mẹ già giữa đường vì tức giận phải mang vác chữ hiếu trong khi muốn tận hưởng đời riêng. Không lâu sau, Việt Nam cũng nổi lên những câu chuyện tương tự, làm nát lòng những người tử tế trên đất nước mình, với câu hỏi vì sao?
Hãy nhớ lại cách đây không lâu, người Trung Quốc từng tố cáo các loại thực phẩm độc hại, quảng bá các công ty, cá nhân ở Trung Quốc đang không màng đến sống chết của người khác, miễn là được tư lợi. Thật nhanh chóng, làn sóng này ập đến Việt Nam, quy mô hơn và ác hiểm hơn. Việt Nam và Trung Quốc như trong trong câu chuyện thế giới song song của Nobieta và Doraemon. Soi vào nhau, chúng ta đang thấy mọi thứ hiện ra của đường trượt dài vào cái chết. Hãy tự hỏi mình là vì sao chỉ có Việt Nam và Trung Quốc, chứ không có nơi nào khác sát đường biên như Thái Lan, Lào, Campuchia hay thậm chí là Mông Cổ, Tây Tạng?
Người dân của đất nước Trung Hoa vĩ đại đang coi cuộc sống của mình trên quê hương như những dự án ngắn hạn và tạm thời. Khi cảm thấy thu thập đủ họ sẽ ra đi và để lại phần khốn khó nhất cho tất cả những người ở lại, mà họ đã tàn hại và bóc lột được. Họ không còn niềm tin trên quê hương mình ngoại trừ những kẻ đang vẫn còn được quyền lợi hay những kẻ đang còn tận dụng những âm mưu để nạo vét đất nước mình. Khi ôm đủ những đồng tiền đầy máu và rũ bỏ sự hiền lương, họ sẽ rời khỏi đất nước không nuối tiếc. Người Việt cũng đang có những khuynh hướng không khác gì. Những dự án ngắn hạn như vậy cũng đang hoành hành trên đất nước này. Có thể nhiều người sẽ không có một cơ hội để ra đi nhưng ít ra, họ tự an ủi rằng họ có thể sống sót ở một thế giới mà họ còn quá ít niềm tin.
Chắc sẽ có người nói rằng, dẫu sao thì người Việt cũng ác, nhưng cái ác không tự sinh ra. Cái ác là một tập tính, tiếng vỗ tay và lời hò reo hiểm độc từ các hàng ghế của bọn quan lại trong đấu trường Colesseum. Cái ác của chúng ta và người bạn Trung Quốc, lúc này, cũng hết sức cá biệt trên thế giới.
Tháng 9/2015, có một tai nạn kinh hoàng diễn ra ở thung lũng Mina, gần thánh địa Mecca, Saudi Arabia. Một vụ ùn tắc nhỏ trong đám đông hàng chục ngàn người hành hương đã dẫn đến sự hỗn loạn, biến thành thảm kịch giẫm đạp lên nhau để thoát ra ngoài, gây nên 2000 người chết và bị thương. Đám đông hiền lành và đầy đức tin đó, trong tích tắc đầy hoảng sợ và không  còn lối thoát đã trở thành những kẻ đạp lên đồng loại của mình một cách không thương tiếc, tìm cách sống sót, bất chấp mình có thể phải giết một ai đó.
Cái ác của người Việt trong cuộc sống, được nói tới lúc này, cũng như những kẻ hành hương mang trái tim hiền lương đi về phía trước, nhưng rồi bất ngờ phải tàn bạo để có thể sống sót.

Đức Phật nói con người hiền lương là con người mạnh mẽ nhất. Chúng ta đang bị đầu độc tư duy để làm suy nhược sự hiền lương của dân tộc này, đất nước này. Sự hiền lương vốn được chứng nhiệm ở đất nước Miến Điện, nơi chính quyền phải buông súng để nhường chỗ cho những cánh hoa sứ cài trên tóc. Sự hiền lương khiến họ cũng đủ niềm tin để gọi tên Trung Quốc là kẻ ác, và từ chối đánh mất mình

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

THANH HIEU BUI: Truyền thống hữu nghị lâu đời từ khi nào.?

Báo Việt Nam đưa tin bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn sẽ sang Việt Nam để phản bác những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc về tình hình thắm thiết giữa hai nước Việt Nam.
Điều khôi hài là bài báo nhắc có đoạn.
Trích.
''Hai bên sẽ đánh giá kết quả hợp tác quốc phòng trong thời gian qua, thống nhất nội dung, biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng song phương giữa hai nước thời gian tới đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực; góp phần củng cố, phát triển mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa quân đội và nhân dân hai nước ''
Hết trích.
Từ lâu đời có thể định nghĩa thế nào? Tính theo kết quả điều tra mới nhất thì tuổi thọ của đời người Việt Nam trung bình là 72 tuổi.
Nếu như vậy, mối quan hệ truyền thống của Việt Nam với Trung Quốc không thể hữu nghị nổi nửa đời. Bắt đầu cuộc chiến xâm lược từ năm 1979 ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc, đốt phá làng mạc và giết chóc người dân Việt Nam một cách tàn bạo, đối xử dã man với tù binh Việt Nam. Đến năm 1988 tức cách đây chưa được 30 năm, Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma hạ sát 64 chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam.
Kéo dài từ đó đến nay, quân đội Trung Quốc tiếp tục thôn tính biển đảo của Việt Nam và tàn sát ngư dân Việt Nam.
Nói về lâu đời, lịch sử Việt Nam phải đến cả ngàn năm gồng mình chống chọi với sự xâm lược của Trung Quốc. Chính xác thì quan hệ lâu đời của Việt Trung là quan hệ xâm lược và chống xâm lược.
Vậy là chuyến thăm của bộ trưởng Trung Quốc đến Việt Nam là để xuyên tạc chứ không phải để chống xuyên tạc. Một sự xuyên tạc lịch sử trắng trợn được chế độ cộng sản Việt Nam tô vẽ ra.
Nhưng có lẽ đời ở đây không phải là đời người như người bình thường hay nghĩ. Đời ở đây là đời của những người cộng sản chóp bu cầm quyền, tính theo nhiệm kỳ của họ. Như người ta hay tính đời Tổng bí thư này, đời tổng bí thư kia. Nếu tính thế thì bắt đầu từ đời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh đến đời Nguyễn Phú Trọng được cả thảy 6 đời.
Hoá ra cái lâu đời ở đây là đời nhiệm kỳ của các Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, không phải là đời người. Thật nhập nhèm và bịp bợm để mê hoặc dân chúng quên đi những thảm khốc mà quân đội Trung Quốc đã gây ra mới đây cho người dân Việt Nam.
Theo như thông báo thì Thường Vạn Toàn sẽ sang thăm và làm việc tại Việt Nam từ ngày 27 tháng 3 đến ngày 31 tháng 3. Một chuyến thăm và làm việc quá dài của một bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc. Thường Vạn Toàn phải ở lại Việt Nam lâu đến thế để thực hiện gì, chả lẽ chỉ là cuộc viếng thăm, trao đổi hàn huyên đến nỗi bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc phải kéo dài dầm dề bao nhiêu ngày ở Việt Nam như vậy.?
Các thông tin liên quan cho biết, Hoa Kỳ đang nỗ lực đầy mạnh các biện pháp đảm bảo an toàn cho hàng hải ở khu vực biển Đông và chủ quyền cho đồng minh Phi Luật Tân. Chuyến thăm dài ngày của Thường Vạn Toàn ắt là để kiểm tra tình hình thái độ của quân đội Việt Nam, giáo huấn và răn dạy quân đội Việt Nam phải đi vào khuôn khổ mà lãnh đạo Đảng cao cấp hai nước đã thống nhất. Ngăn chặn những tư tưởng trong quân đội và nhân dân Việt Nam có xu hướng muốn hợp tác quân sự với Hoa Kỳ trong tình huống bất ngờ. Ví dụ như tình huống Trung Quốc đột ngột gây chiến ở biển Đông. Bởi thế bài báo có đoạn nhắc đến hai bên thảo luận tình hình khu vực và chia sẽ những vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng hai nước và Thường Vạn Toàn sẽ thăm một số đơn vị quân đội Việt Nam. Cũng như Toàn sẽ gặp hai đầu não thống lĩnh trong quân uỷ trung ương Việt Nam là Nguyễn Phú Trọng và Ngô Xuân Lịch.
Quân uỷ trung ương là cái đầu chỉ huy quân đội , chuyền đi thăm của Thường Vạn Toàn là nắm cái đầu của quân đội nhân dân Việt Nam, làm tê liệt và thuần phục não bộ đó.
Nhưng đổi lại Thường Vạn Toàn cũng sang để giúp sức cho bộ sậu lãnh đạo mới của Đảng cộng sản Việt Nam là Nguyễn Phú Trọng, Ngô Xuân Lịch , Trần Đại Quang được tiếp nhận quyền lực cai trị Việt Nam được suôn sẻ.
Ngày 30 và ngày 31 tháng 3 quốc hội Việt Nam bầu chủ tịch quốc hội mới, chủ tịch nước mới, sau đó chủ tịch nước sẽ trình quốc hội bãi miễn thủ tướng cũ. Đây là một việc làm vi hiến, vì quốc hội cũ đã hết nhiệm kỳ. Lẽ ra phải đợi quốc hội mới thành lập bãi miễn và bầu ra các chức danh trên.
Chính vì vi hiến như vậy, e ngại những biến cố có thể xảy ra. Nguyễn Phú Trọng đã cầu cứu sự có mặt của Thường Vạn Toàn ở Việt Nam.
Thử hỏi ai dám chính biến khi bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc đang ở Việt Nam. Một cuộc dập tắt chính biến dưới chiêu bài đưa quân giải cứu bộ trưởng quốc phòng của Trung Quốc ắt sẽ xảy ra. Với các nước nào thì còn e ngại, trong thời điểm truyền thống hữu nghị quân đội hai nước như Việt Nam và Trung Quốc như bây giờ thì điều ấy đâu có gì phải đắn đo.
Bởi thế, để đảm bảo thắng lợi trọn vẹn cho cái đầu não đã nắm được thóp, Thường Vạn Toàn phải thân chinh sang canh giữ cuộc tiếm ngôi vi hiến của hàng ngũ lãnh đạo mới Việt Nam được an toàn. Thường Vạn Toàn phải ăn nằm dầm dề đến tận ngày 31, khi mọi việc đã êm thắm mới về nước.
Vì sao Thường Vạn Toàn chỉ cần ở đến ngày 31 tháng 3 khi quốc hội Việt Nam bầu xong chủ tịch quốc hội mới, chủ tịch nước mới. Mà không cần đến ngày 7 tháng 4 quốc hội bãi miễn thủ tướng. ?
Vì không cần thiết. Lúc ấy chủ tịch nước mới Trần Đại Quang đã là tổng tư lệnh quân đội rồi. Ông ta sẽ cùng chủ tịch quân uỷ trung ương Nguyễn Phú Trọng, bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch đủ sức và công cụ đảm bảo giữ gìn cái gọi là truyền thống hữu nghị quân đội lâu đời, đập tan các luận điệu xuyên tạc về quan hệ quân đội hai nước.
Như thế quan hệ hữu nghị hai nước Việt Trung ít ra cũng thêm được đời nữa bảo đảm vào khuôn khổ.

Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2016

Trịnh Cung - Bi Kịch Trịnh Công Sơn


Tôi gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1958 tại Huế; lúc đó Sơn khoảng 17 tuổi và tôi 18 tuổi. Chúng tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn thi ca, và bởi vì lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ.
Sơn thích thơ của tôi và đã phổ bài "Cuối cùng cho một tình yêu" năm đó. Trước đó, Trịnh Công Sơn đã viết "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi". Ngôn ngữ của "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi" còn nhẹ nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng của Ðặng Thế Phong trong "Giọt Mưa Thu" hoặc "Buồn Tàn Thu" của Văn Cao – nhưng đến khi Sơn phổ nhạc bài thơ của tôi, nhạc của Sơn bắt đầu một chương khác, do ngôn ngữ của bài thơ lúc đó rất là mới. Tôi đã dùng những chữ "đói", "mỏi" trong thơ, mà lúc này Sơn lại thích bài thơ đó.
Tuy nhiên theo tôi, bài Diễm Xưa của Sơn mới là mở đầu của một TCS hoàn toàn mới lạ và cực kỳ hấp dẫn trong nhạc trẻ, giới trẻ hồi đó.
Cuộc đời của Sơn là một bi kịch. Ba của Sơn mất lúc anh đang học ở Chasseloup Laubat - một trường dạy chương trình Pháp - và đang chuẩn bị thi bac thì Sơn phải bỏ học để về chịu tang ba.
Sơn rất giỏi thể thao. Anh tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trường học. Sơn cũng giỏi về NhuÐạo và Boxing. Trong một buổi dợt với người em là Trịnh Quang Hà - anh đã bị một cú choàng vai, và bị tổn thương phổi rất nặng, nên phải bỏ cuộc, và nằm dưỡng bệnh hai năm. Nếu Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác sĩ, một kỹ sư ... chớ không phải là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Tôi cho biến cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng. Sơn tập chơi guitare, tự học guitare với một người bạn, rồi sau đó viết ca khúc "Ướt Mi", "Nhìn Những Mùa Thu Ði".
Khi tôi gặp Sơn, thì anh đã bình phục - Sơn không có điều kiện trở lại Sài Gòn để học tiếp ở Chasseloup Laubat vì gia đình anh bị phá sản,
Sau đó - để tránh cho Sơn khỏi phải đi quân dịch, một số bạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha đã giúp Sơn thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn.
Ca khúc Biển Nhớ đã ra đời tại trường sư phạm Quy Nhơn – trong thời gian này. Và nhân vật để Sơn viết bài Biển Nhớ là một người bạn gái có tên là Khê, nên có cái câu "Ngày mai nối bước Sơn Khê."
Sau đó Sơn lên B'Lao nhận chức trưởng giáo của một trường Thượng có hai lớp, cách nhà trọ khoảng năm bảy cây số. Sơn phải đạp xe vào làng để dạy. Tôi lên thăm Sơn, và đưa Sơn raÐà Lạt để chơi cuối tuần - một căn phòng trọ với bốn bức vách đầy chim và bao thuốc lá Bastos - ở đó Sơn đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của anh với những bài nhưÐàn Bò Vào Thành Phố, như Khi Mặt Trời Ngủ Yên, như Tiếng Hát Dạ Lan. Và đó cũng là thời gian anh viết những ca khúc về thân phận, và những tình khúc.Ðó chính là thời điểm tôi và Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc nhỏ ở Ðà Lạt.
Thật ra, người hát đầu tiên nhạc Trịnh Công Sơn và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn biết đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh Thúy. Sau đó Trịnh Công Sơn viết bài Thương Một Người để tặng cho chị với câu: "thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi vai..."
Tuy nhiên, theo tôi, người giữ lái con đò âm nhạc của TCS trên dòng sông của đất nước chính là Khánh Ly kể từ khi Diễm Xưa ra đời. Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ trông rất là nhếch nhác ở Ðà Lạt lại là một định mệnh. Sơn đi tìm một người ca sĩ trẻ - hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu từ giọng hát của người ấy với sự tập luyện của chính anh, bởi vì lúc đó Sơn không quen biết những ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn. Và anh nghĩ dễ hơn là đi tìm một ca sĩ vô danh như Khánh Ly lúc đó. Ánh sáng của định mệnh đã chỉ cho Sơn đến với Khánh Ly - và từ đó Khánh Ly đã tìm được nơi nương tựa và nơi phát triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao.
Chúng tôi khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy học - một cái nghề không thích hợp và không xứng đáng với Sơn. Tôi có căn phòng rất nhỏ ở đường Trương Minh Giảng. Sơn từ Ðà Lạt về và đã ở lại với tôi trong nhiều năm. Căn phòng đó ở gần chợ Trương Minh Giảng, bên kia đường là nhà của Bùi Giáng - cũng trong một cái xóm nghèo. Nhà tôi là nơi tạm trú đầu tiên của TCS khi anh về Sài Gòn. Chính họa sĩ Ðinh Cường một trong những người bạn rất thân với Sơn - cũng thường ghé đến đó.Ðôi khi ba chúng tôi ngủ chung trong một chiếc chiếu, và đã sống với nhau bằng đồng tiền dạy học của tôi.
Từ đó Sơn gặp anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn. Anh bắt đầu xuất hiện tại sân trường Ðại Học Văn Khoa ở đường Lê Thánh Tôn nơi có trụ sở của Hội Họa Sĩ Trẻ và sau lưng đó là trụ sở của CPS nơi mà Ðỗ Ngọc Yến, TrầnÐại Lộc, Hà Tường Cát... đã hoạt động chương trình mùa hè ở đó.
Tại sân cỏ này, Sơn đã giới thiệu Khánh Ly và chị đã đi chân trần và hát cho Sinh Viên nghe. Rất nhanh họ trở thành thần tượng của tuổi trẻ Sàigòn, do tính chất mới mẻ và trẻ trung của nó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng âm nhạc ngay lúc đó.
Phong trào du ca, của anh Nguyễn Ðức Quang,... đã ra đời cùng thời điểm đó. Tôi cho đó là một thời điểm lịch sử - thật sự bùng nổ về văn nghệ của giới trẻ trong đó có chúng tôi - hội họa sĩ trẻ Việt Nam.
Chính thời đại đã sản sinh ra những hiện tượng như vậy và TCS và Khánh Ly đã là những khuôn mặt nổi bật trong giới trẻ bấy giờ.
Trịnh Công Sơn - nối tiếp cao trào đo ù- đã dấn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm nhạc của mình gần gũi với xã hội, và thời cuộc đất nước hơn. Những Ca Khúc Da Vàng, rồi đến Kinh Việt Nam ra đời trong giai đoạn này. .
Người ta gọi nhạc Trịnh Công Sơn - ở một số ca khúc - là nhạc phản chiến . Tôi đồng ý với anh Phạm Duy, chữ "phản chiến" không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả của sự thất bại của Miền Nam . Tôi cho là chữ "thân phận" của người Việt thì khái quát hơn.
Một thanh niên Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào, vẫn đầy sự hồn nhiên, và vẫn đầy lòng lương thiện để có một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công bằng, cho sự không đổ máu , cho sự đoàn kết, cho sự thương yêu ... và cái chất đó có hầu hết ở chúng ta, và có hầu hết ở các lứa tuổi đang bước vào Ðại Học ... nhưng tuổi trẻ không bao giờ lường trước được những âm mưu của chính trị - cho nên sự hồn nhiên đó phải trả giá.
Trịnh Công Sơn viết những bài Nối vòng tay lớn, Huế-Sài Gòn-Hà Nội 20 năm xa vẫn còn xa ...Ðể làm gì? Ðể ước mơ đất nước hòa bình thống nhất - để ước mơ anh em bắt tay nhau khi mà người di cư đã viết về "Hà Nội ơi ta nhớ...", thì rõ ràng không ai lại không nhớ Hà Nội nếu bỏ quê hương ra đi, không ai không muốn gặp lại người thân ... thì Trịnh Công Sơn đã đứng làm kẻ chịu vác cái thánh giá đó với bao nhiêu bi kịch sau đó .
Tôi và Sơn là hai người bạn, khác nhau hai hoàn cảnh. Tôi là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi chấp nhận đi Thủ Ðức bởi vì tôi không muốn sự bất hợp pháp. Tôi là một công dân tôi phải làm việc của người công dân, cho dù là chính quyền đó có thối nát, có gì đi nữa - tôi không chấp nhận sự bất hợp pháp cho nên tôi đi lính. Tôi thi hành nghĩa vụ của mình. Còn Sơn thì khác, anh không chấp nhận chuyện đó, Sơn chỉ đi vì lý tưởng của mình.
Bởi vì chúng ta là những con người chọn dân chủ, chọn tự do thì phải tôn trọng tự do của kẻ khác; vì vậy cho nên chúng tôi vẫn chơi với nhau trong tình người, còn việc làm của ai thì người đó đeo đuổi riêng của họ.
Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Ðỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ đề nghị Sơn đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn đi Hoa Kỳ nhưng mà Ðỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở lại. Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba năm.
Còn Sơn cũng không hơn tôi đâu. Khi các bạn đã rời khỏi đất nước ngày 30 tháng Tư, có lẽ các bạn không biết chuyện gì đã xảy ra cho Sơn. Sơn phải trốn ra Huế sau khi được đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu bởi vì tính chất hai mặt của Sơn trong âm nhạc và tính chất hai mặt của Sơn trong cuộc đời. Bởi vì Sơn là bạn của những nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn. Sơn đã từng viết Cho Một Người Nằm Xuống về cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời với Hai Mươi Năm Nội Chiến từng ngày, thì điều đó người cộng sản không chấp nhận. Tôi nghe kể lại cuộc họp ở trong khu người ta lên án Trịnh Công Sơn.
Chúng ta không biết bi kịch đó cho nên chúng ta có những ngộ nhận đáng tiếc. Sau đó Sơn phải về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy vọng là họ sẽ giúp đỡ mình; nhưng, tránh võ dưa gặp võ dừa, ở đây Sơn còn bị nặng hơn nữa là bị tố cáo tại các trường học, các biểu ngữ giăng lên. Sơn phải lên đài truyền hình Huế nhận lỗi của mình - mà người ta gọi là bài thu hoạch. Sơn rất khéo léo trong bài nhận lỗi đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe - Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý bài đó, nói phải viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy chưa?
Người ta quyết liệt ghê gớm lắm trong sự kiểm soát. Sơn đã đóng cửa nhà mình, không tiếp Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nhiều năm. Sau đó, Sơn phải đi thực tế, tức là đi để biết người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần; một con trâu đã cứu Sơn khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp.
Bởi vì tài năng âm nhạc của Sơn quá lớn, cho nên trong số những người lãnh đạo đất nước đó, cũng có người khôn ngoan hơn, biết cách thức hơn để giữ Sơn lại bằng cách bao bọc cho Sơn khỏi những tình huống hiểm nghèo như vậy. Họ đã tìm cách đưa Sơn về Sài Gòn, trả lại hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện để cho Sơn yên tâm sống ở Sài Gòn.
Rất nhiều người nghe nhạc Sơn thầm lén nhất là từ miền Bắc, trong đó có nhiều đảng viên cộng sản, nhưng không ai dám công khai thừa nhận nhạc của Sơn là tài sản của đất nước và Sơn không được phổ biến âm nhạc lúc đó - hiển nhiên âm nhạc hải ngoại là phản động. Ngay cả Sơn còn không được phổ biến, mà phải đợi một thời gian đổi mới và cải tổ. Vì vậy cho nên, Sơn là một bi kịch thu nhỏ của bi kịch đất nước. Và Sơn đã nghe được những luận điệu chống mình ở tại hải ngoại, nên Sơn rất sợ mặc dù có nhiều lời mời ở các đại học. Sơn đều không dám đi. Sơn từ chối, vì Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ đả đảo sẽ gây ra những nguy hiểm cho Sơn. Cho đến ngày Sơn mất. Có người đã về đề nghị đưa Sơn sang đây để thay gan cho Sơn miễn phí nhưng Sơn cũng từ chối.
Trong thời gian 25 năm sau ngày mất Sài Gòn, tôi cũng kẹt ở lại - tôi đã chơi với Sơn, và tôi đã không làm gì được cho Sơn - để Sơn bị một căn bịnh đã dẫn tới hậu quả tàn khốc, tức là nghiện rượu. Bởi vì buồn, bởi vì cô đơn, bởi vì không biết sử dụng thời gian để làm gì ... vì những ca khúc viết ra đều bị phê bình nặng nề - như bài "Em ra đi nơi này vẫn thế ..." ở bên này cũng kết án bài đó - ở bên kia lại kết án là "Tại sao đất nước đã thay da đổi thịt mà anh lại viết là em ra đi nơi này vẫn thế? Sài Gòn vẫn còn nguyên à?" Người nghệ sĩ luôn đi giữa hai lằn đạn! Có ai hiểu được là Sơn cô đơn như thế nào!
Và trong nhiều sáng tác của anh, nếu chúng ta tinh ý, thì chúng ta sẽ thấy tư tưởng của TCS sau ngày mất nước. Sơn đã viết "Đường chúng ta đi, đi không bao giờ tới ..." Những ca khúc nói lên sự quạnh quẽ, sự tuyệt vọng, sự bất an của mình.Ðó là một dòng nhạc đặc biệt mà có người không hiểu chê là thua những ca khúc anh viết trước 75 để chỉ chấp nhận tình khúc của anh mà thôi. Chúng ta không biết đến một dòng nhạc triết lý và đầy đau thương đã ra đời một cách lặng lẽ âm thầm.
Ngay cả bài Nhớ mùa thu Hà Nội cũng đã bị cấm hai năm - chỉ vì câu - chỉ vì câu gì các bạn biết không? Mùa Thu - chữ Mùa Thu Hà Nội đã trở thành thuật ngữ Cách Mạng Mùa Thu - thì TCS đã viết "Từng con đường nhỏ sẽ trả lời cho ta ... đi giữa mùa Thu Hà Nội để nhớ một người và nhớ mọi Người ..."
Người ta đặt câu hỏi: Nhớ một người là nhớ ai? Và từng con đường nhỏ tại sao lại phải trả lời? Hà Nội, những con đường của Hà Nội tại sao lại phải trả lời? Trả lời cho ai? Trả lời cái gì? Ðó là nhớ Khánh Ly và Khánh Ly sẽ đem phục quốc về ... Với sự suy diễn như vậy , méo mó như vậy, bài hát đó đã bị cấm hai năm. Các bạn có biết cái nỗi đau của người sinh ra đứa con tinh thần như thế nào?
Và chúng ta sai hay đúng, hãy tự soi lấy mình - khoan kết án người khác sai hay đúng - bởi vì trong chúng ta cũng đều bị lừa dối ! Chúng ta đã trưởng thành chưa sau nhiều lần bị lừa dối về chính trị - thì chúng ta đừng trách Trịnh Công Sơn và đừng trách những người nghệ sĩ nhạy cảm và chân thật với cuộc đời với con người.
Tôi xin kết thúc ở đây - để dành thời gian cho các bạn khác - tôi là một người bạn - là một nhân chứng sống trong nhiêu năm với TCS. Những ngày tháng cuối cùng của anh, tôi đã ở bên anh mỗi lần tôi có mặt ở Việt Nam. Buổi sáng, tôi ngồi với anh dưới bóng cây để uống trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ, để nói với nhau một vài thông tin về bạn bè - rồi đi về. Sơn ngồi ở cái vườn trên gác nhà anh, có một cây hoa sứ già 28 năm, một giàn hoa giấy ... nó đã trở thành một cánh rừng nhỏ của Sơn và tôi đã nhìn Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng hoặc cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng có vài tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn đi ra ngoài một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là Givral để nhìn qua bên kia khách sạn Continental để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn những nguời Việt Nam đang hấp tấp vội vã trên đường phố, để nhìn một chút trời xám , để nhìn vài cánh én ... Rồi Ði Về.
Sơn thèm đi ra phố - Sơn thèm hơi của thành phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã gắn bó với Sài Gòn từ lúc trẻ cho nên "Chiều một mình qua phố ..." hay "Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu ..."Ðó là đời sống của chúng tôi, và nó theo chúng tôi mãi mãi. Và Trịnh Công Sơn - hôm nay tôi được dịp để nói về anh, về cái sự tuyệt vời chịu đựng một bi kịch kéo dài cho tới ngày mà căn bịnh quái ác đã đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì sự cô đơn thật không có điểm tựa để làm việc. Và anh đã chết vì cơn bịnh này.

Trịnh Cung

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

Giáo sư Ngô Bảo Châu: Cả đắng cay cũng nằm trong hạnh phúc

TP - 'Hạnh phúc đối với tôi thực ra khác với nhiều người nghĩ. Hạnh phúc nhất đối với tôi là cảm giác còn đang sống. Trong cái sống đó có cả cái ngọt ngào và đắng cay. Mình phải biết là ngay cả cái đắng cay đó cũng nằm trong hạnh phúc. Vì đó là cuộc sống', Giáo sư Ngô Bảo Châu chia sẻ.
Tôi quen lắm người nhiều tiền mà bất hạnh
Anh đang ở trên đỉnh cao khoa học, cảm giác ở trên đỉnh cao thế nào?

Tôi thấy cũng bình thường. Có cảm giác đặc biệt mà tôi phát hiện là khi mình nói thì nhiều người nghe hơn (cười). Thực ra là đối với công việc, thì tôi hơi ít thời gian để làm chuyên môn hơn. Tôi chưa tìm lời giải cho vấn đề ấy.
Mục tiêu kế tiếp của anh là gì?

Đối với tôi, giai đoạn nghiên cứu khoa học mà để chinh phục một kết quả khoa học thì tôi thấy đã làm được rồi. Một điều rất muốn mà tôi chưa làm được là đào tạo ra học trò giỏi.

Anh rất quan tâm đến đào tạo, vậy anh có khó khăn gì? Giờ anh bắt đầu một ước mơ mới, lại bắt đầu từ đầu?
Cái khó khăn bây giờ là ví dụ buổi họp bàn mà chưa đi đến kết luận gì hết. Đối với tôi cũng bình thường thôi, không thất vọng. Không ai cố tình gây khó dễ cho mình. Thực ra là khó khăn chung, khó khăn cơ bản là mình không có nhiều tiền, không thể muốn tiêu như thế nào thì tiêu. Phải chấp nhận chuyện đó thôi. Những cái đó tôi nghĩ là mất thời gian nhưng sẽ giải quyết được. Cái khó khăn thứ hai là chuyện ước mơ của giới trẻ càng ngày càng ít hơn. Cái này thì không có cơ chế nào gỡ được. Tôi cảm thấy giới trẻ bây giờ ấp ủ ít ước mơ nhưng các bậc phụ huynh có vẻ ước mơ về con rất là nhiều.   
Lần trước có đoàn học sinh đi thi quốc tế, tôi có gặp các bạn. Trong đó, có 3 bạn đăng ký học Đại học Ngoại thương, tôi hỏi: “Tại sao các em lại học Ngoại thương? Rõ ràng các em có thiên hướng, có tư chất học về Toán học cơ bản”. Mẹ một bạn bảo “Học Ngoại thương tốt về tương lai, vật chất sau này”. Nhưng bạn ấy phản đối câu trả lời của mẹ. Bạn ấy muốn học khoa học tự nhiên nhưng được bố mẹ định hướng thi Ngoại thương. Tôi nghĩ chuyện đấy rất là dở, vì cha mẹ định hướng cứ nghĩ là mình thực tế nhưng có khi lại sai lầm.

Anh có gặp phụ huynh và thuyết phục họ không định hướng cho con cái?
Thuyết phục thế nào được. Khó lắm. Với những người lớn thì không nên nói nhiều về ước mơ vì khi họ đã quá 30 - 40 tuổi ước mơ không còn quan trọng với họ nữa. Về mặt thực tế, tôi nghĩ cái nhìn ngắn hạn là rất sai lầm. Vì cái quan trọng trong cuộc đời của mỗi người không đơn thuần là kiếm được nhiều tiền. Kiếm được nhiều tiền đơn thuần không thể mang lại cho họ cuộc sống hạnh phúc được. Cái chính của mỗi người phải là thực hiện được hết khả năng của bản thân, khả năng của mình đến đâu thì mình làm đến đó. Đó mới là cái toại nguyện nhất của bản thân. Cái bất hạnh nhất là mình cảm tưởng mình có nhiều khả năng mà mình không làm được. Tôi quen nhiều người nhiều tiền mà rất bất hạnh (cười).
Hạnh phúc của anh là gì? 
Tôi vừa trả lời phỏng vấn thượng tọa Thích Nhật Từ làm báo Phật giáo Ngày nay câu hỏi này. Hạnh phúc đối với tôi thực ra khác với nhiều người nghĩ. Hạnh phúc nhất đối với tôi là cảm giác còn đang sống. Trong cái sống đó có cả cái ngọt ngào và đắng cay. Mình phải biết là ngay cả cái đắng cay đó cũng nằm trong hạnh phúc. Vì đó là cuộc sống. Khi người ta bắt đầu có những bất hạnh chính là khi chạy theo những ảo ảnh, những ảo ảnh hình dung cuộc sống rất ngọt ngào, như là chạy vào Disneyland. Khi chạy theo ảo ảnh thì chắc chắn sẽ bất hạnh. Đó là lúc mình từ chối cuộc sống thật sự.
Thưa anh, theo đuổi đam mê có phải chạy theo ảo ảnh? 
Phải xem đó là đam mê như thế nào? Phải định nghĩa lại đam mê. Đam mê thực ra không phải là ảo ảnh. Nhưng nhiều cái ước mơ là ảo ảnh. Cảm giác mình đang sống rất quan trọng. Phải biết yêu cuộc sống như chính nó vốn có. Đó là một điểm rất quan trọng trong đạo Phật. Mình phải sống hết mình với những giây phút sống của mình.
Triết lý lớn nhất phải là yêu cuộc sống 
Trong bài nói chuyện với nhà văn Phan Việt, anh nói “sống làm sao để sau này biến mất không dấu vết”. Nhưng Ngô Bảo Châu bây giờ biến mất thì hơi khó? 
Mình phải hiểu là dấu vết như thế nào. Cũng giống như trong thiên nhiên, tất cả sinh linh tồn tại đều có một dấu vết gì đó. Dấu vết tức là cái mình để lại - cắt nghĩa chính xác rất khó. Có điều thực sự tôi rất sợ là khi nghĩ đến lúc mình chết rồi người ta làm cái mộ to tướng rồi ngày ngày đến thắp hương. Đấy là một cái dấu vết rất là kinh.

Đấy là cái nỗi sợ của anh nhưng là niềm mơ ước của rất nhiều người. Có nhiều người nhà giàu ở Việt Nam có phong trào xây mộ xây lăng cho mình?
Tôi vừa đi Huế. Nhà cho người ở thì ít nhưng mộ cho người chết thì rất to. Kể cả xây cho người đã chết rồi với tôi đó là sự lãng phí kinh khủng. Không để lại dấu vết với tôi cái lớn nhất là không nên cản trở cuộc sống của người khác. Kinh khủng nhất là cản trở cuộc sống của người khác.

Thực tế một số người tạo dấu vết của mình bằng cách cản trở cuộc sống, thậm chí cản trở sự phát triển của xã hội? 
Tôi nghĩ triết lý lớn nhất là phải yêu cuộc sống. Yêu cuộc sống như chính nó chứ không phải là cuộc sống phải có chức năng nhiệm vụ gì cả. Nhiều khi mình phải nhìn kể cả những động vật, thực vật vô ích cho con người. Đôi khi chúng ta cũng nhổ cỏ dại, để bãi cỏ xanh tươi đẹp đẽ. Về mặt nguyên tắc không ai phủ nhận mình có quyền nhổ cỏ dại. Nhưng mình phải hiểu cỏ tồn tại vì nó tồn tại thôi, nó chẳng có lý do gì phục vụ cuộc sống con người cả. Con người cũng thế, mình phải nhìn người ta sống trong cuộc sống của chính họ, không phải tồn tại để phục vụ cho cuộc sống của mình.

Con người để đạt được trạng thái hồn nhiền của đầu óc rất khó vì bị quá nhiều kinh nghiệm, nhiều vấn đề của đời sống tạo nên những nếp hằn trong đầu óc. Tôi rất thích câu mang tính triết học của Trịnh Công Sơn “Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh”. Phải chăng cứ sống thật với mình rồi mình sẽ có niềm vui? 
Không có hồn nhiên thì không thể khám phá được. Nếu đọc triết học của Platon thì một trong những tiền đề của sự khám phá là sự ngây thơ, hồn nhiên. Nếu cái gì mình cũng biết rồi thì ai còn ham mê khám phá nữa. Một trong những bí quyết để làm khoa học là giữ cho mình một tâm hồn trong trẻo.

Có lúc nào anh cảm thấy hối tiếc không?
Có. Tất nhiên là có những lúc hối tiếc về những quyết định trong cuộc sống.

Anh có thể kể về một sai lầm của anh không?
Không (cười). Tôi chưa chuẩn bị cho chuyện này. Sai lầm thì có nhiều sai lầm nhưng sai lầm để mình phải hối tiếc thì...

Anh đã bao giờ thấy chán Toán chưa? Đã bao giờ anh nghĩ đến việc bỏ Toán để theo đuổi cái khác chưa?
Mệt mỏi thì có chứ chán đến mức đó thì không.

Làm thế nào để hết mệt mỏi?
Mệt mỏi thì làm chuyện khác. Tôi nghĩ làm cái gì mãi thì cũng chán, nhưng quan trọng là phải luôn có cái mới. Khoa học hay ở chỗ lúc nào cũng đi tìm cái mới. Như Bổ đề cơ bản tôi theo đuổi nhiều năm trời nhưng làm xong tôi lại không thấy không ham mê như trước nữa. 

Trong mười mấy năm lúc nào cũng đam mê như vậy ạ? Vậy không kết thúc thì tốt hơn đúng không, để lúc nào anh cũng thấy đam mê?
Ừ đấy. Trước đây tôi có viết một câu thơ lăng nhăng mà mọi người không ai hiểu là “Có một con đường ta đi/Giá chi không bao giờ tới đích”. Chuyện làm Toán cũng thế, mình vẫn muốn tới đích, nhưng cái hạnh phúc nhất đó là lúc đi trên con đường. Cuộc sống của mình cũng thế. Cái đích của cuộc sống chẳng qua là cái chết (nghĩa trang thôi).

Tôi nghĩ là lúc mình đi trên con đường ấy, cái quá trình mình đi còn hạnh phúc hơn là đến được đích? 
Nhưng nếu không có đích thì mình sẽ không thể đi được. Hôm trước tôi có nói với Phan Việt là phải có một cái đích cao quý. Cái cứu cánh có hai nghĩa, vừa là mục đích nhưng vừa có một cái nghĩa hơi hiểu sai một chút, đó là cái cứu mình, giúp mình tổ chức cuộc sống của mình.

Đó có phải lý tưởng không anh?
Phải có lý tưởng là đúng. Mỗi người phải có lý tưởng nhưng nói sống có lý tưởng thì tôi hơi ngại, một phần là hơi bị sáo. Lý tưởng là mình quên mất sống cuộc sống của mình mà chỉ nghĩ tới cái đích. Mình phải tin vào cái đích của mình.
Giờ có nhiều bạn trẻ có nhiều cái đích không phải là cao quý lắm, ví dụ có một cái nhà, một cái xe, một thu nhập ổn định. Đó không có gì xấu cả, nhưng nó khác với cái thời chiến tranh với lý tưởng cao quý “Thép đã tôi thế đấy”.
Xây dựng một cuộc sống an bình, đầy đủ cho gia đình thì không có gì là xấu cả. Nhưng nếu thực sự mà để dùng từ tôn giáo là “cứu rỗi” con người thì những mục đích đó không thể cứu rỗi con người được. Bản chất của con người, theo xuất phát điểm của tôn giáo, của triết học là luôn sợ hãi cái chết, nhìn thấy cái đích trước mặt mình là nghĩa trang. Cái gì là cứu rỗi mình ra khỏi cái đích đó, hiển nhiên không phải chuyện nhà cửa, xe cộ của mình mà chính là vươn lên những cái tốt đẹp nhất. Cái đó khác với cuộc sống hàng ngày.
Phải đảm bảo cuộc sống vật chất
Người ta nghĩ đến anh là một nhà Toán học nổi tiếng nhưng không biết anh tiêu tiền thế nào?
Tôi không ham mê những gì đắt tiền. Tôi cũng không biết chính xác mình có bao nhiêu tiền. Vợ tôi cũng hơi giống tôi theo mức đó. Gia đình chi tiêu tương đối bình thường. Có đủ tiền để không quá mức so đo về việc chi tiêu. Đó là một phần tôi muốn cố gắng giáo dục con cái về chuyện đó. Thật ra là mình chỉ thực sự thiếu tiền khi mình quá bị phụ thuộc vào những cái đắt tiền. Cái lớn nhất của con người cần có là tự do. Cái phụ thuộc lớn nhất là tiền nong. Khi mình quá ham mê những cái đắt tiền thì mình sẽ bị phụ thuộc rất nhiều..

Nhưng có phải do anh có tiền nên anh theo đuổi được đam mê hay không? 
Cái đó đúng. Phải có một thu nhập nhất định nào đó để đảm bảo cuộc sống vật chất. Khi người ta đói thì không nên quy kết cho người ta bất cứ một chuyện gì cả. Theo Victor Hugo thì ăn cắp là việc xấu nhất nhưng khi đói thì được quyền ăn cắp để được sống. Quyền được sống lớn hơn…

Nhưng anh ở nước ngoài nên anh vừa có thể theo đuổi đam mê, vừa có thể có tiền. Nếu công việc của anh cũng là khoa học, nhà giáo, nhưng ở Việt Nam thì khó hơn.
Tôi biết thế. Nhưng tôi nghĩ xã hội rồi sẽ thay đổi. Nói chung tôi là con người tương đối lạc quan.

Đam mê kế tiếp của anh là gì?
Tôi chỉ muốn làm thế nào để tạo ra nhiều cơ hội cho nhiều bạn trẻ làm được cái mình muốn.
Anh có rất nhiều việc, vậy cuộc sống của anh có gì khác với mọi người? Một ngày bình thường của anh như thế nào?
Tôi ngủ ít thôi nhưng ngủ đúng giờ. Ở Việt Nam, một ngày của tôi hơi “rắc rối” hơn vì gặp nhiều bạn. Nhưng sống ở nước ngoài thì buổi sáng tôi dậy tương đối sớm để cùng vợ chuẩn bị đồ ăn sáng, ăn trưa cho trẻ con, 2 đứa nhỏ. Trưa cô bé lớn ăn ở trường. Vợ tôi đưa trẻ con đi học. Có hôm tôi đưa. Có lúc tôi làm việc ở nhà, có lúc đến trường làm việc. Cũng có nhiều việc. Buổi chiều về nhà, xem bài vở con cái, nói chuyện với chúng nó một chút. Nói chung tôi tương đối hài lòng với cuộc sống của mình.

Anh có thể về hẳn Việt Nam, ở Việt Nam các cô gái chân dài chỉ hơi nổi tiếng thôi thì đi dự tiệc đã được trả 1.000- 3.000 USD rồi. Nổi tiếng như anh chỉ cần đi dự hội nghị là sống thoải mái.
Thôi. Thực ra làm việc ở nước ngoài cũng là một cách giúp đỡ được nhiều bạn Việt Nam hơn.

Anh có thích làm người quan trọng không?
Không muốn người khác giúp đỡ mình quá nhiều. Chính khi người khác làm cho mình quá nhiều thì mình mất đi cuộc sống của mình. Có một nhà khoa học viết một cuốn sách kinh điển về sử dụng tiếng Anh cách đây 100 năm rồi. Khi ông ấy viết được một nửa thì do ông viết chậm quá, nhà xuất bản Oxford mới đề nghị cử một bà đến để lo giặt giũ nấu nướng cho ông ấy vì ông ấy sống một mình. Ông ấy bảo “Không, các anh muốn tôi chết sớm à?”. Và ông ấy tiếp tục làm việc theo cuộc sống của ông ấy. Tất nhiên là viết cuốn sách đó rất quan trọng, nhưng sống cuộc sống của ông ấy quan trọng hơn. Cuộc sống đời thường là quan trọng nhất.

Xin cảm ơn anh.