Ngôn ngữ, đặc biệt là chữ
viết không chỉ là các ký hiệu vô hồn ghi lại âm thanh tiếng nói. Một chữ cái giản
đơn thôi cũng có tác dụng gợi lại các kết nối văn hoá, giá trị, và trải nghiệm
bồi đắp sau hàng trăm nghìn năm của từng cá nhân và dân tộc.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, của giao
tiếp. Đối với bất kỳ nền văn hóa nào, ngôn ngữ cũng vừa đóng vai trò là một
thành tố, một thành tựu văn hóa tinh thần vô giá; vừa đóng vai trò là phương
tiện quan trọng để lưu giữ, bảo tồn và chuyên chở những giá trị, những thành
tựu của chính nền văn hóa ấy.
Một quốc gia dân
tộc độc lập tự chủ và phát triển phải là một quốc gia dân tộc có một nền văn
hóa độc lập với đậm đà bản sắc riêng, phải là một quốc gia dân tộc có tiếng nói
và chữ viết với những đặc trưng riêng không dễ bị pha trộn, bị lai tạp, bị đồng
hóa.
Chẳng thế mà nhà
văn Pháp Alphonse Daudet trong một tác phẩm của mình đã từng khẳng định: “Khi
một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình
thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”.
Hay như cụ Phạm
Quỳnh ở ta cũng không phải ngẫu nhiên mà đưa ra nhận xét sau đây về kiệt tác
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta
còn, nước ta còn”. Đó là một nhận xét đúng đắn bởi Truyện Kiều chính là tinh
hoa của ngôn ngữ Việt nói riêng, của văn hóa Việt nói chung.
Cũng bởi ngôn ngữ
có vai trò quan trọng như thế đối với đời sống của con người, nên khi một số
giáo sư, tiến sĩ đề xuất và cho thí điểm cải cách đối với tiếng Việt, đã gây
nên một làn sóng phản đối rộng khắp trong cả nước.
Mọi người đều “sợ”
sự thay đổi này, không chỉ bởi sự xáo trộn không cần thiết, mà còn có thể gây
ra sự đứt gãy văn hóa giữa các thế hệ, giữa những người chỉ biết cách viết
“mới” với di sản tư liệu “cũ”. Ở đây, chúng ta không đi sâu phân tích những mặt
lợi – hại khi cải tiến chữ viết, mà sẽ đề cập đến một khía cạnh vô cùng quan
trọng của chữ viết đối với tâm thức và đời sống văn hóa của người dân.
Trong một bài viết
của PGS.TS Nguyễn Phương Mai, thuộc trường Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam,
Hà Lan đăng trên báo VietNamNet, tác giả đã đưa ra khái niệm “Tri nhận nghiệm
thân”, tức là cảm nhận của cơ thể ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhận thức.
Trong một thí
nghiệm về tri nhận nghiệm thân, hai nhóm người tham gia được yêu cầu cầm hai
cốc cà phê khác nhau. Nhóm thứ nhất cầm một cốc cà phê nóng, đúng tiêu chuẩn
phương Tây. Nhóm thứ hai cầm cốc lạnh. Cả hai nhóm được yêu cầu đánh giá một
nhóm người chính phủ. Nhóm cầm cốc nóng có đánh giá cao hơn, cho rằng người
được đánh giá thân thiện và đáng tin cậy hơn so với nhóm cầm cốc cà phê lạnh.
Nghiên cứu này chứng minh trải nghiệm thân xác có thể làm đổi thay ý thức. Khi
ta ấm áp thì ta thấy người đời cũng đáng yêu hơn. Điều này cho thấy, trải
nghiệm thân xác ảnh hưởng ngược lại đến cách chúng ta tư duy.
Vậy tri nhận
nghiệm thân có ảnh hưởng thế nào đến đề xuất cải cách chữ viết? Trước tiên hãy
quay trở lại lịch sử chữ viết của người Việt khi chúng ta dùng các ký tự tiếng
Trung Quốc để phiên âm tiếng Việt. Đây là một hệ thống chữ tượng hình, vì vậy,
tri nhận nghiệm thân có tác động sâu sắc hơn nhiều so với hệ thống chữ viết
khác.
Khi còn học tiếng
Trung lúc nhỏ, cô giáo luôn dạy rằng, một cái cây (chữ Mộc – 木) chỉ là một cái
cây, nhưng hai cái cây đứng cạnh nhau thì là một khu rừng (chữ Lâm – 林). Chữ Ái (愛) ý nghĩa là tình
yêu, gồm bộ Tâm 心 (con tim) và chữ Thụ 受 (chịu đựng), tình yêu thương chính là sự
chấp nhận và tình nguyện hi sinh.
Khi học chữ viết,
người dùng ký tự tiếng Trung dần dần hình thành các trải nghiệm cơ thể và trải nghiệm
tư duy cùng tần số với ký tự tượng hình. Chữ viết vì vậy ảnh hưởng đến cả triết
lý sống qua con đường vô thức: thế nào là hợp tác cùng nhau vào sinh ra tử, thế
nào là tình cảm chân thực khi ngóng đợi tin người thân, thế nào tình yêu và ân
nghĩa vợ chồng v.v.
Chúng ta có thể
hình dung ra sự bàng hoàng mất mát của dân tộc khi chữ quốc ngữ thay thế chữ
Nôm. Để đổi lại sự giản tiện, tốc độ phát triển và chế tài chính trị, chúng ta
bị đứt đoạn hoàn toàn với khối tri thức và tình cảm khổng lồ tích lũy vô
thức qua chữ viết. Di chứng còn lại cho đến ngày nay là người Hoa vào đền
chùa hiểu lời nhắn nhủ của tổ tiên hơn cả chúng ta.
Ví dụ, khi nói về
tình yêu, thế hệ cũ sẽ vẫn vô thức bị ảnh hưởng bởi ký tự và các giá trị kết
nối “thế nào là yêu” cùng các trải nghiệm thân xác đi cùng chữ “ái” tượng
hình. Nhưng thế hệ mới với chữ quốc ngữ sẽ không tiếp nối được tư duy, triết
lý, và kết nối đó từ chữ viết. Họ phải bồi đắp các tư duy, triết lý và kết
nối mới dựa vào các giá trị đạo đức cùng thời điểm.
Thời đó quan niệm
về tình yêu thế nào thì chữ “yêu” sẽ kích hoạt những giá trị tương đương, khác
một phần so với những giá trị mà chữ “ái” trong chữ Hán tượng hình 愛 hay chữ Nôm
tượng hình kích hoạt 𢞅 .
Vì vậy, chữ viết không chỉ là sản
phẩm văn hoá mà còn là bánh lái điều khiển thái độ và lối sống văn
hoá. Đây chính là lý do khiến nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chúng ta
tự động THAY ĐỔI cách giao tiếp khi dùng một ngôn ngữ khác, bộ não
kích hoạt những tư duy khác nhau khi đọc một đoạn văn có nội dung như
nhau, nhưng bằng một ngôn ngữ khác.
Sáng chế cải cách
tiếng Việt đương nhiên sẽ không có ảnh hưởng mạnh mẽ như việc chuyển đổi hệ
thống ký tự, nhưng nó sẽ làm người dùng phải thay đổi tư duy và đứt đoạn với
các tri nhận nghiệm thân đã được bồi đắp từ cả trăm năm nay.
Trên mạng lan
truyền một ví dụ vừa chính xác, vừa ngộ nghĩnh: “Trục trặc” khi viết theo
phương thức cải cách, thì hình ảnh đầu tiên hiện ra không phải là “sự
khó khăn” mà là một bộ phận cơ thể, các tri nhận liên quan đến cảm
giác cũng khác: “buồn cười”, ” thô tục”, “dâm dục” “tiểu tiện” v.v. Tư
duy không những bị đứt đoạn mà còn bị phân tán.
Tương tự, khi ta
đọc chữ “ty”, vốn văn hoá, trí nhớ và các tri nhận nghiệm thân sẽ gợi ý ta
hiểu là “công ty”, nhưng khi đọc chữ “ti”, ta nghĩ đến “ti tiện”. Với cách
viết mới, khi đọc “kôg ti”, các tri nhận nghiệm thân của cá nhân tôi gợi lại
là: “không (có) ti”, “king kong”, “khỉ đột”, “hoang dại”, “ti tiện”, “cái ti
cái vú”. “Công ty” hay “thương nghiệp” là những tri nhận đến cùng hoặc đến
sau, và bị phân tán.
Đây chỉ là một ví
dụ đơn giản, khoan hãy nói đến những ví dụ phức tạp hơn hay những đứt đoạn có
tính tư duy và triết lý cao hơn, có thể vô thức làm bốc hơi nhiều tri nhận và
kết nối sâu sắc hơn, tương đương với sự đứt đoạn khi chuyển từ chữ Nôm sang
Quốc Ngữ.
Thổ Nhĩ Kỳ là một
quốc gia từng chịu sự đổi thay mãnh liệt của chữ viết. Người Thổ đoạn tuyệt với
lịch sử Hồi giáo và cam kết phát triển theo con đường phương Tây nên dùng ký tự
latinh thay vì ký tự Ả Rập. Họ thành công, nhưng mất đi một phần khổng lồ các
kết nối giá trị từ nhiều trăm năm là lãnh chúa của thế giới Hồi giáo.
Tương tự, ở Trung Quốc ngay từ những năm
1950, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCS Trung Quốc) đã thúc đẩy phổ biến chữ Hán
giản thể, từ bỏ chữ Hán chính thể (phồn thể), gây hỗn loạn hệ thống chữ Hán.
Hành động này đã gây làn sóng phản đối rộng khắp, kéo theo vô số tranh luận
liên quan đến chữ Hán phồn thể và giản thể.
Tuy nhiên, ngay từ
ban đầu việc tranh luận về chữ Hán giản thể và phồn thể đã bị biến dạng dưới
sức ép của quyền lực chính trị. Hệ quả là ở Trung Quốc, ĐCS Trung Quốc đã cưỡng
chế dùng chữ Hán giản thể, ngăn chặn chữ Hán phồn thể, làm cho đông đảo người
Trung Quốc không còn biết chữ Hán phồn thể, không còn khả năng tìm lại hình
dạng văn hóa truyền thống Trung Hoa để biết được nó ra sao. Trong khi đó, ở
Hong Kong, Đài Loan và Singapore, chữ hán phồn thể vẫn được trân trọng và giữ
gìn mà không hề mang đến nạn mù chữ cho dân chúng như ĐCS Trung Quốc tuyên
truyền.
Thực hiện đơn giản
hóa chữ viết chỉ là một phần kế hoạch của ĐCS Trung Quốc trong việc cắt đứt với
văn hóa truyền thống Trung Hoa, sau đó đáng kể hơn là phong trào “cải cách giáo
dục”. ĐCS Trung Quốc cho xóa bỏ chương trình học văn học cổ điển, khiến vô số
tác phẩm của các nhà hiền triết Trung Quốc cổ đại bị ném vào thùng rác.
Học sinh chỉ có
thể học những giáo điều của Mác-Lênin và Mao Trạch Đông cùng những tác phẩm
tuyên truyền cho chính sách của ĐCS Trung Quốc do giới “văn nô” bào chế, hệ quả
là giới trẻ Trung Quốc chỉ còn biết Mác-Lê – Mao và ĐCS Trung Quốc, không còn
biết lịch sử Trung Quốc còn vô số nhà hiền triết, không biết những tinh túy của
văn hóa Trung Hoa là gì.
Trong khi đa số
người dân không biết chữ phồn thể, không đọc được các ấn phẩm xuất bản trước
1949, càng không thể đọc được những tác phẩm kinh điển cổ xưa, thế là con đường
đến với văn hóa truyền thống Trung Hoa bị chặn đứng, thế hệ con cháu Trung Hoa
biến thành “con cháu Mác-Lênin”.
Văn tự của đất
nước phải được giữ ổn định mới thuận lợi cho kế thừa và phát triển di sản văn
hóa. Chữ Hán phồn thể đã trải qua quá trình phát triển và biến hóa lâu dài, các
phần hình – âm – ý đã ổn định, các triều đại chỉ thêm hoặc bớt đôi chút để làm
cho nó hoàn thiện hơn. Cũng giống với tiếng Việt vậy, đã từng trải qua những
năm tháng gắn liền với đời sống của người dân, nó đã trở thành nét văn hóa thấm
đẫm vào trong máu của mỗi người, là sợi dây nối liền quá khứ và hiện tại.
Cho nên, khi thay
đổi chữ viết, dù là sự thay đổi nhỏ nhất, chúng ta phải thận trọng, phải nắm
được quy luật vận động và phát triển của ngôn ngữ, của văn hóa. Cải tiến chữ
viết không đúng quy luật phát triển của ngôn ngữ, cũng không tuân theo quy luật
phát triển của văn hóa thì rất có thể sẽ đưa cả xã hội trở về điểm xuất phát
ban đầu bởi nếu ví xã hội, đất nước, dân tộc như một ngôi nhà thì ngôn ngữ, văn
hóa chính là nền móng của ngôi nhà đó.
Chữ viết không chỉ
là các ký hiệu vô hồn ghi lại âm thanh tiếng nói. Một chữ cái giản đơn thôi
cũng có tác dụng gợi lại các kết nối văn hoá, giá trị, tình cảm, cảm giác
cơ thể, và trải nghiệm bồi đắp sau hàng trăm nghìn năm của từng cá nhân và dân
tộc. Thay đổi chữ viết là thay đổi những kết nối đó. Nếu cái giá phải trả là
đứt gãy, có lẽ chúng ta nên hài lòng với cái que đang có, cho dù nó có hơi …
cong.
Tuệ Tâm
Theo tinhhoa.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét