Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Phạm Thị Kim Hoàng : DANH DỰ CỦA TÀN QUÂN QUÂN ĐỘI SÀI GÒN NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG TƯ 1975…


 ĐẤT NƯỚC, NHÂN DÂN Ở BẤT KỲ THỜI KỲ NÀO, BẤT KỲ MẶT TRẬN NÀO, BẤT KỲ CHẾ ĐỘ NÀO CŨNG CẦN, CŨNG KÍNH TRỌNG NHỮNG NGƯỜI LÍNH BIẾT TRỌNG DANH DỰ !
Blog Phamvietdaonv:Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, khi mà quân giải phóng miền nam với khí thế vũ bão tràn vào Sài Gòn và những mảnh đất còn lại của Miền Nam, kết thúc cuộc chiến kéo dài 30 năm; đó cũng là lúc chúng ta chứng kiến một sự thật khác: sự tan rã thê thảm của đội quân thất trận… 
Quân, tướng Sài Gòn phần đa đều tìm cách chạy tháo thân, kẻ thì về quê, người thì tìm đường di tản để bảo toàn mạng sống…Bên cạnh những hình ảnh ê chề đó, vẫn còn những người lính xứng đáng được kính trọng, đó là hình ảnh của một số tướng lĩnh Sài Gòn, trọng tiết tháo, khi bị thất trận đã chọn cái chết thay cho bỏ chạy…
Đất nước thời nào cũng cần những người lính biết trọng danh dự; Đó chính là lý do nhân dịp tưởng niệm 30/4, xin đưa lên blog bài viết của bà Phạm Thị Kim Hoàng, phu nhân cố Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, một sĩ quan của quân đôi Sài Gòn tại Vùng 4 chiến thuật; Tướng Lê Văn Hưng đã quyết định tuẫn tiết cùng với Tướng Nguyễn Khoa Nam, bảo toàn danh dự một người lính trong những ngày cáo chung của chế độ và quân đội Sài Gòn…
Năm Tướng lãnh của Quân đội Sài Gòn tuẫn tiết ngay 30/04/75:
 Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói:
“Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”.
 Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú… Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.
 Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.
                                   Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (1927 – 1975)
 Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau:
 - “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau:
- “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”
 Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi:
- “Quân không Tướng chỉ huy thì sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:
 - “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.
 Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng lãnh, sĩ quan và binh sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân. Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi:
 - “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?”
 Lại có người nghiêm khắc trách tôi:
 - “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?”

                                       Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng (1933 – 1975)
 Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng…Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì… những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?
 Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị TướngNguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng . Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.

                                        Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (1929 – 1975)
 Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.”
 Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn dò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định:
 - “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.
 Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.”
Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.
 Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng thế đấy.
 Trong khi Sài Gòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ (1933 – 1975)
 Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.
 Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nòng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ chỉ huy Quân đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
 Tìm kiếm Đại Tá an ninh, người đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi:
 - “Có đồng ý đem con lánh nạn không?”
 Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:
- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?” Tôi đáp:
 - “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.
 Và để khỏi phải sa vào tay Cộng sản, tôi bình tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thoát cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh trưởng để bảo vệ Bộ chỉ huy Sư đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu:
 - “Chúng tôi biết Thiếu tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường…”.
 Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời:
 - “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”.
 Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:
 - “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.
 Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:
 - “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.

 6g45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu tá cộng sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.
 7g30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
 - “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ”.
 Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng:
 - “Em phải sống ở lại nuôi con”.
 Tôi hoảng hốt:
 - “Kìa mình, sao mình đổi ý?”
 - “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”
 - “Nhưng không thể để con sống với Cộng sản ? Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”.
 - “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết…”
 - “Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?”
 Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc:
 - “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”
 Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:
 - “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.
 Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:
 - “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.
 Tôi phát run lên hỏi:
 - “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?”
 Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:
 - “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.
 Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:
 - “Vâng, em xin nghe lời mình”.
 Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục:
 - “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.
 - “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng sản bắt em phải sống xa con, nếu họ làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”
 Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:
 - “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.
 Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:
 - “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó”.
 Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:
 - “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.
 Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.
 Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói:
 - “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau.
 Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
 Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:
 - “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.
 Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:
 - “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”.
 Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chặt cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:
 - “Nghĩa trở lại với tôi”.
 Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:
 - “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?”
 Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:
 - “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”
 Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc:
 - “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
 Tôi bảo Giêng:
 - “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng”.
 Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lìa xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
 Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam , không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang:
 - “Alô, Alô, ai đây?”
 - “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”. Tôi bàng hoàng:
 - “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?”
 Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi:
 - “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”. Tôi lúng túng vài giây:
 - “Ông đang điều động quân ngoài kia”.
 - “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”
 - “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”.
 Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi:
 - “Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?” Nghĩa lúng túng:
 - “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.
 - “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.
 Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:
 - “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”
 - “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?”
 - “Cẩn vui lòng chờ chút”.
 Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định:
 - “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”
Cẩn đáp thật nhanh:
 - “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!”
 - “Tốt lắm, vậy thì y lịnh”.
 - “Dạ, cám ơn chị”.
 Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:
 - “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đây, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?
 Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.
 11 giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:
 - “Alô, chị Hưng!”
 Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:
 - “Thưa Thiếu Tướng…”
Giọng Tướng Nam buồn bã u uất:
 - “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”.
Tôi vẫn nức nở:
 - “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”
 - “Hưng đã nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”.
 Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
 - “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”
 - “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”
 - “Chị quên còn dân chúng sao? … Đàng chị thế nào?”
 - “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”.
 - “Còn mấy chú đâu hết?”
 - “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng”
 - “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”
 - “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới”.
 - “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên”.
 - “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?”
 Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên:
 - “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”.
 Người chép miệng thở dài:
 - “Thôi chị Hưng ơi”.
 Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:
 - “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”.
 Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi:
 - “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”.
 - “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai (1926 – 1975)
 Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế.
 Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.
 7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện:
 - Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi... Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.
 Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
 Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia.
 Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.
 Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý…
Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống?.
 Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn Sáu Chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.
Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình, thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho Tổ Quốc.
 Phạm Thị Kim Hoàng.

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Nhà văn Thùy Linh - Nhân dân đứng ngoài chính trị?

Link : http://quechoa.vn/2013/04/22/nhan-dan-dung-ngoai-chinh-tri/#more-36471


Lời bình của blogger Đoàn Nam Sinh: NPT và cả số đại diện hơn hai chục bộ ngành trong hội nghị ấy chắc chưa học định nghĩa chính trị là gì của cụ Tôn Trung Sơn: “Chính giả nhân dân đích sự, trị thị quản lý. Quản lý nhân dân đích sự, khiếu tắc chính trị.- Chính là công việc của nhân dân, trị là quản lý. Quản lý công việc của nhân dân, tức là chính trị.”
Khiếu kiện mà không phải là việc của họ- nhân dân- thì họ khiếu kiện làm gì ? Họ khiếu kiện ai- những nhà quản lý, lãnh đạo việc liên quan đến họ. Họ kiện lên ai ? – Những cấp trên liên quan cao nhất vừa chịu trách nhiệm với cả bộ máy và với toàn dân. Đòi cưỡng chế họ vì có “màu sắc” chính trị thì thể hiện rõ tính chất của bộ máy này: vừa vi hiến, vừa vô học lại phi nhân tính.
Bài viết của Thùy Linh:
Phải khẳng định điều này: tất cả các cuộc khiếu kiện đất đai trên cả nước nhiều năm nay, không có cuộc khiếu kiện nào, dù nhỏ lẻ một cá nhân lại không có màu sắc chính trị. Hiểu cách đơn giản nhất là khi quyền lợi của họ bị xâm phạm, họ có quyền lên tiếng, đòi hỏi, thậm chí là chống lại những bất công áp đặt của người khác (chính quyền) lên quyền lợi đó.
 Gia đình là tế bào xã hội – tổ chức chính trị đầu tiên.
Ai cũng nằm lòng khi phải học triết học Marx câu nói trên. Đơn vị nhỏ nhất (về mặt tổ chức) trong xã hội chính là gia đình. Nhiều gia đình thành làng, xã, tỉnh, thành, quốc gia. Nhà nước lập ra để điều hành các tế bào đó hoạt động không hỗn loạn và công bằng. Một cách tự nhiên, con người sinh ra, khi hít hơi thở đầu tiên là mặc nhiên được xâm nhập vào hệ thống vận hành của xã hội, chính thức tham gia vào tổ chức chính trị nơi họ làm người. Bởi thế, triết gia Arisotle khẳng định, con người theo bản năng tự nhiên đã có tính chính trị rồi.
 Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Khi luật lệ chung này có vấn đề thì đương nhiên sẽ có bộ phận dân chúng phản ứng với sự sai khác này. Hành động của họ, đương nhiên, là hành động chính trị.
 “Ai thắng ai”?
 Nếu chính quyền hiện tại ở Việt Nam coi chính trị chỉ là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước theo lý luận của chủ nghĩa Marx, thì đương nhiên cuộc đấu tranh của người dân hiện nay đang đe dọa sự tồn vong của chính thể đương thời. Và cuộc đấu tranh của những người dân mất đất, mất không gian sống, lao động với những người có quyền tịch thu, cưỡng chế, định đoạt mảnh đất của họ là cuộc đấu tranh giai cấp. Kẻ đi cưỡng đoạt hầu hết xuất thân từ giai cấp cùng khổ, như nông dân bây giờ, nhưng nhờ đặc quyền, họ đã trở thành giai cấp đối lập với người dân – giai cấp mới, tư bản đỏ.
 “Màu sắc chính trị” của các đoàn khiếu kiện đất đai mà ông Tổng thanh tra chính phủ đề nghị cưỡng chế thể hiện mâu thuẫn sâu sắc cuộc chiến “ai thắng ai” – một biến tướng của cuộc cách mạng vô sản lúc thoái trào.
 Trong cuộc chiến “ai thắng ai” về thực chất vẫn là cuộc đấu tranh giai cấp: giai cấp vô sản bị bần cùng hóa, với giai cấp hữu sản nảy sinh trong công cuộc xây dựng CNXH. Mục tiêu xóa bỏ bóc lột đến giờ đã có thể khẳng định không thể thực hiện được mà càng làm trầm trọng hơn sự cách biệt này. Nhưng nhiều tinh hoa, trí tuệ của giai cấp bóc lột xưa không được thể hiện trong giai cấp mới này. Vì vậy, sử dụng mọi lợi thế mà giai cấp mới có được nhờ quyền lực là phương cách để họ sử lý những vấn đề có “màu sắc chính trị” kể cả bằng bạo lực (cưỡng chế) như ông tổng thanh tra dã tuyên bố.
 Vậy là cuộc chiến “ai thắng ai” vẫn đang còn tiếp diễn ở mức độ cao hơn, tàn khốc hơn khi nó nhằm vào chính nhân dân mình.
 Nền chính trị nào cho nhân dân?
 Trong cuộc chiến tranh giành độc lập, nền chính trị tuyên truyền sử dụng hết công xuất để huy động mọi nguồn lực xã hội cho các cuộc chiến đấu. Và khi hoà bình, vẫn nền chính trị đó, hướng mũi nhọn vào sự đối lập hình thành trong xã hội để bảo toàn quyền lực.
 Đến giờ phiên tòa xét xử những tên côn đồ dùng vũ khí tấn công người dân Văn Giang vẫn chưa kết thúc. Ai cũng tin rằng, những kẻ lưu manh đó không có quan hệ kinh tế hay quyền lợi liên quan nào đến mảnh đất người dân Văn Giang cố gìn giữ bằng cả máu của mình. Vậy tại sao chúng lại ngang nhiên hành xử độc ác như vậy với dân Văn Giang? Ai đứng đằng sau chúng? Ai cho phép chúng hành động trắng trợ như vậy? Câu hỏi này chính quyền không muốn trả lời.
 Ngay như hôm qua, 21/4, tại Tiên Lãng (Hải Phòng), nơi vụ án Đoàn Văn Vươn còn chưa chìm tiếng, thì ở xã Đại Thắng lại xảy ra việc Công ty cổ phần Hoa Thành thuê hàng trăm côn đồ đánh dân trong khi cưỡng chế đất, làm 6 người bị thương phải đi viện. Hệ thống chính trị tại địa phương dường như tê liệt trước những vụ việc này.
 Nếu “tính sổ” các vụ mà những người bất đồng chính kiến bị khủng bố dưới mọi hình thức như ép chủ nhà cắt hợp đồng thuê nhà; đuổi họ ra đường; đuổi việc; ném rắn vào nhà; đổ phân, nước thải lên tường, mà điển hình là số phận của bốn bố con ông Hoàng Ngọc Tuấn (ở Tam Kỳ); đón đầu đánh đập trên đường như vụ anh Nguyễn Chí Đức gần đây,…thì nhiều không kể xiết. Những hành vị bạo lực đó chưa có ai đứng ra nhận trách nhiệm? Cũng chưa có một cơ quan nhà nước nào điều tra, lên án, bảo vệ an ninh cho công dân. Người dân bỗng dưng như bị đẩy ra khỏi hệ thống chính trị mà theo lẽ tự nhiên, họ đã tham gia vào từ khi lọt lòng.
 Những vụ việc như kể trên có mang “màu sắc chính trị” không, thưa ông Huỳnh Ngọc Tranh? Và là nền chính trị nào, phục vụ ai?
 Khi ông Tranh tuyên bố, chính quyền sẽ cưỡng chế các vụ khiếu kiện có “màu sắc chính trị”, thì khác gì đẩy người dân ra khỏi hệ thống chính trị đất nước? Không lẽ chính trị là đặc quyền của các chính khách, những người có quyền lực?
 Ta có thể hình dung, cảm nhận đau đớn tiếng kêu vô vọng của người dân tuyệt vọng đến mức nào và còn “siêu tuyệt vọng” tới đâu…Bởi không biết từ bao giờ, vì lẽ gì dân chúng đã bị “đẩy” ra ngoài đời sống chính trị của đất nước nơi họ đang sống – một đất nước họ đổ nhiều xương máu để dựng lên một chính thể phủ nhận quyền được sống của họ? Nói như Aristotle thì “chỉ con người mới có được ý thức về thiện và ác, về công bằng và bất công”. Không lẽ ý thức thiên phú này trở thành “màu sắc chính trị” trong mắt chính quyền với động cơ xấu?
 Vẫn triết gia thời cổ đại viết: “Nếu có kẻ nào vì bản tính tự nhiên, chứ không vì tai nạn ngẫu nhiên nào đó, mà chọn sống ở ngoài cộng đồng chính trị, thì kẻ đó hoặc là chẳng ra gì, hoặc là một siêu nhân hơn người”. Thế nên dù mất mát, đau khổ, vô vọng thì người dân vẫn neo buộc vào hệ thống chính trị hiện nay vận hành theo nguyên tắc đặc quyền đặc lợi của những kẻ có quyền lực và tiền lực.
 Và, những cuộc khiếu kiện mang “màu sắc chính trị sẽ ngày càng nhiều. Cho dù họ đang bị đe dọa: sẽ bị cưỡng chế, thu thập chứng cứ để xử lý…cũng theo ông Tổng thanh tra chính phủ đã chỉ đạo.
 Và, không thể khác được, trong hệ thống chính trị ấy sẽ sản sinh ra những hành động được gọi là “màu sắc chính trị” của nhân dân vận hành theo cách dân gian để chống lại nền chính trị đã bị giai cấp hóa, bạo lực hóa, đồng tiền hóa, thậm chí lưu manh hóa…Đó là nền chính trị toàn dân thức tỉnh.

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013

Nguyễn Văn Tuấn - Chuyện kì thị Bắc-Nam

Link : http://nguyenvantuan.net/news/6-news/1704-chuyen-ki-thi-bac-nam-

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nọ, đọc xong bài Người Việt kì thị… người Việt, tôi đã định viết vài dòng ghi chú, nhưng loay hoay với công việc rồi quên. Hôm nay, ngày cuối tuần, nên có chút suy nghĩ về chuyện kì thị. Không cần phải dài dòng: kì thị là chuyện xấu, cần phải dẹp. Trong bài báo dưới đây, tác giả thuật lại câu chuyện của chính tác giả bị chủ quán người miền Nam kì thị, và tác giả qui kết “chiến tranh” như là một lí do cho tình trạng kì thị. Tôi thì nghĩ khác: tôi nghĩ rằng tình trạng người Nam kì thị người Bắc có nguyên nhân sâu xa hơn, nó bắt nguồn từ những năm đen tối sau 1975.
 Tôi đoán trong cộng đồng dân tộc, không ai có kinh nghiệm kì thị bằng những người Việt tị nạn ở nước ngoài. Thời đó (tức đầu thập niên 1980s) khi người Việt bắt đầu đến Úc định cư, thì phong trào kì thị người Việt cũng bắt đầu“sinh sôi nảy nở”. Có dạo người Việt không được vào các club uống bia. Cựu thủ tướng John Howard có thời không ưa người Việt tị nạn. Giáo sư sử học ở Melbourne tên là Goeffrey Blainey còn nói rằng đóng mộc vào trán người Việt và gửi cho họ về VN trên các chuyến tàu chở cừu xuất khẩu. (Ông này sau này bị áp lực phải từ chức). Có thời gian người Việt bị đám du côn Úc chận đường đánh. Anh bạn tôi là một nạn nhân. Nhưng không lâu sau đó thì “phe ta” cũng bắt đầu hình thành băng đảng để chống chọi, và khi phe ta đã ra tay chống trả (toàn súng đạn) thì du côn Úc cũng phải ngán. Bây giờ thì tôi nghĩ nạn kì thị đã giảm đi nhiều khi thế hệ 2 và 3 người Việt lớn lên ở đây đã hoà nhập và ở mức độ nào đó đã thành công.
Nhưng nay lại có nạn người Việt kì thị người Việt. Người Việt tị nạn (chủ yếu là dân miền Nam) kì thị dân miền Bắc. Có người nói hài hước là dân đi tàu kì thị dân đi máy bay :-) . Thật ra, tôi không chắc chữ “kì thị” có đúng không nữa, vì trong thực tế chữ “không ưa”, hay thậm chí “ghét”, thì đúng hơn. Vào giữa thập niên 1990s, khi có đồng nghiệp từ VN sang đây học hành và công tác, họ không dám xuống các vùng đông người Việt (như Cabramatta chẳng hạn). Đến đó, chỉ cần nghe giọng “Bắc 75” là chắc chắn gặp “phiền phức”. Có lần tôi dẫn một anh đồng nghiệp ghé Cabramatta chơi, khi vào nhà hàng, tôi phải dành quyền gọi món ăn, chứ không dám cho anh ấy nói, vì tôi biết anh ấy mà mở miệng nói giọng Bắc 75 thì chắc cả tôi và anh chẳng có gì để ăn. Ở Little Saigon, một hôm tôi và anh bạn (cũng Bắc kì 75, dân Thái Bình) vào nhà sách, anh bạn tôi hỏi tìm mua cuốn hồi kí của tướng Trần Văn Trà; trong khi ông chủ thì điềm đạm, nhưng ông khách đang lựa sách, quay sang gằn giọng với anh bạn tôi: “ở đây không có bán sách của Việt cộng. Việt cộng thì về bển mà mua.” Ông chủ tiệm sách vội vàng dàn hoà, và nói sách … bán hết rồi. Thấy tình hình không ổn, tôi kéo anh bạn lui bến.
Nhưng phải nói rằng nay thì đỡ hơn nhiều. Khi làn sóng người miền Bắc sang đây tị nạn vào thập niên 1990s, và đến nay thì người dân hai miền đã cảm thông nhau nhiều hơn. Thời đó, dân tị nạn miền Bắc không thể mở hàng quán ở khu dân tị nạn miền Nam. Nhưng nay thì anh em Nam Bắc đề huề, bên nhau làm ăn. Ở Cabramatta có một quán Bắc chính cống, bán toàn đồ ăn Bắc, và được dân miền Nam ủng hộ hết mình, riết rồi ông chủ nghĩ ông là dân Nam! Sau này thì thêm làn sóng mấy em du học sinh sang đây học, và đi làm thêm, thì chính các hàng quán Việt là những nơi các em ấy nghĩ đến. Tôi nghĩ trong số những em ấy, chắc cũng có nhiều trường hợp cay đắng. Cháu gái tôi nó kể phải làm trong một quán ăn từ 8 giờ sáng đến 10 giờ đêm, mà chỉ được trả 8.5 AUD/giờ. Đó là một sự bóc lột trắng trợn. Tôi nghĩ có không ít chủ hàng quán người Việt lợi dụng tình thế bất lợi của mấy em học sinh, sinh viên để bóc lột. Câu chuyện được kể trong bài viết trên tờ laodong.com.vn chắc cũng có phần sự thật, và người chủ kia có lẽ là một trong những kẻ bóc lột đồng hương.
Trong bài này, tác giả đổ thừa cho “vết thương của bao năm chiến tranh vẫn đang dai dẳng hằn sâu trong một bộ phận đồng bào”. Nhưng tôi nghĩ không phải vết thương chiến tranh. Tôi nghĩ lí do sâu xa hơn nữa. Có nhiều lí do tại sao người tị nạn miền Nam không ưa người Bắc. Xin nói thêm là tôi không nằm trong nhóm đó, vì tôi nghĩ mình đã vượt qua được lằn ranh phân định đó, và bằng chứng là tôi có nhiều học trò người Bắc và tôi làm việc với đồng nghiệp ngoài Bắc rất thoải mái.
Trong cái nhìn của phần đông những người tị nạn bên này, người Bắc là thủ phạm gây nên sự điêu tàn của đất nước. Với cái nhìn đó, họ không ưa người miền Bắc. Sau 1975 miền Nam có thể nói là lâm vào cảnh khốn cùng. Gia đình li tán. Chồng con đi “học tập cải tạo” mút mùa. Hàng vạn người chết trong các trại tù cải tạo. Số ra tù thì bệnh tật riết cũng chết. Số còn sống sót đi vượt biên thì có khi làm mồi cho cá mập. Nhà cửa bị ăn cướp. Con cái bị kì thị, học giỏi cách nào cũng không vào đại học được do cái lí lịch “nguỵ”. Có thể nói không ngoa rằng thời đó dân miền Nam bị cán bộ miền Bắc kì thị rất ác. Phải nói là “ác ôn”. Có vay thì có trả, nên chuyện con em người miền Nam bây giờ tỏ ra thiếu cảm tình với đồng môn người Bắc chẳng có gì khó hiểu. Nhưng chỉ buồn là họ thể hiện cái tức giận đó sai đối tượng, vì người Bắc thì cũng là người Việt thôi, cũng đau khổ như mình thôi.
Phải nói rằng thời đó, cái đám cán bộ ngoài Bắc mới vào tiếp quản Sài Gòn quá ư là lố bịch. Chẳng những huênh hoang, khoác lác, mà họ còn tự thể hiện cái dốt của họ. Đó là chưa nói đến vấn nạn đốt sách. Tôi nghĩ nhiều người Việt tị nạn thế hệ I không bao giờ quên được những vấn nạn kinh hoàng thời đó. Bây giờ, trong cái nhìn của họ, những em sinh viên sang đây du học chắc là COCC, mà COCC cũng có nghĩa là tham ô hối lộ. Cũng có thể họ nghĩ đây là những con em của những người từng cướp nhà, từng làm khổ, hay từng giết chết bà con họ. Do đó, họ tỏ thái độ kì thị hay ghét những em sinh viên nói giọng Bắc là có thể hiểu được.
Hôm nọ, ngồi nói chuyện đời với một doanh nhân ở Sài Gòn có vài chuyện thú vị. Anh này thật ra là gốc Bắc 75, nhưng làm ăn ở Sài Gòn. Anh K cho biết rằng thật ra, tất cả các tập đoàn lớn của Nhà nước đều do người “ngoài đó” nắm hết. Tôi nói thế số bộ trưởng cũng có phân bố Bắc Nam cân bằng đó chứ, thì anh mỉm cười nói “hoa lá cành ông ơi, vì ở dưới điều hành thì vẫn là người ngoài đó”. Thử nhìn qua nhân sự của những hải quan, hàng không, dầu khí, và mấy cái “VINAs” thì anh K cũng có lí. Trước đây, có một con số lưu hành cho thấy phần lớn ngân sách Nhà nước là do các tỉnh miền Nam đóng góp (đặc biệt là Sài Gòn, Bình Dương và Vũng Tàu), nhưng đầu tư cho miền Nam thì rất kém. Hình như là từng có đại biểu QH đặt vấn đề này (?). Trong cái nhìn của anh K, người miền Nam vẫn là người bị thiệt thòi và bị thống trị.
Do đó, tôi nghĩ vấn đề không phải là “chiến tranh” gì cả; vấn đề là sự bất bình đẳng Nam – Bắc. Có lẽ người ta không muốn nói ra, nhưng nếu cứ dấu hoài thì có ngày sẽ bùng nổ. Những chuyện “kì thị” mà bài báo dưới đây mô tả không phải do chiến tranh, mà là di sản của một thời bất công và đen tối mà thủ phạm không ai khác hơn là cán bộ miền Bắc sau 1975. Xin nói cho rõ là “cán bộ sau 1975” nhé, chứ không phải người dân miền Bắc. Chỉ khi nào tất cả đều công khai, và có những kênh đối thoại thẳng thắn, thì chúng ta mới hết nạn kì thị. Tôi nghĩ chỉ có đối thoại thì mới cảm thông nhau.
Riêng cá nhân tôi thì tôi open và thoải mái. Tôi không có kì thị, vì bản thân mình từng bị kì thị. Thật ra, khi nói chuyện với các đồng nghiệp ngoài Bắc tôi thấy họ cũng cởi mở và không có đầu óc kì thị dân Nam chút nào cả (còn trong hành động thì tôi không biết). Nhưng nói chuyện với dân trong Nam, kể cả người Bắc trong Nam, thì một số rất cay cú.
N.V.T

------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Khi người Việt kỳ thị… người Việt
Điều đáng buồn là khi sự kỳ thị Nam - Bắc từ lâu dường như đã sạch bóng trên chính quê hương, thì nó vẫn còn hiện diện cụ thể trong cộng đồng người Việt ở Australia - một quốc gia đề cao sự tự do và chống phân biệt đối xử vào bậc nhất trên thế giới
Rầu lòng
Ý tưởng và tư liệu về đề tài nhạy cảm này bắt đầu được tôi cóp nhặt khi thực hiện cuộc điều tra nhằm so sánh điều kiện lao động của công nhân người Việt giữa một doanh nghiệp do người Việt điều hành và một doanh nghiệp do người Australia điều hành tại Melbourne - thủ phủ tiểu bang Victoria, một trong hai cái nôi lớn nhất của cộng đồng người Việt tại Australia. Trong quá trình làm việc tại một hãng gà nằm ở phía tây Melbourne, những gì đã phải trải qua khiến tôi không khỏi tự đặt câu hỏi: Phải chăng người gốc Bắc và nói giọng Bắc đang phải chịu một sự kỳ thị ngấm ngầm nhưng dễ nhận biết, đặc biệt từ phía những chủ xưởng hay chủ cửa hàng gốc Nam?
Khi bắt đầu bước vào làm, tất cả các công việc của tôi được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt, thậm chí xét nét của bà chủ khó tính và luôn mồm chửi mắng nhân viên. Đã từng làm công ở chỗ khác nên tôi thấu hiểu nguyên tắc làm việc: Chủ trả công theo giờ nên phải luôn đúng giờ, tay chân luôn phải hoạt động, hết việc này phải tự kiếm việc khác mà làm và tuyệt đối phục tùng sự chỉ đạo. Nhưng chỉ qua 3 ngày làm việc, tôi buộc phải chấp nhận một sự thật khác: Những người gốc Bắc và nói giọng Bắc như tôi luôn phải chịu đựng sự khủng bố về tinh thần nhiều hơn những người khác: Mắng chửi, rỉa rói, cạnh khóe… Chấp nhận tất cả, tôi chỉ biết cắm cúi làm việc, không dám cãi lại một lời, như lời khuyên của một người làm cùng cũng là người Bắc: “Làm đúng yêu cầu, không nghe không thấy vì… ở đây là vậy!”.
Nhưng sự việc đã đi đến cùng giới hạn khi đến một hôm bà chủ giơ bàn tay trỏ sát vào mặt tôi quát: “Nói cái gì cũng “dạ” cũng “vâng”! Ở ngoài đời hay ở Việt Nam có là cái gì thì vào đây nói cái gì cũng phải nghe, rõ chưa?”. Việc tôi có thể làm sau đó chỉ có thể là xin nghỉ việc. Mãi về sau, khi biết rõ chuyện, một nhóm “anh em xã hội” cũng thuộc dạng không ngại va chạm ở Melbourne long sòng sọc lên đòi tôi phải dẫn tới nơi làm để xem tận mặt bà chủ kia để xem là ai mà quá đáng đến như vậy. Tránh những chuyện phiền hà không đáng có, buổi “xem mặt” ấy không bao giờ diễn ra, nhưng rất nhiều câu chuyện “ấm ức bấy lâu nay” đã được mọi người dần trải lòng…
“Khó đấy. Liệu có quá sức không?” - Helen Vatsikopoulos (phóng viên nữ của chương trình truyền hình Foreign Correspondent danh giá của Hãng ABC) tỏ ra phân vân khi chúng tôi trình bày đề tài sẽ làm về tình trạng phân biệt đối xử trong cộng đồng người Việt trên đất Australia vào thời điểm năm 2010. Sự lo lắng của nữ phóng viên xinh đẹp nhưng dày dạn hiểm nguy qua những phóng sự điều tra truyền hình thực hiện trên khắp thế giới, đặc biệt là về những vụ bạo loạn đẫm máu tại Hy Lạp, không phải là không có cơ sở.  Đụng chạm đến một vấn đề nhạy cảm trong lòng một cộng đồng dân cư tại Australia đòi hỏi người thực hiện phải cẩn thận kiếm tìm thông tin và nhân vật từ cả 2 chiều thông tin, tránh quy kết. Không những thế, đây cũng là mảng đề tài khó chọn được người sẵn lòng trả lời phỏng vấn vì ngại phiền hà.
Có một tâm lý chung là những người đối diện và chịu đựng tình trạng này đều coi như… chuyện phiền ngoài đường. Họ không muốn nhắc lại, nhưng hầu hết đều nhớ như in. Điều đó cũng dễ hiểu bởi đó là câu chuyện buồn pha lẫn sự ấm ức. C - một du học sinh người Hà Nội, học tại Đại học Công nghệ Sydney, làm thêm cho một hãng nghiên cứu thị trường - kể lại một lần trải nghiệm: “Công việc của tôi là gọi điện thoại đến nhà khách hàng để khảo sát thị trường. Khi tôi gọi đến nhà một khách hàng, một phụ nữ nhấc máy. Khi nghe thấy giọng Bắc của tôi, bà ấy chửi thậm tệ qua điện thoại, rồi gác máy”.
Không chỉ nam giới mà đến nữ giới cũng phải chịu cảnh phân biệt như thế. T - một nữ lưu học sinh người Việt tại Đại học Melbourne - kể lại: “Tại một bữa tiệc, một anh chàng buôn chuyện với tôi khá lâu. Khi đã biết được rằng đều là người Việt, chúng tôi chuyển sang nói tiếng Việt. Nhưng ngay khi anh ấy nghe thấy giọng Bắc của tôi, anh ta quay ngoắt đi sang nói chuyện với những người Nam khác và không quay lại nói chuyện với tôi nữa”.
Lý giải về điều này, một trí thức người Việt tại Sydney xin ẩn danh cho biết, những người còn đặt nặng sự phân biệt đối xử Nam - Bắc chủ yếu tập trung ở lứa người lớn tuổi. “Họ đã từng mất sạch mọi thứ trong một thời gian cực ngắn. Nhiều người mất gia sản. Nhiều người thậm chí mất cả gia đình, vợ con… trên con đường tha hương đầy máu và nước mắt để đến được Australia. Nguyên nhân của nỗi đau ấy được quy chiếu về một phía. Họ nghĩ rằng những sinh viên đến từ phía Bắc đang học ở Australia là con cháu của phía đã gây ra nỗi đau cho họ. Và họ có thái độ thù địch như vậy. Cá nhân tôi không đồng tình với những hành vi như vậy. Thực ra họ không có quyền phân biệt đối xử với những sinh viên ấy trên đất Australia. Họ vẫn nói rằng phải rời khỏi quê hương vì một sự phân biệt đối xử, vậy thì hà cớ gì lại tạo thêm một sự phân biệt đối xử khác?” - ông nói.
Để tìm hiểu sâu hơn và cũng là để khách quan hơn, chúng tôi đã quyết định phỏng vấn ông Võ Trí Dũng - lúc bấy giờ đang giữ chức Chủ tịch Cộng đồng Việt Nam tại Australia tại tiểu bang New South Wales. Sau khi bàn bạc, với tình hình thực tế đã trải nghiệm, nhóm thực hiện phóng sự quyết định để đảm bảo tính khách quan của buổi phỏng vấn, cũng là để tránh những chuyện không hay xảy ra, tôi sẽ ngồi ngoài quán café ở Cabramatta chờ, Peta và Daniel sẽ thực hiện cuộc phỏng vấn trong văn phòng của ông Võ Trí Dũng. Tại cuộc phỏng vấn, ông Võ Trí Dũng đã thừa nhận là sự phân biệt đối xử đối với sinh viên gốc Bắc, đặc biệt là những sinh viên nhận được học bổng từ Chính phủ Australia, là có thi thoảng xảy ra.
Nhưng những sinh viên nhận được học bổng từ phía Chính phủ Australia chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Vậy thì còn những sinh viên gốc Bắc tự đi bằng nhiều con đường khác thì sao? Câu trả lời thỏa đáng là như thế nào khi họ đã và vẫn phải chịu đựng sự kỳ thị? B - hiện đã định cư và trở thành công dân Australia - kể lại: “Tình trạng người Bắc bị kỳ thị hiện giờ còn đỡ đi nhiều, chứ cách đây 5-7 năm thì còn dữ dội hơn”. Hồi đó, ngày đầu tiên đặt chân tới đất Melbourne để nhập học tại Đại học Swinburne, B đi mua hàng tại cửa hàng của người Việt. Người bán hàng đã làm ngơ xem như không hiểu câu hỏi giá bằng tiếng Việt với giọng Bắc của B. Khi bị hỏi thêm lần nữa, người bán hàng bèn trả lời bằng tiếng Anh. Trong khi đó, chỉ vài phút trước, họ vẫn nói tiếng Việt với khách hàng là người Nam.
“Hồi đó kiếm được việc làm ở chỗ chủ người Nam rất khó. Họ luôn trả lời rằng không có việc, dù tôi biết rõ rằng họ đang kiếm người. Nếu có được nhận vào làm thì lương luôn thấp hơn hẳn so với người Nam. Nhưng điều đáng kinh khủng hơn là khi nhận lương thì luôn được “khuyến mãi” thêm vài câu bóng gió miệt thị - B nhớ lại - Bây giờ thì đã đỡ hơn, nhưng chưa hẳn đã hết. Bạn cứ thử kiếm một chỗ có chủ người Nam rồi thử xin việc thì sẽ rõ”.
Nhóm chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm ngay trước màn hình máy quay. Một sinh viên người Nam được mời đến ngồi cùng tôi. Một mục quảng cáo tìm việc bất kỳ được lựa chọn trên những tờ báo tiếng Việt tại Australia. Trên tay chúng tôi là mẩu quảng cáo tìm người hái xoài tại Darwin. Sinh viên người Nam gọi điện trước. Người chủ tuyển người trả lời rất nhẹ nhàng. Khi sinh viên này kết thúc cuộc gọi và cảm ơn, bà chủ cũng rất lịch sự nói “không có gì”. Đến lượt tôi nói giọng Bắc. Cũng vẫn những thông tin như vậy, nhưng khi tôi nói cảm ơn để kết thúc cuộc gọi, bà chủ dập máy cái rụp. Từng khuôn hình kiên nhẫn đưa tiếng gác máy khô khốc vào trong băng.
Khi tương lai đẩy dần bóng quá khứ
“Nhưng thế hệ người Việt thứ hai và thứ ba tại Australia có vẻ không quan tâm lắm đến chuyện trong quá khứ, cho dù đôi khi gia đình của họ vẫn cố gắng dựng lên một rào cản nhất định, chí ít là về mặt tâm lý” - B tâm sự khi đưa tôi vào Bubbles - sàn nhảy nổi tiếng và cũng là nơi tụ hội của giới trẻ Việt tại Melbourne mỗi tối thứ sáu, đêm mà các DJ chỉ đánh nhạc Trance phục vụ riêng cho người Châu Á (nay đã phải đóng cửa vì xảy ra nhiều vụ đánh lộn). Theo chỉ dẫn của B, sàn Bubbles dường như được ý nhị chia thành 2 khu - một cho người Bắc và một cho người Nam. Nhưng cái ranh giới mơ hồ ấy thường xuyên bị phá vỡ, khi một vài nhóm bên này sang bên kia chào hỏi nhau, làm một ly tequila rồi lại trở về phía bên mình. Nhưng đó chỉ là khu để ngồi. Còn khi đứng lên nhảy, tất cả đều hòa làm một.
Paige Nguyễn - cô bạn cùng lớp người Australia gốc Việt hiện đang sống tại Sydney - thì lại rất hồ hởi tự nhiên ra làm quen khi biết tôi là người Việt. Khác hẳn với những “Việt kiều” mới sang có mấy năm mà đã giả bộ lơ lớ quên tiếng Việt hoặc oh ah mắt tròn xoe khi nói về Việt Nam, Paige Nguyễn thực sự không nói được tiếng Việt, nhưng lại say sưa kể về gia đình nội ngoại: “Bố mẹ tôi là người Cần Thơ. Gia đình tôi tới Adelaide 25 năm trước. Tôi thực sự không nắm rõ lắm những gì đã xảy ra trong quá khứ. Cuộc sống của tôi là ở đây. Và ở đây thì ai cũng có thể là bạn của nhau!”.
Không chỉ thụ động trông chờ vào thời gian, một bộ phận lớn cộng đồng người Việt cũng đang tự chủ động đấu tranh để đầy lùi sự phân biệt đối xử mang tính áp đặt đó. D - một “thổ dân” tại Melbourne - cho biết, cũng với sự mở rộng và phát triển của số lượng người Bắc trong cộng đồng người Việt, đã từng xảy ra những trận ẩu đả vì lý do phân biệt vùng miền và những người có tư tưởng phân biệt đã chùn bớt tay, không dám thể hiện một cách quá thô lỗ hay quá khích nữa. Nhưng cách thức tiêu cực này đã không còn phổ biến nữa. “Điều quan trọng là ngày càng có nhiều người Bắc làm ăn phát đạt, mở rộng sản xuất và trở thành ông chủ. Kinh tế mạnh thì mới có uy được! Vị thế của người gốc Bắc càng ngày càng được củng cố, thế nên tình trạng coi thường người từ miền Bắc đến Australia cũng hạn chế hẳn đi” - D cho biết.
Khơi lên nỗi đau của chính cộng đồng người Việt mình không phải là chuyện vui vẻ gì, nhưng điều đó là cần thiết, để mọi người biết rằng, vết thương của bao năm chiến tranh vẫn đang dai dẳng hằn sâu trong một bộ phận đồng bào. Khơi lên cũng là để phản ánh một sự thật là những sinh viên và người Việt gốc Bắc sang Australia để học tập và làm việc đã, đang phải chịu đựng một sự phân biệt đối xử khá phi lý. Khơi lên điều mà nhiều người tránh muốn đề cập đến, nhưng là sự thực, âu cũng là một sự sòng phẳng. Nếu không đối diện, sẽ không thể nào xóa sạch.