Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

Mai Kim Ngọc : CHỮ QUỐC NGỮ, TIẾNG VIỆT NAM, VÀ TU SĨ ALEXANDRE DE RHODES


Copy trên Facebook Phù Sa.
Đại hội 48-55 năm nay các bạn đồng khoá giao cho tôi công việc nhẹ nhàng gần như tượng trưng. Đó là đọc và nhặt lỗi chính tả những bài gửi đến. Vậy mà tôi chưa đọc được một bài, vì một vấn đề nguyên tắc: lấy tiêu chuẩn gì mà sửa chính tả của bạn bè.
Khi viết lách tôi thường dùng những tự điển Việt ngữ phổ thông. Nhưng hiệu đính chính tả người khác, tôi phải cẩn thận hơn. Tôi tự hỏi các tự điển tôi thường dùng căn cứ vào đâu mà xác định cách đánh vần. Tìm kiếm thêm chút nữa, tôi khám phá ra là những sách tôi có đều không xuất xứ. Như một thứ tác phẩm mồ côi, chúng không dựa vào thẩm quyền nào khi chọn lựa chính tả.
Mơ màng đi ngược dòng thời gian, tôi nghĩ đến cuốn tự điển đầu tiên ngày xưa thầy giáo nhắc tới. Đó là cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL) do tu sĩ dòng tên Alexandre de Rhodesin tại Roma năm 1650, cùng với cuốn 'Phép Giảng Tám Ngày ...' của ông.
Mong ước cầm được trong tay cuốn sách hiếm của De Rhodes là chuyện viển vông. Cuốn DALeL xuất bản hơn 300 năm trước tại Roma không tái bản lần nào, một vài bản có còn tồn tại chắc được các viện bảo tàng cất kỹ trong lồng kính. Để tự an ủi, tôi nghĩ cuốn sách cổ dù có cầm trong tay, chưa chắc nội dung đã phù hợp với tiếng Việt bây giờ.
Cứ như vậy, tôi sinh hoạt trong nghề văn với chính tả có độ chuẩn tương đối, định bụng một ngày nào rảnh rang sẽ bỏ công ra tra cứu vấn đề đến tận ngọn nguồn. Nấn ná suốt bảy năm trung học tôi đã không có dịp thi hành ý định. Rồi bảy năm y khoa tiếp nối, tôi vẫn viết lách với chính tả tương đối của mình. Hai năm trung úy quân y trưng dụng quá bận rộn vì y khoa cấp cứu thời chiến, tôi cũng không làm được gì cho mối tư lự về chính tả bấy lâu trăn trở.
Khi về hưu tưởng đã quên, nhưng một sự việc nhỏ nhặt vô tình nhắc lại chuyện cũ, nhân một hôm đi nghe đoàn nghệ sĩ của Rio de Janeiro trình diễn dân ca Ba Tây tại hí viện ngoài trời Hollywood Bowl. Không hiểu lời, nhưng tôi thú vị tức thì với âm hưởng tiếng Bồ Đào Nha được nghe lần đầu.
Tôi đã đọc đâu đấy rằng tiếng Bồ của Ba Tây rất chuẩn so với chính quốc. Lý do là Ba Tây không phải là một thuộc địa tầm thường như các thuộc địa khác. Vùng đất Nam Mỹ này có thời đã là trụ sở chính của vương quốc Bồ. Khi Napoléon chinh phục hết nước này đến nước khác tại Âu châu, vua Bồ thấy bất an đã đưa cả hoàng gia và triều đình sang đóng đô tại Rio. Napoléon sau cùng thất trận phải đi đày nơi hải đảo, vua Bồ trở về ngai vàng chính quốc nhưng để con trai lại thay vua trị vì Ba Tây... Có lẽ do đó Ba Tây có ngôn ngữ không những rất chuẩn, mà âm hưởng lại có gì vương giả.
Trở lại buổi đi xem trình diễn dân ca Ba Tây tại Hollywood Bowl. Lúc tôi thiu thiu với cơn gió đêm mát rượi của hí viện ngoài trời, một hiện tượng như mơ như thực xảy ra. Tôi vẫn không hiểu tiếng Bồ, nhưng có lúc mơ màng bỗng thấy nhạc Bồ có gì gần gũi. Rồi có lúc tôi cảm thấy như nghe được tiếng Việt xen kẽ giữa những lời ca ngoại quốc. Trong tâm thức một đoàn âm thanh quen thuộc kéo về. Chúng gồm những phụ âm kép mà tôi vẫn nghĩ chỉ tiếng Việt mới có, như NG hay TH ở đầu hay cuối một số từ. Rồi một lũ nguyên âm trầm bổng với đủ năm dấu sắc huyền hỏi ngã nặng kéo theo. Nửa thú vị nửa ngỡ ngàng, tôi như người lữ khách một chuyến du lịch nơi xa lại gặp một đoàn trẻ con trong họ chạy tới xúm xít vây quanh.
Cuộc sống bận rộn lại làm tôi quên vụ nhạc Bồ có âm hưởng Việt, cũng như ý định giải quyết mối thắc mắc kinh niên về chính tả. Nhưng không quên hẳn được, vì hai năm sau tôi có dịp đi du lịch Ba Tây. Tôi may mắn vì ngoài anh hướng dẫn viên chính thức lại có cô sinh viên sắp tốt nghiệp khoa du lịch xin đi theo tập sự (coi ảnh đính kèm). Cô bé sõi tiếng Anh, nhưng nói tiếng Bồ khi trao đổi với bác tài xế cũng là người địa phương.
Nghe ngôn ngữ líu lo của họ, tôi lại bắt được đám nguyên âm và phụ âm quen thuộc cùng với năm dấu sắc huyền hỏi ngã nặng của tiếng mẹ đẻ. Tha hương, âm hưởng Việt Nam bất ngờ trong tiếng nói Ba Tây nghe ngọt như cam và mát như cơn mưa giữa trưa hè. Cảm giác đẹp như câu thơ cổ lớp Hán tự ngày xưa:
Đại hạn phùng cam vũ,
Tha hương ngộ cố tri.
Du lịch tại Nam Bán Cầu mà tôi thấy gần gũi với cảnh với người, cô sinh viên Ba Tây bỗng giống con cháu gái gọi tôi bằng ông ngoại.
Tôi nghĩ hòan cảnh thuận lợi để tìm hiểu tại sao tiếng Bồ nghe giống tiếng Việt. Tôi viết ra giấy chữ NGA bắt côgái đọc, hy vọng cô sẽ không đọc thành NHA như những người Pháp hay Mỹ. Cô không phạm phải lỗi phát âm ấy, chỉ thoáng ngạc nhiên là tại sao cô lại bị đem ra trắc nghiệm. Tôi lại bắt cô đọc NGA NGỦ NGON, mệnh đề ba chữ đã vặn lưỡi vô số người ngoại quốc. Cô đọc vẫn chuẩn. Không có vụ NHA NHỦ NHON như đám bạn người nước ngoài của tôi... Tôi đố thêm vài phụ âm nữa nhưng đặt ở đuôi của từ, như manG và manH, hay thanG và thanH xem cô gái có phân biệt được mang với manh hay thang với thanh không. Cô không gặp khó khăn gì. Cô còn thoải mái với mấy nguyên âm có bỏ đủ dấu sắc huyền hỏi ngã nặng.
Cảm giác vô lý có bà con ruột thịt với cô bé sinh viên Ba Tây làm tôi vui như tự nhiên được thêm đứa cháu gái. Đồng thời tôi nhớ đã đọc đâu đó rằng mẫu tự Quốc ngữ là do các tu sĩ Dòng Tên của Lisbonne soạn ra từ mẫu tự Bồ của họ để phiên âm chữ Nôm. Hèn chi cô gái đã thoải mái đọc được mấy từ và khóm từ Việt tôi đem ra đố. Thật là một sự tình cờ lý thú, cái thanh quản xinh xắn mảnh giẻ của cô cháu Ba Tây tình cờ lại khao khít với mẫu tự Việt và ngược lại. Thật là hú vía. Nếu bị phiên âm với một mẫu tự khác như Pháp hay Nga hay Anh chẳng hạn, tiếng Việt không biết bây giờ sẽ ngọng nghịu như thế nào.
Cô sinh viên Ba Tây và tác giả phát âm tiếng Việt dễ dàng, thoải mái với mấy mấy nguyên âm đủ sắc huyền hỏi ngã nặng.
Tôi quyết định bỏ thời gian tra cứu vụ này. Bớt một số giờ vãn cảnh, tôi tìm đọc trên liên mạng những đề tài liên quan đến Việt ngữ xưa và nay. Tôi tìm hiểu vụ các tu sĩ dòng Tên Lisbonne hà cớ gì sang tận Việt Nam trên ba trăm năm trước để sáng chế ra lối viết mới. Tại sao số từ họ phiên âm ba bốn thế kỷ trước đã ngưng lại tại mức 8000. Từ cuốn DALeL của Alexandre de Rhodes cho đến cuối thế kỷ XIX khi được thực dân mang ra xử dụng, không thấy một cuốn tự điển mới của nhà Dòng với nhiều từ hơn. Và tôi cũng tò mò về một tu sĩ đặc biệt làm việc trong nhà Dòng Hà Nội thế kỷ 17 là ALexandre de Rhodes.
Pháp đánh giá công lao của De Rhodes rất cao trong việc phiên âm chữ Nôm ra tiếng La-tanh, và những vinh hoa họ dành cho ông có vấn đề lạm phát trầm trọng. Bắt chước người Pháp, một số không nhỏ người Việt thời Bảo hộ cũng cực kỳ quý trọng ông.
Mặt khác, ngay thủa sinh thời De Rhodes lại bị hai người Việt quý tộc đánh giá rất thấp và xếp vào thành phần bất hảo. Đó là chúa Trịnh của xứ Đằng Ngoài và chúa Nguyễn của xứ Đằng Trong. Người thì trục xuất De Rhodes, người thì hạ ngục đương sự, thậm chí khi đem ra xét xử lại giáng cho cái án tử hình (như đã nói ở trên, án này về sau được chúa Nguyễn ân xá và tội được cải thành biệt xứ...)
De Rhodes về lại Âu châu qua đường Macao, in hai cuốn sách của ông tại Roma. Ông tiếp tục vận động để được trở về Việt Nam. Sau nhiều cố gắng không kết quả với Lisbonne và Roma, De Rhodes vận động vua Pháp lưu ý đến Việt Nam, và cố vấn vua nên cạnh tranh truyền giáo với Bồ Đào Nha (tổ quốc ông), Tây Ban Nha (nguyên quán ông), và với các nước Âu châu khác có tham vọng mục vụ tại vùng đất này.
Lần này thì ông thành công, và vua Pháp xuất quỹ ra thành lập hội truyền giáo hải ngọai Pháp với trụ sở tại Paris, bước đầu để mang giáo hội Pháp vào Việt Nam. Nhưng ông chưa kịp về lại Việt Nam dưới sự bảo trợ của vua và giáo hội Pháp, thì đã bị bề trên tại Lisbonne và Roma thuyên chuyển sang Iran và để ông ở đấy cho đến khi qua đời. Hai thập niên sau cùng, ông chưa chết mà đã bị lãng quên. Tên tuổi ông cũng như hai cuốn sách về tiếng An-Na-Mít do ông trước tác không được ai nhắc tới suốt 300 năm lẻ.
Chuyện bất ngờ xảy ra vào cuối thế kỷ 19. Người Pháp đã thôn tính xong miền Nam nhất định xóa bỏ ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa bằng cách dẹp bỏ chữ Nôm để thay thế bằng lối viết dựa trên mẫu tự La-tinh của các cha Bồ Đào Nha hơn ba thế kỷ trước. Pháp đem Alexandre de Rhodes ra suy tôn nhưmột thần tượng, thậm chí một vị thánh văn hoá cho dân thuộc địa. Những dữ kiện thu được nhờ một tối lang thang trên mạng làm tôi hăng hái truy lùng thêm những tài liệu về tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ và về Việt ngữ của chúng ta. Kết quả là một câu chuyện hy vọng có đầu có đuôi với khá nhiều tình tiết ly kỳ để mua vui cho các bạn đồng khoá.
Tiếng An Nam, thủa trứng nước
Từ đầu thế kỷ 17 hay sớm hơn nữa, những tu sĩ Dòng Tên tại nhà dòng Hà Nội bắt đầu phiên âm chữ Nôm bằng mẫu tự Bồ. Tôi không nghĩ các tu sĩ bấy giờ có phương tiện như phòng vi âm các đài phát thanh hay phòng thí nghiệm thính thị của một viện ngữ học bây giờ. Tôi đoán phương cách làm việc của họ đại khái như sau. Họ nhờ một người thông ngôn lanh lợi chọn trong đám nhân viên Việt của nhà Dòng đọc những từ chữ Nôm (văn tự chính thống bấy giờ). Tu sĩ lắng nghe nhiều lần cho đến khi thật quen tai thì phiên âm ra mẫu tự Bồ và ghi lên giấy. Từng từng chữ từng chữ một, tu sĩ và người phụ tá bản xứ hoàn tất một văn tự mới gọi là chữ An Nam, như tên gọi trong cuốn tự vị tam ngữ Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL) của Alexandre de Rhodes. Mớ ngữ vựng hoàn tất được mỗi lúc một nhiều, chẳng mấy chốc đủ dùng trong sinh hoạt hàng ngày của nhà Dòng như sai bảo người làm, luyện tiếng Việt cấp tốc (kiểu phrase book) cho các tu sĩ tân nhiệm từ Lisbonne mới qua, hay dậy giáo lý căn bản cho kẻ tân tòng bản xứ đang chuẩn bị rửa tội...
Tự điển DALeL của Alexandre de Rhodes sưu tập được khoảng 8000 từ. Con số này tất bao gồm cả những từ đã phiên âm của hai cuốn tự điển có trước soạn bởi các sư huynh của De Rhodes là Antonio Barbosa và Gaspar do Amaral. Danh từ An nam hay An nam mít xuất hiện từ đây, mới đầu chỉ để chỉ thứ văn tự mới, có lẽ đến thời Pháp thuộc cuối thế kỷ XIX mới có nghĩa coi rẻ coi thường.
Trừ hai cuốn sách của De Rhodes, toàn bộ tài liệu liên quan đến tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ bị thất lạc. Mất mát quan trọng là hai cuốn tự điển của Antonio Barbosa và Gaspar do Amaral. Không những ấn bản không còn, mà tất cả những bản nháp, bản thảo cũng không sót lại một tờ. Mất mát quan trọng không kém là văn khố của nhà dòng Bồ hơn ba thế kỷ sinh hoạt, gồm những tài liệu giảng huấn, những bài vở của các học viên, những bài giảng của các giáo viên... Sau cùng, người ta cũng không tìm được một tài liệu gì về công trình của tu sĩ bề trên Francisco de Pina, người đã vỡ lòng tiếng Việt cho De Rhodes khi đương sự mới từ Lisbonne sang nhậm chức...
Sự mất mát xảy ra bao giờ, không ai biết rõ. Ta có thể võ đoán là chuyện đó không xảy ra trong 300 năm đầu khi nhà dòng Bồ tại Hà Nội do giáo hội Bồ quản trị. Người Bồ không lơ là với tài sản văn hoá của người Bồ. Nhưng khoảng trên trăm năm cận sử, Bồ bàn giao nhà Dòng Hà Nội cho Pháp cùng những cơ sở tôn giáo khác của Lisbonne tại Việt Nam. Sự mất mát có thể xảy ra vào khoảng thời gian này. Phải đây là do chiến tranh loạn lạc liên miên, hay còn phản ánh nhiều lý do khác về chính trị, hành chánh, quản trị, hay kỳ thị và ganh tỵ giữa Bồ và Pháp.
Huyền Thoại Alexandre de Rhodes
Dù vì nguyên do gì, sự thất lạc những tài liệu tiền phong về việc soạn tự điển tiếng An Nam làm De Rhodes trở thành người có tác phẩm xưa nhất trong lãnh vực. Dựa vào chuyện này và nhiều ý đồ khác, người Pháp tôn ông lên thành cha đẻ của Quốc ngữ (Le Père du Quốc Ngữ).
Sự vinh danh tất nhiên quá đáng, vì De Rhodes không phải là người sáng chế ra lối viết mới. Khi ông tới nhà Dòng xứ đằng ngoài thì bề trên Francisco de Pina và các sư huynh của ông đã khởi xướng việc này từ lâu. Ông cũng không phải là người độc nhất đã đánh vần số 8000 từ trong tự điển của ông. Như đã nói, trước ông đã có từ hai cuốn tự điển Việt Bồ và Việt Bồ La, một của Antonio Barbosa và một của Gaspar do Amaral. Chỉ tiếc là De Rhodes không ghi xuất xứ những từ ông sưu tập và bỏ vào Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL), nên hiện tại không biết bao nhiêu là công ông, bao nhiêu là công của người đi trước.
Tiểu sử của De Rhodes cũng phức tạp và mơ hồ như sự nghiệp của ông. Ông sinh năm 1593 tại Avignon, theo học chủng viện Roma, và tốt nghiệp khi mới 27 tuổi. Ông nguyên thủy được chỉ định sang Nhật Bản, nhưng gặp lúc nước này đang khủng bố giáo dân dữ dội, ông phải dừng lại Macao. Ông làm mục vụ sáu năm khi tại Macao khi tại Goa. Trong thời gian này ông học ngôn ngữ và tín ngưỡng của Trung Hoa. Không hiểu lý do nào, ông không nắm được chút nào văn hóa Á châu, và coi đó chẳng qua là chuyện dị đoan thậm chí phù thủy. Về sau, ông khai triển mớ kiến thức sai lầm này trong Phép Giảng Tám Ngày dành cho giáo dân Việt Nam với những phát biểu khiếm nhã về Phật Lão Nho của phương đông.
Như đã nói, tu sĩ trẻ tân nhiệm De Rhodes được học tiếng Việt với bề trên là Francisco de Pina. Với số vốn ngôn ngữ ấy, ông vào truyền giáo tại xứ Đằng Trong của Chúa Nguyễn năm 1924. Được hai năm, ông lại trở ra xứ Đằng Ngoài.
Sự cố quan trọng đầu tiên trong nghiệp vụ truyền giáo đến với De Rhodes khi Chúa Trịnh trục xuất ông (1630). Về Macao cơ sở hải ngọai quan trọng của Lisbonne, ông xoay xở vận động với giáo hội và 10 năm sau lại được sang Việt Nam (1640). Không về được Hà Nội vì cái án trục xuất vẫn còn đấy, ông vào Đằng Trong truyền giáo. Ở đây ông cũng đụng chạm với luật pháp địa phương. Năm 1645, chúa Nguyễn hạ ngục ông rồi kết án tử hình. Ông thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Tội chết được chúa ân xá vào phút chót, nhưng án trục xuất vẫn thi hành.
Bị cả hai miền Nam Bắc lần lượt đuổi đi, ông về lại Âu Châu. Mười năm ở đấy, ông năng nổ thỉnh cầu Lisbonne và Roma yểm trợ tài nguyên cho ông trở lại Việt Nam. Thời gian này ông mang tiếng khoác lác về bản thân, khoe con số 6000 tân tòng ông đã tự tay rửa tội. Ông cũng khoác lác trình bày Việt Nam như một vùng đất giàu có ngoan đạo và đông đúc giáo dân. Có lẽ vì De Rhodes thiếu trung thực trong những báo cáo trên nên cuộc vận động của ông đã thất bại. Ông bỏ Roma và Lisbonne để sang Pháp vận động vua Pháp thành lập hội truyền giáo Paris cho giáo hội Pháp. Không biết sợi rơm nào đã bẻ gẫy lưng con lạc đà, bề trên tại Lisbonne sau cùng thuyên chuyển ông sang Teheran. Từ đó về sau người ta không nghe nói ông vận động gì thêm để về lại Việt Nam. Ông qua đời năm 1660, hưởng thọ được 69 tuổi.
Cuộc sống của giáo sĩ De Rhodes tại Việt Nam đầy sự cố không phải không có lý do. Tu sĩ trong khi truyền giáo tìm cách thân thiện với cả hai miền Nam Bắc đang thù nghịch nhau. Dưới góc nhìn của các chúa Trịnh và Nguyễn, có thể họ cho ông là người bất hảo và trí trá.
Với các nhân vật quan trọng của Âu châu, ông xem ra cũng không trung thành với ai. Để thuyết phục Roma và Lisbonne yểm trợ ý đồ trở lại Việt Nam của mình, ông đã không ngần ngại tô điểm thành tích bản thân cũng phóng đại sự trù phú của Việt Nam. Khi không toại nguyện, ông cũng không ngần ngại chạy sang Paris khuyên vua Pháp nên thiết lập Hội Truyền Giáo Pháp để sớm xử lý mục vụ Viễn Đông mà cạnh tranh ảnh hưởng với giáo hội của các cường quốc khác. Tuy nhiên chưa kịp nhận phẩm hàm gì của vua Pháp, ông bị giáo hội Lisbonne đổi sang nhà dòng Ba Tư.
Sách Phép Giảng Tám Ngày, cũng có thể là nguồn gốc cho những vấn nạn đã xảy đến cho ông tại Việt Nam. Nói chung, người Việt chúng ta vua quan cũng như dân chúng coi trọng tôn giáo người khác. Chúng ta tin rằng từ bi là đức hạnh của mọi tôn giáo, và không có gì bất đồng với giáo lý Ky Tô. Vậy mà ngoài các chương giáo lý cổ điển, Alexandre de Rhodes sáng tác thêm chương Bốn với tựa là 'Những Đạo Vạy' để miệt thị tam giáo Phật Lão Nho cũng như mỹ tục thờ cúng tổ tiên. Lời lẽ khá thô lỗ, có chỗ ông gọi Phật là thằng Thích Ca... (coi phụ lục).
Ông đã dùng tài liệu 'Phép Giảng Tám Ngày' để rửa tội cho vô số tân tòng. Nội dung Chương Bốn, Những Đạo Vạy không còn bí mật với ai. Tai vách mạch rừng, thái độ miệt thị ông dành cho tôn giáo chủ nhà chắc đã đến tai các nhà chúa. Phải chăng đây là lý do trực tiếp làm hai lần ông bị trục xuất, và một lần bị hạ ngục với án tử hình.
Nhìn theo cái nhìn dài, De Rhodes coi rẻ văn hoá và tín ngưỡng Việt Nam đã làm hại đạo Thiên Chúa không ít. Nó tạo chia rẽ Lương Giáo, và gây khó khăn cho những tu sĩ đến sau. Tôi có nhiều bạn thân theo đạo Thiên Chúa mà chưa thấy ai có kiến thức giới hạn về tôn giáo và triết học Á Đông như De Rhodes. Tôi cũng chưa thấy ai đối đãi thô bạo với cốt lõi của văn hoá Việt Nam như khi đương sự bàn về Tam Giáo...
Hiếu động như vậy mà sinh thời Alexandre de Rhodes không đạt được vinh hoa gì đáng kể. Cuối cùng ông chết âm thầm tại Iran. Sự nghiệp ông tượng trưng bằng hai cuốn sách liên hệ đến tiếng An Nam cũng không thành công bao nhiêu. Âu châu vào thời ông quá bận tâm với những vấn đề quan trọng để lưu ý đến một chức sắc cấp trung hay cấp thấp, với hai ấn phẩm ích lợi giới hạn cho người Bồ giảng đạo tại Việt Nam. Ở Hà Nội, sách của De Rhodes cũng không hữu dụng. Nhà Dòng đã đầy đủ chuyên viên để phiên âm tiếng địa phương theo mẫu tự Bồ. Sự thật là chính De Rhodes còn phải đi học tiếng Việt với các sư huynh và sư phụ của ông tại đây. Ngoại trừ những bản làm quà tặng cho bè bạn và bề trên cũ, sách ông mang về nhà Dòng Hà Nội khác gì chở củi về rừng.
Bên trong giáo đường đã vậy, bên ngoài giáo đường tác giả cũng như tác phẩm kể như không ai biết đến. Người Việt Nam từ văn nhân thi sĩ đến vua chúa quan lại, mọi người thoả mãn với hai tiếng Hán và Nôm. Giấy tờ hành chánh dùng Hán tự, còn toàn bộ những sinh hoạt khác đều dùng chữ Nôm. Kể từ những văn bản thủa ban sơ như Văn Tế Cá Sấu, cho đến Sãi Vãi, Nhị Độ Mai, Trê Cóc, Hoa Tiên, Phan Trần, Lục Vân Tiên... và cho đến ba đại tác phẩm của đất nước là truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán, tất cả đều viết bằng tiếng Việt (chữ Nôm). Không ai làm thơ làm văn bằng chữ An Nam hay An Nam Mít của De Rhodes với 8000 từ đánh vần bằng mẫu tự Bồ. Suốt ba thế kỷ hơn, quên lãng là số phận của De Rhodes và sự nghiệp viết lách của ông.
Chuyện bể dâu Văn tự và Văn học
Tuy nhiên lịch sử có những bất ngờ. Tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ tưởng đã bị bụi thời gian phủ lấp, bỗng hồi sinh vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Lý do là Pháp một khi chiếm được Việt Nam nhất định triệt tiêu ảnh hưởng của Tầu. Văn tự là gốc rễ quan trọng của ảnh hưởng ấy, nên Pháp nhất định loại chữ Hán và chữ Nôm ra khỏi đời sống Việt Nam.
Nhanh chóng và dễ dàng Soái phủ Nam kỳ thay Hán tự bằng Pháp văn. Vừa nắm được chính quyền ba tỉnh miền Đông (1862), họ tức thì đặt một nền hành chánh trực trị có khuôn mẫu từ Pháp mang sang, với quan chức Pháp trực tiếp cai trị dân bản xứ. Tất cả văn thư đều viết bằng Pháp văn, từ công báo, giấy tờ hộ tịch, cho đến đơn từ của dân chúng và công văn các công sở... Nhu cầu thông tin giữa quan chức Tây và nhân dân Việt được giải quyết bằng thông ngôn. Đến 1867 Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, và toàn bộ Nam kỳ trở thành nhượng địa Cochinchine. Dân chúng Nam Kỳ không còn là con dân Triều Đình, và tiếng Pháp trở thành văn tự hành chánh độc nhất.
Tiếp theo là Trung kỳ và Bắc kỳ. Vì những lý do phức tạp, Pháp không cai trị vùng đất cuối cùng của Triều đình như đã cai trị Nam kỳ. Họ để vua quan ta làm vì, nhưng lập một đội ngũ công chức cao cấp Pháp ngồi tại phủ toàn quyền và các tòa hành chánh tỉnh để cai trị tất cả. Họ nắm thực quyền kể cả quyền trả lương cho vua quan ta, nhưng lại mang danh xưng hiền lành là công sứ hay khâm sứ, tựa hồ họ chỉ đóng vai đại diện ngoại giao hay cùng lắm cố vấn cho chánh quyền Việt Nam. Nhưng quan Tây chỉ nói tiếng Tây là chuyện dĩ nhiên, và không kèn không trống Hán tự biến mất khỏi đời sống hành chánh.
Pháp thanh toán chữ Nôm song song với chữ Nho. Thật ra Pháp dư biết chữ Nôm cần còn phải thanh toán nhanh hơn. Nó là chữ viết mà cũng là tiếng nói của người Việt. Hình dạng gần gũi với Hán tự, chữ Nôm như cái gai trước mắt họ. Còn lối viết này ngày nào là họ còn chưa yên tâm trong ý đồ tiêu diệt toàn bộ ảnh hưởng Tàu trên con người và văn hoá Việt.
Bắt quần chúng thay đổi tiếng nói là chuyện vô cùng khó khăn chưa ai làm được, kể cả những bạo chúa. Nhưng thay đổi chữ viết là chuyện trong tầm tay người Pháp, nhất là các tu sĩ Bồ đã chế sẵn chữ An Nam từ hơn ba trăm năm trước. Tương kế tựu kế, Pháp lấy chữ An Nam thay thế chữ Nôm.
Theo nguyên tắc, tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ thoả mãn tất cả nhu cầu và chờ mong của Pháp. Không còn liên hệ hình dáng cũng như nội dung với Hán tự, chữ Annam sẽ giúp Pháp dứt khoát thanh toán ảnh hưởng văn hoá Trung quốc. Chút bất tiện nhỏ là số từ An Nam các tự điển tam ngữ các giáo sĩ để lại quá ít ỏi, lại dư thừa phần tiếng Bồ và tiếng La-tanh. Giải pháp cũng dễ dàng, Pháp chỉ việc cho đội ngũ thông ngôn bỏ phần Bồ và La-tanh đi và thay thế chữ Pháp vào. Quan trọng hơn nữa, những người Việt cộng tác với Pháp ra công phiên âm thêm những từ mới để xử lý những nhu cầu phức tạp ngoài giáo đường. Ta phải mở dấu ngọăc để ghi công những người Việt đã làm công việc này, với những cuốn từ điển xúc tích và chính xác hơn.
Trên phương diện tổ chức, ta công nhận sự siêng năng vượt bực của giáo chức Pháp tòng sự tại Soái phủ Nam Kỳ bấy giờ. Ba tỉnh miền Đông cụ Phan Thanh Giản mới mất cho Tây năm 1862, thì trung tuần tháng tư năm 1865 tờ Gia Định Báo bằng chữ An Nam ra đời. Trong khoảng thời gian ba năm, các giáo chức đã huấn luyện xong một quần chúng bản xứ đông đúc biết viết và đọc chữ An Nam để đóng vai ban biên tập cũng như độc giả cho tờ báo.
Rồi sách truyện bằng chữ An Nam nối đuôi theo báo chí xuất hiện. Trong khi lãnh thổ còn lại của Triều đình vẫn dùng Hán tự và chữ Nôm, dân Nam kỳ bắt đầu tiêu khiển với các truyện ngắn bằng tiếng An Nam như Người Buôn Ngọc, Thầy Lazaro Phiền, Câu Chuyện Một Tối Của Người Tân Hôn, vân vân... Báo chí và văn học bằng chữ An Nam vùng nhượng địa đi trước Bắc Kỳ và Trung Kỳ cả mấy thập niên.
Từ bàn đạp Nam Kỳ Pháp tiếp tục truy kích chữ Nôm tại vùng đất theo lý thuyết còn thuộc Triều đình. Bị áp lực từ mọi phía, Vua Khải Định sau cùng hạ chiếu chính thức hoá và chính thống hoá văn tự An Nam mà vua ban cho tên mới là Quốc ngữ (1918). Lúc này nhà Nguyễn đã mất thực quyền từ lâu, từ hành chánh đến tài chánh, đến quốc phòng, đến ngoại giao, đến lục lộ, đến canh nông, đến y tế, vân vân, và đến học chánh. Có lẽ học trò các trường bảo hộ đã học Quốc ngữ từ trước cả lệnh vua.
Viết xong đọan này, tôi không tránh được chuyện xấu tốt lẫn lộn trong lịch sử một quốc gia.
Tiếng An Nam và Chữ Quốc Ngữ.
Hai danh từ tiếng An Nam và chữ Quốc Ngữ thường bị dùng lẫn lộn với nhau. Sự lầm lẫn có lý do chính là cả hai loại văn tự đều chung một bảng mẫu tự dựa trên bảng mẫu tự Bồ Đào Nha. Nhưng sự giống nhau chấm dứt tại đây.
Tiếng An Nam gồm 8000 từ phiên âm bởi các giáo sĩ Bồ và đã được sưu tập bởi Rhodes để in trong tự điển DALeL. Tiếng An Nam có công dụng giải quyết nhu cầu nội bộ của nhà Dòng. Như đã nói chức năng của nó là giúp cho các giáo sĩ từ Lisbonne mới qua một mớ ngữ vựng tối thiểu để giao tiếp với dân bản xứ, và huấn luyện giáo lý cơ bản cho tân tòng muốn theo đạo Chúa, với những tài liệu trình độ như Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes.
Với nhu cầu như vậy, xem ra vốn ngữ vựng của DALeL cũng đã đầy đủ. Gần bốn thế kỷ sau, nhu cầu nội bộ của nhà Dòng Hà Nội về tiếng An Nam có lẽ không gia tăng, nên ta không thấy một cuốn tự điển mới nào dày hơn ra đời. Nhu cầu cố định thì ngữ vựng cũng cố định.
Tiếng Quốc ngữ là tiếng Việt ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam viết theo mẫu tự Bồ.
Trái lại tiếng Việt tất nhiên có từ khi có nước Việt Nam. Nó phục vụ cho mọi nhu cầu của dân tộc, từ giao tiếp hàng ngày, yêu thương vợ chồng, dậy dỗ con cái, sinh hoạt học đường, văn chương thơ phú vân vân... Nó có một số ngữ vựng khổng lồ có thể diễn tả được mọi ý nghĩ, mọi ý niệm, dù phức tạp hay tế nhị đến đâu. Tất nhiên là nó có từ lâu, từ nhiều thế kỷ trước khi Tây tìm ra pho sách cổ là cuốn tự điển Rhodes làm khởi điểm để thay thế chữ Nôm.
Chỉ một truyện Kiều cũng đủ chứng tỏ sự giàu có của tiếng Việt. Truyện đủ ngữ vựng, đủ tinh tấn, đủ tế nhị, đủ hào hùng, đủ nên thơ để xử lý mọi tâm cảnh. Viết bằng chữ Nôm hay viết bằng mẫu tự Bồ Đào Nha, sự việc cũng thế thôi. Cái chân lý vẫn không đổi là Việt ngữ là một ngôn ngữ đã phát triển đến chỗ tinh hoa dù viết bằng phương pháp nào. Nói cách khác, Quốc ngữ hay Việt ngữ có lịch sử dài như lịch sử đất nước, chứa đựng tất cả văn hoá và văn minh Việt Nam.
Cái vốn 8000 chữ các cha Bồ để lại có giúp gì cho Quốc ngữ không? Sự thật là không có bao nhiêu. Những từ quá cũ sau ba bốn thế kỷ đã tự đào thải ra khỏi ngôn ngữ dân chúng. Nhiều từ khác cũng không dùng được vì đánh vần không chuẩn, như Trời đánh vần thành Blời, Bậy đánh vần ra Vạy, vân vân và vân vân. Chỉ cần đọc Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes ta thấy ngay vấn đề của 8000 từ các giáo sĩ đã phiên âm mà để lại. Tại sao các tu sĩ Bồ đã phiên âm không chuẩn? Lý do hiển nhiên là phiên âm tùy thuộc rất nhiều khả năng nghe của người phiên âm. Nghe sai thì đánh vần sai. Những tu sĩ Bồ dù học vấn uyên thâm cũng ít khi có cặp tai của người bản xứ khi nghe tiếng Việt.
Khi mập mờ lẫn lộn Quốc ngữ với tiếng An Nam của tự điển Rhodes, Pháp muốn ta hiểu lầm rằng tất cả ưu điểm của Việt ngữ là nhờ phiên âm ra mẫu tự Bồ mà có. Hiểu lầm như vậy, ta phải ơn Rhodes vì ông là cha đẻ của Quốc ngữ. Pháp vun đắp cho sự ngộ nhận bằng đủ mọi cách.
Hình ảnh của Rhodes xuất hiện khắp nơi, từ bìa vở học trò cho đến con tem bưu điện. Những hội ái hữu Việt Pháp treo những tấm chân dung vĩ đại của ông. Sách giáo khoa bậc trung và tiểu học có những bài vô cùng kính phục và ưu ái, tri ân vị giáo sĩ gốc Avignon đã tận tình chế tạo cho Việt Nam một văn tự thích nghi để bước vào thời đại văn minh... Sau khi được Pháp ra công tô điểm, De Rhodes có thể sánh với các thánh hiền xa xưa như Thần Nông, Nhâm Diên hay Sĩ Nhiếp...
Lập luận tuyên truyền của Pháp không phải không có ảnh hưởng. Thời Cộng hòa của chính phủ miền Nam, ảnh De Rhodes vẫn được in trên tem bưu điện. Ngòai Bắc, tượng De Rhodes dựng tại vườn hoa bờ hồ Hòan Kiếm bị chính quyền cộng sản dẹp đi một thời gian, đến gần đây không rõ lý do gì được phục hồi và đặt lại tại công viên cũ.
Ta phải phục khả năng thuyết phục của người Pháp, khi khá gần đây một hoạ sĩ Việt Nam vẽ bức tranh lớn trình bày cảnh De Rhodes đã thành thánh, ân cần đưa thi hài cụ Nguyễn Văn Vĩnh vào thiên đường. Tôi không tin cụ Vĩnh muốn như vậy. Tất nhiên cụ đã qua đời trước khi bức tranh được vẽ, và cụ không thể cải chính được sứ điệp của người hoạ sĩ xu thời.
Có lẽ chi tiết có khả năng tổng hợp và nhất quán hóa nhất về huyền thọai Alexandre de Rhodes là Pháp tịch của tu sĩ. Huyền thoại này gom gọn tất cả những mập mờ về De Rhodes thành một chủ đề, là Việt Nam nợ nước Pháp một thánh nhân đã có công lớn mang lại văn tự và văn minh cho mình. Nhưng sự thật là sự thật, và trước khi sang đề tài khác, tôi xin xét lại từng nhược điểm chính của luận điệu thực dân:
1. Alexandre de Rhodes không phải là người Pháp. Cha ông gốc Tây Ban Nha và mẹ ông gốc Ý Đại Lợi. Thời De Rhodes, sanh quán Avignon của ông cũng không thuộc địa phận Pháp. Nhiều nhiều năm sau, Avignon mới sát nhập với Pháp.
2. Alexandre de Rhodes không phải là người có sáng kiến lấy mẫu tự Bồ để phiên âm chữ Nôm. Như đã nói, khi Rhodes tới Việt Nam thì nhà dòng Hà Nội đã phiên âm tiếng Việt từ lâu. Chính họ đã vỡ lòng De Rhodes về tiếng Việt phiên âm bằng mẫu tự Bồ của họ.
3. Cuốn tự điển của Alexandre de Rhodes là một sưu tập từ ngữ không mấy hữu dụng. Như đã nói, không kể sự già cỗi bắt buộc sau hơn ba thế kỷ đông lạnh, một phần không nhỏ của 8000 từ sưu tập đã bị đánh vần sai. Các tu sĩ Bồ dù sao cũng là người ngoại quốc, nên tai nghe tiếng Việt chỉ chính xác đến mức tương đối.
4. Cuốn Phép Giảng Tám Ngày phản ánh sự giới hạn kiến thức trầm trọng của De Rhodes về văn hoá, triết học, và tôn giáo Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng. Phát biểu một cách bừa bãi (Chương 4, Các Đạo Vạy), sách cũng phản ánh sự coi thường nước chủ nhà của tác giả. Đây là sự hỗn hợp của hai điều đáng tiếc, một là sự khiếm khuyết kiến thức trầm trọng và hai là cung cách phát biểu bất nhã và thô bạo. Nó nguy hiểm cho liên hệ hài hòa giữa Lương với Giáo, và gây ra một hình ảnh bất lợi cho nhà thờ Thiên Chúa giáo, nơi tôi có nhiều thầy cũng như bạn.
Vậy thì ta nên ơn ai hay ơn cái gì? Không phải bỗng dưng trên trời rơi xuống mà ta có được chữ Quốc ngữ. Tôi nghĩ ta phải cảm ơn các giáo sĩ Bồ đã chế tạo cho ta một mẫu tự rút ra từ mẫu tự của họ. Dù họ đi khỏi Việt Nam đã mấy thế kỷ, các nhà làm tự điển Việt Nam vẫn có thể một mình tiếp tục phiên âm những từ cần thiết bằng cách dùng bảng mẫu tự này mà đánh vần. Không có một bảng mẫu tự nào khác trên thế giới có thể đóng góp như vậy cho chúng ta.
Quả thật, cái kỳ diệu của bản mẫu tự là mặc dù đã có hàng chục người Việt Nam làm tự điển, mà kết quả kể như vẫn tương đối nhất quán. Khác nhau chút đỉnh từ người này sang người khác vì cách phát âm địa phương, nhưng tựu trung vẫn là tiếng Việt, không ngô ngọng như mớ từ An Nam Mít của tự điển Rhodes.
Vấn đề còn lại là một ngày nào đó, một viện hàn lâm Việt Nam sẽ xét lại mỗi từ Việt Nam, để hoàn tất toàn bộ chính tả theo một số quy ước chung được mọi người đón nhận trong tinh thần yêu thương dân tộc. Một công cuộc như vậy không phải là không làm được.
Nhu cầu tương lai. Sau cùng tôi có vài ước mong về tiếng Quốc Ngữ. Có lẽ trong tương lai càng gần càng tốt, chương trình giáo dục tại cấp tú tài hay dự bị đại học nên có ít nhất trong các lớp chuyên về nhân văn một số giờ tối thiểu về chữ Nôm đã đành, mà còn về ngôn ngữ và văn hoá Bồ Đào Nha với bản mẫu tự đã là chìa khoá để phiên âm chữ Nôm ra Việt ngữ hiện tại. Các sinh viên trong lãnh vực này tất nhiên chữ Nôm phải thấu đáo, mà tiếng Bồ cũng nên học với độ kỹ tương đương.
Một số giờ tối thiểu cũng nên dành cho các tu sĩ Dòng Tên đã tiên phong trong việc La-tanh hoá chữ Việt như Francisco de Pena, Antonio Barbosa, Gaspar do Amaral, và sau cùng như Alexandre de Rhodes. Với họ, và đặc biệt với tu sĩ De Rhodes, ta cần một cái nhìn mới dưới ánh sáng khoa học thuần túy, thay vì xu hướng thần thánh hoá nặng ý đồ tư lợi của chánh quyền Bảo Hộ trong quá khứ, hay xu hướng khắt khe về sau của một số học giả đồng hương mà lòng căm phẫn chưa nguôi vì những tội ác cũ của thực dân.
Sau cùng, ta cũng không nên quên những người Việt đã cộng tác với các giáo sĩ Bồ trong công trình phiên âm chữ Nôm. Họ là ai, cuộc sống như thế nào, tương quan với các tu sĩ ngoại quốc như thế nào, ta hoàn toàn không biết hay chưa biết thấu đáo. Ta chỉ biết họ phần đông là giáo dân, đúng đắn thấy được giá trị tâm linh của đạo Chúa để gửi đức tin, mặc dù sự cấm đạo không sáng suốt của vua quan ta bấy giờ cũng như sự cẩu thả của những văn bản như Phép Giảng Tám Ngày của De Rhodes.
Cuộc đời của mỗi đồng bào ruột thịt ấy là một cuốn tiểu thuyết về thân phận con người giằng co giữa những thử thách của đức tin, lương tâm, gốc nguồn, xã hội và lịch sử. Còn nữa, là dân bản xứ phục vụ trong cơ sở ngoại nhân, họ bị coi như nhân viên phụ thuộc trong công tác ngữ học của các giáo sĩ. Vậy mà trong mỗi ê-kíp phiên âm Bồ Việt, tôi không ngạc nhiên nếu với từng chữ Nôm được phiên âm, họ hiểu rõ nghĩa hơn, nghe và phát âm chuẩn hơn, so với đối tác ngoại quốc. Vì sự lãng quên của hòan cảnh, tên tuổi họ chưa được truy nguyên rõ ràng và công lao của họ chưa được ghi nhận đúng mức. Đã đến lúc trả cho César cái gì của César, và một Đại học Ngôn Ngữ chân chính phải tìm hiểu cho rõ danh tánh cũng như công lao của những người Việt tiền phong trong công cuộc phiên âm chữ Nôm ra vần La-Tanh.
Tôi có bệnh lạc quan kinh niên và những ước vọng không mệt mỏi cho tương lai Việt ngữ. Tôi thấy trong tương lai gần một trường cao đẳng ngôn ngữ quốc gia được thành lập. Trường có một đội ngũ học giả có khả năng quốc tế, chuyên về những vấn đề liên quan đến tiếng Việt trước cũng như sau Quốc ngữ.
Nhìn trong khuôn khổ hẹp của bài này, cơ sở ấy sẽ đánh giá bằng cái nhìn phi chính trị, phi cảm tính, và nếu cần phi hận thù, phần công lao của các nhà tiền phong Việt cũng như Bồ hay Pháp trong việc La-tanh hoá chữ Nôm...
Nhìn rộng ra thì cơ sở ấy sẽ là điểm phát xuất những trao đổi lưỡng lợi và rộng rãi với các cơ sở quốc tế như Trường Ngôn Ngữ Á Đông của Pháp hay một cơ sở tương đương của Bồ Đào Nha, hay Văn khố Hội Truyền Giáo Paris cũng như Văn Khố Giáo Hội Lisbonne... Những luận án giá trị do sự cố gắng quốc gia hay sự cộng tác quốc tế sẽ ra đời, về những tác phẩm đầu tiên viết bằng Quốc ngữ tại vùng thuộc địa Nam Kỳ hay vùng Bảo Hộ Trung và Bắc Kỳ, về những suy ngẫm đối chiếu hai ngôn ngữ Bồ Việt, từ ngữ vựng tới văn phạm, từ sự giống nhau hay khác nhau của linh hồn hai dân tộc qua tiếng nói, về chuyện lợi lạc của Quốc ngữ trong việc chống nạn mù chữ, hay chuyện thiệt thòi vì bỏ chữ Nôm mà mất liên lạc với văn học Tàu cùng với kho tàng dịch thuật đồ sộ người Tàu đã thực hiện từ cuối nhà Thanh tiếp nối bởi chế độ Dân Quốc cho đến bây giờ... Đó là những bông hoa sẽ nở trong vườn văn học và nhân văn đất nước.
Mai Kim Ngọc
Tháng 5, 2012.

Thứ Năm, 21 tháng 11, 2019

FB Luân Lê : HÃY NHÌN VÀO HỌ BẰNG ĐÔI MẮT MỞ TO













Hãy tin rằng, chúng ta chỉ có thể học được điều gì đó ở những người quả cảm, vì những kẻ hèn nhát thì luôn trốn chạy, bạn không thể tìm thấy chúng ngoài những dấu chân của một kẻ thoái lui.
Hãy nhìn những nữ nhân Hồng Kông bằng một đôi mắt mở to, để thấy họ đã đứng lên như thế nào trước bạo quyền ngày càng khốc liệt hòng giữ lấy một nền dân chủ cùng các quyền về tự do của mình. Nhưng hãy nhớ câu nói của Goethe: Trước một trí tuệ vĩ đại tôi cúi đầu. Trước một trái tim vĩ đại tôi quỳ gối.
Hãy đặt câu hỏi rằng, bạn sẽ học hỏi được gì từ một kẻ chỉ cần một ly cà phê 15.000 đồng và một tô phở giá 2USD và coi đó là hạnh phúc của đời người, trong khi xã hội đang rơi vào khủng hoảng mọi nền tảng giá trị một cách sâu sắc chưa từng có?
Hãy nhớ rằng, những nữ nhân Hồng Kông thừa đủ điều kiện về kinh tế và trí tuệ để có thể thụ hưởng một mức sống vượt xa những thứ mà những kẻ nông nổi ở xứ này thường hay phô bày trên mạng xã hội. Nhưng mà họ đã lựa chọn những giá trị cao cả nhất của một con người để sống và chiến đấu cho điều đó.
Hãy nhìn họ bằng một đôi mắt mở to. Đôi mắt ấy là tâm thức chứ không phải là cái thực quản dẫn tới chiếc dạ dày.

Thứ Tư, 20 tháng 11, 2019

THÍCH TRÍ QUANG VÀ NHỮNG HỒN MA BÓNG QUẾ


Thích Trí Quang nằm xuống. Đống tro tàn nguội lạnh của "thời kỳ tranh đấu chống Mỹ-Diệm" nhờ đó lại được xới tung lên. Xen lẫn tiếng gõ mõ cầu hồn và vinh danh người được cho là từng làm "rung chuyển nước Mỹ" là những tiếng hát bè đủ nhịp điệu của những kẻ một thời ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản. Họ vừa ca tụng "thầy" vừa gián tiếp ca ngợi thời oanh oanh liệt liệt của phong trào "chống Mỹ cứu nước" - trong đó có họ.
Gần nửa thế kỷ trôi qua. Giữa hiện tại bi thảm và tương lai đen tối của đất nước, những hồn ma bóng quế ngày nào chợt nhao nhao sống lại, nhảy múa quanh cái xác đang toả ánh âm u bởi những đóm lửa ma trơi. Đột nhiên, cả một giai đoạn được những con ma xó này cho là thời kỳ rực cháy lý tưởng dường như lên đồng và bừng bừng sống lại. Tưởng chừng như đất nước ngày hôm nay đang huy hoàng xán lạn nhờ vào những ngày tưới xăng đốt lửa lên đầu ở Sài Gòn dạo ấy. Những con ma xó ngày xưa lại chui ra khỏi bóng tối trùm mền để vừa ca ngợi hồn ma Trí Quang, vừa gián tiếp tự vỗ về lương tâm trong việc đã cùng "thầy" đứng lên chống "bè lũ Diệm-Nhu, Thiệu-Kỳ" cho "hoà bình", "độc lập".
Hơn 40 năm, thời gian còn tương đối ngắn để có những phán xét lịch sử thật sự khách quan và công bằng về con người Thích Trí Quang. Nhưng từ năm 1975 đến nay - trong suốt 44 năm - chính Thích Trí Quang, với cuộc sống và thái độ của ông ta, đã viết bản án kết tội mình chứ không ai khác.
Cũng chính con người được cho là cao tăng đức độ từ bi ấy, đã ngoảnh mặt trước mọi khổ đau của đồng loại. Từ bi nào có được trong sự im lặng trước thảm cảnh thuyền nhân, hàng triệu người bỏ nước ra đi, hàng trăm ngàn người bỏ thây trên biển cả, hàng vạn người bị đày lên rừng sâu nước độc trong những trại tù mang tên "cải tạo", và tiếng khóc của dân oan kéo dài xuyên thế kỷ?
Cũng chính con người được cho là đấu tranh cho đạo pháp ấy đã lấy câm nín làm đại cục khi Hồ Chí Minh leo vào chùa, ngồi bên cạnh Phật, khi Phật pháp bị xâm lăng bởi những tên sư xin tí khí và đoàn ngũ tăng ni nắm quyền lãnh đạo giáo hội đã được đổi tên, quốc doanh hoá là những tên sư đội nón cối xếp hàng viếng lạy Hồ Giáo Chủ ở lăng Ba Đình.
Cũng chính con người được tung hô là yêu nước ấy đã kiên trì làm ma xó trong chùa, bỏ mặc đất nước bị nhà cầm quyền đem dâng, đem bán, bỏ mặt những thanh niên thiếu nữ Việt Nam - hình ảnh trung thực nhất của lòng yêu nước - bị bỏ tù, bị đày đoạ. Đối với ông Thích Trí Quang, chế độ "Mỹ Nguỵ" chắc hẵn phải xấu xa, tồi tệ, bán nước, hại dân hơn chế độ CSVN lắm lắm để mà "thầy" ngày trước đứng lên "tranh đấu" và ngày sau "thầy" an lành sống "hoà bình" với đám thổ phỉ Ba Đình? Bi Trí Dũng. Bi đối với số phận nghiệt ngã của đồng loại cũng không. Trí để nhìn ra những hệ quả và thủ phạm của hoang tàn đất nước cũng không. Dũng để nếu có nhận thức đúng đắn và từ đó bày tỏ thái độ, đứng lên cứu đạo, cứu nước, cứu đời cũng không. Những gì xảy ra sau ngày 30/04/1975 tự nó chứng minh con người thật của Trí Quang trước ngày 30/04/1975. Ông ta không xứng đáng được gọi nguyên pháp danh là Thích Trí Quang chứ đừng nói đến có 2 danh xưng Hoà Thượng đi trước tên.
Hơn nửa thế kỷ trước, Trí Quang và những hồn ma bóng quế ngày nay đã dùng xác người khác để đốt lên ngọn lửa ở Sài Gòn. Ngọn lửa ấy đã góp phần đốt cháy căn nhà Việt Nam ngày hôm nay. Không cần đến lịch sử ngồi vào ghế quan toà, chính hệ quả sau cùng dẫn đến tình trạng đất nước sau 1975 và đời sống của họ sau ngày tháng 4 đen là bản án tự kết tội họ.
Hãy để cho những hồn ma bóng quế chết trong im lặng. Lịch sử đã quá mệt mỏi và chán chường với những con ma xó này. Khơi lại đống tro tàn của những "thành tích" góp phần làm nên bộ máy buôn người và bán nước hôm nay thì người ta sẽ lại lôi những con ma xó ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản ra để tế độ như đang tế độ tên nhạc nô, biệt kích văn hóa Trần Long Ẩn - đồng chí của Thích Trí Quang vừa ăn cơm quốc gia, vừa gỏ mỏ, vừa tụng kinh, vừa tiếp tay với tập đoàn quỷ đỏ vô thần làm tròn sứ mạng của chúng là - ta đánh là đánh cho Nga cho Tầu, là đánh cho Mỹ cút Nguỵ nhào, là đánh cho hộc máu đồng bào miền Nam.
Hãy để quá khứ chôn vùi theo những lương tâm không bằng lương tháng và tâm hồn mỏng hơn cuốn sổ hưu của những người "hùng" chống Mỹ cứu nước bây giờ đã già nua theo sự nghiệp ăn mày quá khứ và ăn bám tương lai. Hãy để ông thầy tu làm rúng động nước Mỹ ngày xưa nhưng không lung lay được một sợi lông chân của Tàu ngày nay chết thật sự trong im lặng như ông ta đã chết trong giả vờ kể từ ngày 30 tháng 4. Hãy để những người dân Việt khốn khổ ngày hôm nay nhìn về phía trước, bỏ lại những lọc lừa của quá khứ và đứng lên hiện tại để tranh đấu cho tương lai của thế hệ mai sau.
Và nhắc nhở những hồn ma bóng quế nên nhớ rằng - Thích Trí Quang không phải là Phật pháp cũng như hàng ngàn tên Thích Tí Khí đang tụng kinh gõ mõ không phải là Thầy tu. Để đừng vơ đũa cả nắm và chụp mũ cho những ai có ý kiến ngược với mình đối với những kẻ cạo đầu, vào chùa làm loạn ngày xưa và xin tí khí ngày hôm nay là những người đang chống phá Phật Giáo.
Vũ Đông Hà (Danlambao)
Copy từ trang Hoài Niệm Miền Nam Một Thời

Thứ Hai, 18 tháng 11, 2019

NỌC ĐỘC TỪ KHỔNG TỬ, NÓ CÀNG KINH KHỦNG, KHI ÔNG LÀ MỘT HỌC GIẢ.

Vien Huynh

Tôi không hiểu một số người có ăn có học đàng hoàng, nhưng lại bênh vực tư tưởng Nho giáo một cách ngu xuẩn.
Vừa rồi, mới tranh luận với một ông anh lớn hơn mình độ mười tuổi, ông bảo rằng: nếu Nho giáo sai lầm thì tại sao Việt Nam lại xem nó là nền tảng văn hóa đạo đức suốt mấy ngàn năm nay. Mình buồn cười bảo: nói thật là tại vì người Việt Nam mình quá ngu (xin lỗi, đó là sự thật), nên mới tôn thờ cái thứ triết lý phản khoa học này. Ổng điên lên và block mình luôn, ổng nói mình là thầy giáo mà ăn nói hàm hồ, không biết nguồn cội.
Nếu ổng chịu nhìn ra xung quanh thì các nước xung quanh vốn bị Nho giáo kìm hãm đã bứt xích vươn lên từ lâu, chỉ còn Việt Nam lẹt đẹt mãi. Ngay cả Lỗ Tấn còn gọi: “Nho giáo là thuốc độc của tinh thần”, thì không hiểu sao nhiều người Việt Nam vẫn tôn thờ nó.
Triết lý Nho giáo đầy rẫy những mâu thuẫn tự phủ định bản thân:
● Trong khi một mặt khuyên “nam nhi chí tại tứ phương”, mặc khác lại ràng buộc “phụ mẫu tồn bất khả viễn du” (cha mẹ còn sống thì không được đi xa). Ngày xưa còn có cả việc khi cha mẹ mất phải bỏ hết việc về nhà dựng lều bên mồ ba năm thủ tang.
● Nam nhi chí tại bốn phương thế nào, khi mục đích học là chỉ để đạt chút công danh, để về lo vun đắp cho dòng họ gia đình?
● Chí tại bốn phương thế nào khi phải lấy vợ sinh bằng được con trai, không thì cứ phải đẻ mãi cho khi có thằng cu để sau này nó để tang cho? Đàn ông mà chỉ chăm chăm vào những chuyện đấy thì chí làm sao lớn nổi?
● Nho giáo dạy: “thượng bất chính, hạ tất loạn”, nhưng lại kèm theo câu “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” là thế nào? Mồm thì bảo thằng trên không ra gì, thì đừng trách thằng ở dưới, nhưng lại cho quyền thằng ở trên lạm sát thằng dưới và thằng dưới phải chịu chết để khỏi mang tiếng bất trung.
● Bảo: “quân dĩ dân vi bản” (vua lấy dân làm gốc), nhưng đồng thời dạy “tấc đất ngọn rau đều nhờ ơn vua”.
● Dạy: “phụ bất từ thì tử bất hiếu”, nhưng lại dạy “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Cha mẹ giết con mình thì có thể gọi là “từ phụ” không? Con muốn sống thì lại cho là bất hiếu, thì nó là thứ đạo lý quái gở gì?
● Nho giáo dạy: “phu phụ tương kính như tân” (vợ chồng kính nhau như khách), nhưng lại bắt người phụ nữ “xuất giá tòng phu” (lấy chồng thì phải phụ thuộc vào chồng). Thử hỏi, nếu đã kính trọng lẫn nhau như khách, thì sao lại có chuyện “tòng phu”? Đã tôn trọng nhau, thì sao lại cho quyền “nam hữu tam thê tứ thiếp” còn “gái chính chuyên chỉ thờ một chồng”?
Trong cuộc sống hàng ngày, Nho giáo cổ súy cho bất công và coi thường con người:
● Tại sao cũng là con rứt ruột đẻ ra, mà: “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một đứa con trai thì coi là có, mười đứa con gái cũng coi là không), hay “nữ sinh ngoại tộc” (con gái sinh ra là con nhà người ta)?
● Vợ chồng sống với nhau suốt đời, đồng cam cộng khổ, cùng nhau nuôi dạy con cái nên người, thì dạy là: “phu thê như y phục”, còn anh em tuy cùng một mẹ một cha, nhưng khi lớn lên mỗi người một cuộc đời riêng, thì lại dạy: “huynh đệ như thủ túc”. Đó là chưa kể chuyện mấy bố nghĩa khí rởm, sĩ diện hão, ra ngoài kết nghĩa với những thứ “anh em” giang hồ vớ vẩn, bị người ngoài lợi dụng, trong khi vợ con ốm đau gần chết cũng chẳng nhờ được mà mồm vẫn cứ leo lẻo “huynh đệ như thủ túc, phu thê như y phục”... !
Nho giáo dạy người đi học tôn sùng và lệ thuộc quá mức vào vai trò của người thầy (nhất tự vi sư, bán tự vi sư) và những thứ gọi là “sách thánh hiền” (thậm chí cái gì từ Nho giáo viết, cũng cứ cho là sách nói, sách của ÔNG THÁNH), nhưng không khuyến khích tự suy nghĩ phản biện, không tự tìm tòi học hỏi ngoài những gì thầy dạy. Mục đích của việc học là giải phóng tư tưởng và mở mang kiến thức, trong khi mục đích học của Nho giáo là làm nô lệ cho tư tưởng và kiến thức ( giỏi cỡ ông Nguyễn Công Trứ mà còn "lên bờ xuống ruộng" nữa là thứ "học hành 3 chữ lem nhem..."
Nho giáo không cổ súy cho sự thượng tôn pháp luật, mà cổ súy cho việc sùng bái cá nhân (quan thanh liêm, vua hiền biết thương dân), nên người dân mặc nhiên nghĩ rằng việc bị những kẻ có quyền bóc lột, hoặc đè đầu cưỡi cổ là chuyện bình thường, còn lâu lâu được ban tí ơn "mưa móc" thì coi đó là phước đức phải mang ơn suốt đời. Chính vì vậy, dù có bị chèn ép bất công tới đâu, họ cũng cố cắn răng chịu và mong chờ một minh quân hoặc liêm quan xuất hiện.
Nho giáo đặt "trung quân" đứng trước "ái quốc", có nghĩa là xem việc trung thành với một cá nhân, một dòng họ hoặc một thể chế trên cả lợi ích của đất nước và dân tộc? Thế mà gọi là đạo thánh hiền sao? Trong tam cương, mối quan hệ "quân thần" nặng hơn "phụ tử" và "phu phụ". Logic đó là như thế nào? Kẻ cai trị mình thì coi trọng hơn cả cha mẹ vợ chồng; luân lý này là thứ luân lý gì? Ở thế kỷ 21, mà vẫn còn có nhiều người coi Nho giáo là chuẩn mực đạo đức và truyền thống văn hóa dân tộc, thì tôi nói thẳng là tiền đồ dân tộc Việt Nam còn tăm tối dài dài. Rất xúc động khi đọc bài viết của em, càng xúc động hơn khi tôi có một người bạn từ thời thơ ấu, bạn ấy học rất giỏi, cả nhà đều học giỏi, nhưng gần đây, trên fb, bạn ấy ghi rằng: "Bà nội tôi, bà ngoại tôi, mẹ tôi, dì tôi, cô tôi, vợ tôi và cả hai con gái của tôi nữa, họ đều là nữ nhân, mà (đã là) nữ nhân là tiểu nhân..." Đau thật, khi Khổng Khâu ghi câu: "nữ nhi thường tình", nữ nhi chính thị tiểu nhân, để đề cao nam nhi bằng câu "nhứt nam viết hữu, thập nữ viết vô", ông Khổng cho rằng: "nam nhi đại trượng phu", "nam nhân - quân tử", "nữ nhân ngoại tộc", nữ nhân - tiểu nhân", v.v...
 [Vien Huynh]
Mời bạn đọc tiếp bài viết của Đặng Tiến, tôi rất quý bạn này, dù chưa gặp mặt:
HÃY ĐẬP TAN CỬA HÀNG HỌ KHỔNG
Tác giả: ĐẶNG TIẾN
"Tôi quan sát và thấy từ hàng trăm năm trước có ba nhân vật vĩ đại nhất Á châu đều coi Nho giáo là kẻ thù không đội trời chung. Ba nhân vật ấy là ai? Thứ nhất là nhà cách mạng Tôn Trung Sơn, thứ hai là nhà Khai sáng Fukuzawa Yukichi và thứ ba là Văn hào Lỗ Tấn.
Tôn Trung Sơn là người khởi xướng chủ nghĩa Tam dân:
● Dân tộc Độc lập,
● Dân quyền Tự do,
● Dân sinh Hạnh phúc. Độc lập + Tự do + Hạnh phúc, là bộ ba không thể tách rời nhau.
Fukuzawa là người đề xướng "Thoát Á luận" trong đó có một ý tôi diễn nôm na là thế này: chỉ cần là hàng xóm của Tàu đã là điều đáng xấu hổ rồi, đã bị thế giới Văn minh người ta khinh thường rồi.
Ai không tin diễn nôm của tôi thì vào trình duyệt Google, gõ từ khóa "Thoát Á luận" và đọc xem có đúng như vậy không!
Còn Lỗ Tấn thì chắc chắn là vô cùng căm ghét Nho giáo. Chả tin, mời bạn đọc lại một lần thôi, truyện ngắn "Khổng Ất Kỉ", hoặc "Trường minh đăng" để xem tôi nói có đúng không.
Điều thú vị là cả ba nhân vật vĩ đại này đều không chủ trương "gạn đục khơi trong" chi hết mà là vứt bỏ, vứt bỏ, vứt bỏ.
Tôn Trung Sơn và Lỗ Tấn có chung một ý: thời gian đời người có hạn, nên dành thời gian ấy mà đọc sách Tây Phương cho nó mở mang bộ óc ra. Cổ thư Trung Hoa trong đó có tứ thư ngũ kinh là thuốc phiện dính vào là mắc nghiện, là bị đầu độc là trở thành nô lệ mù quáng rũ ra không được.
 Nhà Khai sáng Nhật Bản thì luôn khẳng định đọc những thứ ấy chỉ làm hư hỏng bộ óc con người.
 Một nước mạnh như Hoa Kì mà phải đề ra chính sách toàn diện để tẩy chay các Học viện Khổng tử thì đủ biết sự nguy hại của Khổng giáo - Nho giáo nó ghê gớm thế nào!
Một lần nữa, cho tôi được nhắc lại:
Nhà nước toàn trị kiểu Trung Hoa được kiến tạo trên cơ sở học thuyết Khổng giáo là thứ nhà nước kinh khủng nhất bởi sức sống dai dẳng của nó.
Chính thể toàn trị nào thì cũng đề cao chủ nghĩa ngu dân. Nhưng chủ nghĩa ngu dân kiểu Nho giáo là kinh khủng nhất. Lỗ Tấn khẳng định nó là xích mềm, là độc dược làm tê liệt con người, khiến cho con người thích được làm nô lệ, vui với thân phận nô lệ, tự hào vì được làm nô lệ, khóc nấc lên nghẹn ngào khi mình là nô lệ.
 Cứ đọc "A.Q chính truyện" là thấy hết.
Tôi có đọc tuy không được nhiều, mà đọc nhiều để làm gì khi thấy chỗ khốn nạn nhất của học thuyết này là lợi dụng trình độ còn thấp của những người lao động để đầy đọa họ thêm vào vòng tăm tối ngu muội.
Khổng giáo - Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức.
Về phương diện đạo đức nó cực kì giả dối; về phương diện chính trị nó cực kì bảo thủ và phản động. Cho nên chúng ta muốn người Việt mình tiến bộ thì dứt khoát phải nói không với Nho giáo dù nó biến hóa ở bất cứ hình thức nào. Tôi không có ý định tranh luận với ai. Anh chị em nào đồng ý thì like. Không thì từ bỏ kết bạn với tôi, càng tốt!"
 [Đặng Tiến] *******
Đăng lại ý này: Cách đây mấy ngày, khi nhìn thấy bìa của môn Lịch sử lớp 7; và trước đây, khi thấy xây nhiều Viện Khổng Tử, tôi đã không vui, bởi cho dù Khổng tử có là một nhân vật siêu quần thì ông ta cũng chỉ là một học giả, thậm chí bác học thì cũng thế thôi. Khổng Khâu cũng chỉ là một con người, không phải thánh. Còn việc lấy nó làm kim chỉ nam, làm thần tượng, theo tôi là không nên, bởi nó quá bảo hoàng, bởi nó gìn giữ sự không công bằng giữa con người với con người. Theo tôi, dù anh có học rộng đủ điều, anh giàu có quyền cao chức trọng, thì anh cũng chỉ là người, không hơn. Một nông dân ít học, cũng là người, thậm chí họ còn có thể nhân văn hơn, tôi kính trọng họ hơn, bởi: "CHỮ TÂM KIA MỚI BẰNG BA CHỮ TÀI" (Truyện Kiều, NGUYỄN DU) bởi: "THÔNG MINH PHẢN BỊ THÔNG MINH NGỘ" (Trần Hy Di Tiên Sinh, Trung Hoa) Vả lại, theo tôi, cái "tam giáo cửu lưu" ấy, cái "Khổng Lão Nho" ấy đã quá lỗi thời. Tôi không dám "phủ định sạch trơn", vẫn muốn kế thừa những cái hay nhất định, nhưng xem ra không ổn. Tôi tự thấy mình cũng là sản phẩm của những điều đã kể trên, bây giờ đem chặt bỏ, kể cũng đau lắm chứ. Nhưng, vì con em chúng ta, vì tiêu chí "Tổ quốc trên hết", tôi muốn ủng hộ 3 triết gia đả phá cái lỗi thời đã kể trên, để VIỆT NAM có thể hội nhập tốt cùng thế giới văn minh, năng động hơn. Rất mong quý vị ủng hộ, xin trân trọng!
Hoangtuan Nguyen

Bài trước : Bàn về sự tối tăm của Nho Giáo

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2019

Chính Quốc Dương: CẨM NANG ĐỂ NGƯỜI MIỀN NAM RA BẮC ĐƯỢC AN TOÀN

Link : https://www.facebook.com/phusan.bacsi/posts/468743120409849
Người Bắc không hề kỳ thị dân Nam nhưng dân buôn bán vặt ngoài Bắc có xu hướng chặt chém người ngoại tỉnh, không cứ gì dân Nam mới bị chém, cứ lơ ngơ là dính, nhưng người miền Nam là dễ nhận biết hơn cả và lại hiền lành và hào phóng, nên dễ làm thịt. Dân miền Trung cũng dễ nhận biết qua giọng nói, nhưng đố mà thịt được họ. Hôm nọ có bạn miền Nam đã viết cẩm nang cho người miền Bắc vào Nam cho dễ hòa nhập , mình tuy dặt dẹo ở trỏng lâu, chả lạ gì, nhưng vẫn cảm kích muốn đáp lễ bằng cẩm nang tương tự cho dân miền Nam ra Bắc. Vấn đề cốt lõi là các bạn phải biết che giấu thân phận, nguồn gốc của mình và phải biết tránh những nơi lang sói trú ngụ, tránh kích động lòng tham và tính húng chó của thương gia cũng như bần nông miền Bắc. Khoản chặt chém thì kinh điển nhất là ở Thanh Hóa (Sầm Sơn) nghe đồn là đỡ nhiều rồi, HN cũng chém ác, nói chung là cứ chỗ nào có khách du lịch là có đao phủ. Có nhiều bạn dị ứng với du lịch chặt chém ở Bắc, nhưng theo mình thì du lịch mạo hiểm cũng là 1 thú vui tao nhã, nên có trải nghiệm. Các bạn phải cố gắng học 1 số từ miền Bắc để giao tiếp cơ bản, giống đi du lịch nước ngoài thôi, từ vựng chủ yếu để giao dịch thương mại. Cố gắng học được cả âm điệu tiếng Bắc (HN). Chẳng hạn, bạn gọi "thanh toán" chứ đừng "tứn tiềng" hay "thăn toáng". Nếu không học nổi tiếng HN thì cũng phải cố học tiếng Thanh Nghệ hay Hải Phòng nhé. Kỹ năng này rất là khó, nhưng rèn luyện thì sẽ được. Nếu trình "ngoại ngữ" kém thì bạn đừng nên nói nhiều, chỉ cần chỉ chỏ các món hàng, nói vài câu cơ bản thôi, cho đỡ lộ. Nên chọn quán nào sang trọng chút, hoặc các chuỗi cửa hiệu có trên toàn quốc, thì sẽ có dịch vụ tốt hơn, an toàn hơn, không bị chém, cũng gần như quán trong Nam thôi. Nhưng nếu không có lựa chọn đó thì khi vào quán bình dân bạn đừng "đòi hỏi", chẳng hạn như ăn uống 4 người thì đừng có đòi 2 bát nước chấm, vì người Bắc tiết kiệm, chỉ có 1 mà thôi, chấm chung cho nó đoàn kết. Bạn đòi 2 bát trở lên có thể bị ăn chửi. Nếu muốn có bát thứ 2, bạn cứ bảo chủ quán là thằng ăn cùng em bị ho lao, viêm gan B, cho em xin bát nước chấm nữa. Người Bắc vốn dễ nổi nóng, hay chửi và dễ chửi hơn người Nam, nếu chủ quán hay người phục vụ chửi ĐMM, chưa chắc họ đang chửi bạn, họ chửi ai đó thôi và họ cũng chưa nóng lắm đâu, bạn vẫn an toàn. Khi họ nhìn thẳng vào bạn chửi ĐCMM, lúc đó cần cảnh giác hơn, tìm đường chạy nếu không muốn lĩnh chai bia vào đầu. Từ khi cách mạng thành công, giai cấp công nông làm lãnh đạo, vào quán bạn phải kính trọng, lễ phép với người phục vụ, đừng có vẫy tay, gõ thìa, hất hàm hạch xách đòi hỏi người phục vụ, bạn tự phục vụ là tốt nhất. Chẳng hạn như tự đi lấy đũa, bát, giấy ăn, tự rót nước mắm, tự bê bát phở (thậm chí bê hộ bát phở cho khách bên cạnh), trả tiền thì tự đi ra quầy. Khi đó chủ quán sẽ có thiện cảm với bạn hơn, đỡ bị ăn chửi. Ra Bắc bạn sẽ rèn luyện được tính tự giác, không ỉ lại vào người phục vụ, rất tốt để giáo dục trẻ em! Khi mua đồ, tuyệt đối phải mặc cả trước và tránh đi mua vào buổi sáng nếu muốn mua được rẻ, nếu bạn mặc cả vào buổi sáng mà không mua hàng, bạn sẽ bị chửi sml và đốt vía (phong long). Nếu mua đồ ở Sầm Sơn - Thanh Hóa thì cần mặc cả chi tiết hơn. Chẳng hạn, ngoài việc hỏi giá các món ăn chính thì nhớ hỏi giá cả các thứ phụ như bát nước mắm, công phục vụ, rau thơm, giấy ăn... Nếu bạn có điều kiện 1 chút thì tốt nhất là đừng mặc cả, cùng lắm chỉ bị chém gấp 3 thôi, ít khi bị chém gấp 5-10 lần lắm, người bán vẫn có lương tâm. Khi đó bạn chỉ cần nghĩ đến câu "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung 1 giàn", coi như làm từ thiện cho đồng bào ngoài Bắc, ở đây bạn không mất tiền bo mà. Khi đi xe ôm hay taxi, cố gắng chọn Grab hay Uber, nếu phải dùng hàng truyền thống thì phải dùng Google maps đo khoảng cách và để biết đường đi. Tài xế taxi sẽ hay bảo bạn là "em mới đi làm, không biết đường, anh chỉ giúp em". Nếu bạn thật thà bảo "Anh ở SG ra, không biết đường, em chủ động đi", thì coi như bạn đã bo cho tài xế gấp 2-3 lần tiền. Trong trường hợp đó, bạn lén nhìn vào điện thoại để chỉ đường cho tài xế, khi anh ta thấy bạn biết đường thì anh ta cũng sẽ thạo đường hơn cả bạn. Đòn này bây giờ SG, Cần Thơ cũng đầy, tiếng lành đồn xa. Khi đi du lịch, cần mua đặc sản địa phương, chưa chắc bạn đã mua được đúng đặc sản. Chẳng hạn, mua trà ở Thái Nguyên có thể gặp trà Thanh Hóa, mua bưởi Đoan Hùng thì gặp bưởi Tuyên Quang, kể cả bà con dân tộc bán hàng cũng lừa như thường. Vụ này mình cũng bị lừa, cách tốt nhất là chọn loại đắt nhất, vì đắt thì đỡ giả hơn (không chắc chắn lắm). Khi nói chuyện với đồng bào miền Bắc, khi chưa rõ họ là ai, bạn đừng có ĐMCS, đừng xúc phạm bác Hồ, bác Giáp và ca ngợi Mỹ Ngụy, sẽ rất rủi ro. Ra đường chẳng may bị ai đó tông xe, nếu bạn còn chưa bất tỉnh, thì nên xin lỗi họ ngay lập tức với giọng thành khẩn nhất có thể, đền tiền luôn càng tốt. Nếu không muốn mất tiền hoặc xin lỗi thì nên giả vờ bất tỉnh giống như gặp gấu, đừng có trình bày. Tham gia giao thông ở HN rất phức tạp, bạn sẽ gặp thiên la địa võng những biển phân làn nhỏ nhỏ, khuất khuất, tóm lại là rất dễ dính lỗi, CSGT thì toàn anh hùng núp, sẽ xuất hiện rất bất ngờ khi cần tiền. Ở SG, bạn rẽ phải khi gặp đèn đỏ vô tư, CSGT không bắt, nhưng ở HN, AE CSGT lại hay nấp ở những chỗ mà bạn thích rẽ phải khi đèn đỏ. Tốt nhất là bạn đừng nên tự lái xe ở HN, sẽ rất căng thẳng để theo dõi các biển chỉ dẫn. Khi bị CSGT bắt, bạn search Google hoặc hỏi giá tiền phạt rồi trả cho các đồng chí ấy 50% nếu muốn được đi ngay. Giá ngoài Bắc cao hơn giá miền Nam 1 chút đấy. CSGT HN cũng hay có thói quen chặt chém dân ngoại tỉnh đấy, giá phạt thông thường là 50% giá nhà nước, nhưng nếu bạn là người ngoại tỉnh, đặc biệt là miền Nam thì có thể bạn vẫn bị chém 100%, bởi vì họ biết là bạn không thể để bị giữ bằng, giữ giấy tờ, đến kho bạc HN nộp phạt. Vì thế, bạn nên nhanh chóng đưa 50% và xin xỏ làm thân (đại khái là em ở miền Nam ra thăm lăng bác). Tạm thời mình mới nhớ tới đây thôi. Tóm lại là dân Bắc không hề kỳ thị dân Nam, ngược lại là khác, họ rất yêu quý bạn. Các bạn là cừu cho thương gia làm thịt thì sao họ lại phải kỳ thị bạn? Ngoài những vấn đề liên quan đến tiền bạc và lợi ích kể trên thì dân Bắc rất hiếu khách, họ không làm hại bạn đâu, nếu điều đó không ra tiền! Đây là mình cứ cảnh báo chung vậy thôi, chứ không phải đi quán nào cũng bị vặt tiền, nhưng cảnh giác vẫn tốt hơn. Xin nhắc lại, du lịch mạo hiểm cũng là trải nghiệm thú vị, đừng nên bỏ qua.
Chính Quốc Dương