Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

Đỗ Trí Hùng: CÁCH MẠNG … NÊ PAN

 CÁCH MẠNG … NÊ PAN

- Đỗ Trí Hùng -

1 – Quốc gia bé tí xíu này, chính là nơi Đức Phật đản sinh, tuy nhiên, tư tưởng thiện lành của ngài chưa từng chiếm ưu thế ở đó. Quốc giáo của Nepan là Hindu, tức Ấn độ giáo. Tuy nhiên, Nepan không phải nhà nước thần quyền, nền chính trị nơi đây hoàn toàn thế tục, đa đảng, có điều, các thế lực cầm quyền đôi khi lợi dụng tôn giáo để cai trị.

Vậy thì, với người dân ở xứ xở Hindu, họ tin vào điều gì và họ bị lợi dụng thế nào?

Ấn độ giáo hay Hindu là loại tôn giáo rất phức tạp, nền tảng  “bản thể luận” cũng khá hấp dẫn, đại ý rằng mỗi cái tồn tại được phụ trách bởi một anh “thần” và các anh thần không bắt bẻ nhau.

Chẳng hạn thần nước, thần lửa, thần mặt trời, thần sinh nở, thần chiến tranh.v.v.. là những thần quyết định “mảng” của mình, không ai can thiệp vào ai.

Vậy thì, bạn sinh ra ở vị trí xã hội nào, bạn sẽ có một anh thần phụ trách và bạn đừng có mơ nhảy sang hệ thống của anh thần … khác.

Và nguyên lý này cũng sinh ra xã hội cực kỳ nhiều tầng lốp, hay còn gọi là “đẳng cấp”. Chẳng hạn, anh sinh ra là kẻ dọn … hố xí thì anh hãy làm tốt việc đó, và chính việc làm tốt của anh sẽ đóng góp vào sự muôn vẻ của thế giới.

Ngay kể cả khi anh là gã dọn hố xí thành đạt, rồi thành trọc phú lừng danh, thì đẳng cấp của anh không thay đổi, anh vẫn ở khu vực của kẻ dọn hố xí mà thôi…

2 – Hệ quả này dẫn đến việc cai trị, dù là đảng phái chính trị nào, rằng cộng sản hay phi cộng sản, thì xã hội Nepan luôn bất bình đẳng khủng khiếp và dường như tôn giáo của họ buộc họ coi việc đó là đương nhiên.

Lãnh đạo, quan chức thì xa hoa một cách ngang nhiên, thậm chí chẳng thèm nói “ tao buôn chổi đót mà có được”, họ ngang nhiên vì chính họ coi việc tham nhũng là quyền lợi từ “đẳng cấp” của họ. Dân đen cầy cuốc và nghèo đói, cũng là “quyền lợi” từ đẳng cấp của họ mà thôi…

Tất nhiên, dân Nepan, nếu có tài, học hành đỗ đạt và có thể nên trọc phú, giàu có, ok thôi, nhưng “đẳng cấp” của bạn không thay đổi…

3 – Gen Z đương nhiên họ không còn bị tôn giáo chi phối nữa, họ học hành, họ hiểu biết, họ mở rộng biên giới nhận thức bằng các nền tảng mạng xã hội, và họ cảm thấy bức xúc vì những điều phi lý trong xã hội họ đang sống. Sự bức xúc dồn nén từ rất lâu, vì họ thấy rõ cái “đẳng cấp” bề trên quản trị xã hội rất kém cỏi nhưng tham lam vô độ và công khai… 

Lệnh cấm mạng xã hội chỉ là “giọt nước tràn ly”  hay là cái cớ mà thôi, vì cách mạng kiểu gì cũng xảy ra. Nói theo kiểu Tocqueville thì “cách mạng chỉ làm sụp đổ cái chắc chắn sẽ sụp đổ”.

Tuy nhiên, không phải cuộc cách mạng nào cũng dẫn đến tiến bộ xã hội và không phải cuộc cách mạng nào cũng kèm theo hỗn loạn và bạo lực...

Chúng ta từng chứng kiến nhiều cuộc cách mạng, đặc biệt những cuộc cách mạng “nhung” của hệ thống xã hội chủ nghĩa đông âu cũ, nơi đó người dân cũng biểu tình gây sức ép và chính quyền tự … từ bỏ quyền lực.  

Vài nơi có xảy ra những vụ “trả thù” vì căm tức chế độ cũ, nhưng ít thôi.

Vì nền tảng của họ là triết học và văn hóa khá lâu đời, họ làm cách mạng chính trị cũng như cách mạng khoa học vậy, là kiên quyết thay đổi, trước hết về nhận thức, rằng cái cũ phải bị phế bỏ và cái mới phải ra đời.

Còn cách mạng mà thuần túy đốt phá, trả thù, thậm chí giết người… thì nó chính xác là nổi loạn, nó là cơ hội để “bản năng bạo lực” được xổng chuồng mà thôi…

Nói chung, nhìn “cách mạng nhung” thì hào hứng, còn nhìn cú “nổi loạn” thì … hãi lắm, đặc biệt với người già cả như tôi.

Người trẻ thì chả nói làm gì, họ mạnh mẽ, năng lượng dồi dào, không có nổi loạn để được đốt phá tưng bừng thì họ cũng tìm cách đua xe lao vào gốc cây hay lên đồng yêu nước hay gì đó...

Miễn là bản năng “tàn phá” được thỏa mãn!

4 – Kết cục của nổi loạn là gì?

Cuộc nổi loạn kinh hãi nhất, làm rung chuyển lịch sử loài người, chính là cách mạng Pháp 1789, đây là thời kỳ đẫm máu. Đốt phá, chém giết, đầu lâu bọn ... tư sản quí tộc lăn lông lốc ngoài vỉa hè... suốt 10 năm

Và đó là cơ hội cho một tài năng sắt máu lên ngai, chính là Napoleon. Ông là vị hoàng đế lừng danh, đã dẹp yên thời hỗn loạn đó, ông là nhà độc tài thông minh

Nhiều cuộc nổi loạn khác nữa, tôi chả kể vì rất dài, và đều là mảnh đất màu mỡ cho độc tài sắt máu lên ngôi.

Chúc mừng Nepan, các bạn sẽ chấm dứt thời kỳ cai trị của những thành phần vừa ngu vừa tham, và nhân tài kiệt xuất cỡ “kim ủn bắc triều” hoặc cỡ “tập đại đế nước tào” sẽ xuất hiện, các bạn sẽ phồn vinh...

... Và sẽ không bao giờ có cơ hội nổi loạn nữa, tin tôi đi!

P/S:

Chém gió rồi đoán già đoán non thôi, chứ tôi không chắc, có thể sau cú đốt phá tưng bừng này, Nepan sẽ có chính phủ dân chủ và vươn lên như ... Nhật bổn chẳng hạn, ai mà biết được

P/S:

Cách mạng mà có lý trí thì họ sẽ không đốt những thứ đẹp và có lợi cho họ, họ cũng không đốt cả vợ ... phó thủ tướng, vì bà ấy chỉ là bà vợ thôi

Thứ Ba, 9 tháng 9, 2025

FBK. Nguyễn Chương-Mt: HỆT NHƯ KIẾN BÒ QUANH MIỆNG CHÉN

 HỆT NHƯ KIẾN BÒ QUANH MIỆNG CHÉN 

1/ "Chứng minh nhân dân"...

Nói nào ngay, hồi ban đầu ở miền Nam khi thấy thẻ ghi "Chứng minh nhân dân" là đã thấy mắc cười. Vì sao? 

Làm người dân (nhân dân) là chuyện đương nhiên từ đời tám hoánh, hễ đẻ ra đời trong một quốc gia (chớ không phải trên hoang đảo vô danh) đương nhiên là "nhân dân" (人民) rồi, mắc gì phải "làm cho sáng tỏ" (nghĩa của hai chữ "chứng minh" 證 明)? 

Nhưng, dù thấy cái chữ "chứng minh nhân dân" kỳ cục, cũng đành chịu. Chỉ nhủ thầm trong bụng, rồi cũng sẽ tới lúc họ thấy ra cái sự kỳ cục này. 

Quả nhiên, bây giờ đã đổi sang gọi là thẻ "Căn cước công dân"! 

"Căn cước" (根 腳) nghĩa là xác minh nền tảng, "công dân" (公民 ) - ừa, đến một độ tuổi nào đó thì mỗi người mới có quyền bầu cử và ứng cử chớ! Luật hiện hành ở VN: đủ 14 tuổi trở lên thì được cấp Căn cước công dân; đặng chuẩn bị cho việc bầu cử (đủ 18 tuổi trở lên) và ứng cử (đủ 21 tuổi trở lên). 

Hai chữ "Căn cước", cách đây cả nửa thế kỷ, ở miền Nam (trước 1975) đã dùng như rứa rồi. Rốt cuộc, "đổi mới" là trở lại cái hồi xưa đã dùng - và dùng chữ rất đúng!

2/ "Sân bay"... 

Trước 1975, ở Sài Gòn có "Phi cảng Tân Sơn Nhứt", hai chữ "phi cảng" dùng để dịch cho chữ "Airport". Đùng một cái, sau 1975, đổi thành chữ "Sân bay". 

Thấy chữ "sân bay" là mắc cười (vì "port" đâu phải là "sân"), nhưng bấm bụng đành chịu. Chỉ nhủ thầm, rồi cũng sẽ tới lúc họ thấy ra cái sự nông nổi về ý nghĩa khi dùng hai chữ "sân bay". 

Quả nhiên, sau mấy chục năm ù lì, rốt cuộc cũng đổi sang gọi một cách chánh thức là: "Cảng hàng không" (港 航 空), không còn ghi hai chữ "sân bay" to đùng nữa! "Port" (trong "airport") đâu phải là "sân", mà là CẢNG.

Chữ "Cảng" (trong "phi cảng"), cách đây cả nửa thế kỷ, ở miền Nam (trước 1975) đã dùng rồi. Rốt cuộc, "đổi mới" là trở lại cái hồi xưa đã dùng - và dùng chữ rất đúng!

*&*

Ương bướng làm chi cho mắc mệt, vậy trời? Chỉ mấy con chữ mà không hiểu nổi, không chịu hiểu; để loanh quanh cả nửa thế kỷ rồi trở lại cách dùng chữ như xưa kia từng dùng ./. 

-------------------------------------------------------------

"CẢNG" là cách gọi đúng, không phải "sân".


Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025

FBK. Kim Van Chinh: BẠN CÓ BIẾT : 2 VÙNG GÁI ĐẸP Ở VIỆT NAM

BẠN CÓ BIẾT : 2 VÙNG GÁI ĐẸP Ở VIỆT NAM

1. GÁI TUYÊN QUANG : 

Chè Thái, gái Tuyên 

Chẳng phải tự nhiên con gái Tuyên Quang được ví là nơi có con gái đẹp nhất Bắc Kỳ, nhì cả nước. Biết được lý do bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên.

Các cụ ta thường truyền tai nhau câu nói: “chè Thái, gái Tuyên” với ngụ ý rằng, Thái Nguyên là vùng đất trồng chè ngon nhất cả nước, còn con gái Tuyên Quang xinh đẹp nhất cả nước. Vì sao người xưa lại nói vậy, có lẽ không phải ai cũng hiểu được.

Một đặc điểm chung của con gái Tuyên Quang, đó là làn da trắng mịn không tì vết. Có lẽ vì khí hậu ở nơi đây thuận lợi, mát mẻ, trong lành, hài hòa nên làn da, mái tóc của họ trắng trẻo mịn máng hơn những nơi khác.

Theo dòng lịch sử, Tuyên Quang từng là thành trì lịch sử của vua tôi nhà Mạc sau khi thất trận ở Kinh đô và vùng Hải Phòng đã chạy dạt lên miền núi xây thành đắp lũy xưng hùng xưng bá cả mấy đời vua, nên quy tụ nhiều mỹ nhân, cung tần được tuyển chọn từ khắp nơi vào tiến cung. Năm 1677, vương triều sụp đổ, những cô gái đẹp ấy vẫn ở lại, lấy chồng sinh con và lâu dần cứ thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, nét đẹp cứ được di truyền theo dòng chảy thời gian.

2. GÁI ĐẸP NHẤT NƯỚC Ở ĐÂU? 

Nhiều người Việt không biết câu trả lời. Nhưng những doanh nhân giàu có Hàn Quốc, Đài Loan họ lại biết.

Khi họ muốn lấy vợ đẹp người Việt, họ tìm đến vùng cù lao kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu thuộc tỉnh Đồng Tháp, trung tâm là làng Nha Mân, cách Cầu Mỹ Thuận 24km.

GÁI NHA MÂN (CÙ LAO KẸP GIỮA SÔNG TIỀN VÀ SÔNG HẬU) : 

“Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh

Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân?”

Khi liên quân Xiêm – Nguyễn hợp tác với nhau ở Miền Tây giúp Nguyễn Ánh mưu đồ phục quốc, Nguyễn Huệ kéo quân xuống tận Miền Tây trừng phạt.

Tài quân sự của Nguyễn Huệ khi đó nổi như cồn, quân Nguyễn – Xiêm không kháng nổi. Những chiến thuyền Tây Sơn từ các nhánh rạch nhỏ kéo ra chặn đánh phủ đầu, số khác xông ra đánh vỗ hông nhằm chia cắt đội hình và đánh chặn đường lui, dồn đoàn thuyền của quân Xiêm – Nguyễn vào thế tiến thoái lưỡng nan. Cùng lúc ấy những thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào những chiến thuyền đang rối loạn làm cho số bị chìm, số bị cháy…

Trời vừa rạng sáng, thì chiến cuộc cũng vừa dứt. Kết quả là 300 chiến thuyền và gần 3 vạn quân Xiêm – Nguyễn bị phá tan.

Chúa Nguyễn Ánh cùng bầu đoàn thê tử và một ít tùy tùng lúc đó đang đóng quân ở Trà Tân nghe tàn quân báo hung tin thất trận vội quay thuyền chạy theo sông Tiền tìm đường thoát thân về hướng Tây. Khi đến Nha Mân, do quân của Nguyễn Huệ truy đuổi ác liệt, Chúa Nguyễn Ánh quyết định bỏ lại hàng trăm cung tần, mỹ nữ để “nhẹ gánh chinh phu” cùng lời hứa, sau này khi làm nên sự nghiệp sẽ quay lại đón rước.

Theo lời kể của các bô lão, những nhan sắc khuynh nước khuynh thành này nói đủ các giọng ở nhiều vùng miền, nhưng lại hiếm người miền Tây Nam Bộ.

Sự nghiệp phục triều của Nguyễn Ánh cũng quá gian nan nên không quay lại đón họ được.

Ông Tám Khai – một người sống gần cả thế kỷ bên bờ Nha Mân cho rằng, chính nhờ nguồn “gene” cung phi mỹ nữ này lưu truyền mà xứ Nha Mân mới có nhiều thiếu nữ đẹp như hôm nay. Tương truyền, những mỹ nhân bị “bỏ rơi” đều lấy chồng là người địa phương, trở thành nông dân nhưng con cái do họ sinh ra đều đẹp như tiên đồng ngọc nữ.

Theo nhận xét của nhiều người, nhóm mỹ nữ dạt vào cù lao Ông Chưởng cũng lấy chồng, cũng tạo được một “miền gái đẹp” nhưng không nổi tiếng bằng con gái Nha Mân. “Hồi nhỏ, tôi nghe ông bà kể lại người đẹp xứ Nha Mân đếm không kể xiết. 

Khoảng đầu thế kỷ thứ 20, các vua xứ Cao Miên mang vàng bạc châu báu xuôi dòng sông Tiền sang tận “miền gái đẹp” Nha Mân để tìm ý trung nhân” – ông Tám Khai quả quyết.

Cho đến nay, người Nha Mân vẫn tự hào vì đàn bà xứ này đẻ 10 đứa con gái thì hết 9 đứa là người đẹp, đứa còn lại cũng trên trung bình. Trong những ngày Xuân, trên những con đường dọc theo các bờ kênh, bờ rạch đi dọc hai bờ rạch lúc nào cũng nườm nượp đàn bà con gái đẹp quần là áo lượt muôn màu sắc ngược xuôi, kẻ vào trong ngọn, người ra ngoài vàm thăm viếng thân nhân, bạn bè, nhìn không chán mắt.








(Vùng Cù lao ông Chưởng mạn Long Xuyên – Tân Châu còn là vùng gái đẹp tích hợp cả cái đẹp của gái Chăm di cư chạy giặc Khmer về vùng Tân Châu – Hồng Ngự)…

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2025

Sự Biến Chất Kết Cấu Của Sàn Rỗng:...

 Từ trang FB Trần Nguyên Duy Thịnh.

Sự Biến Chất Kết Cấu Của Sàn Rỗng: Từ Mô Hình Dầm Chữ I Lý Thuyết Đến Hệ Sàn Hai Lớp Không Cốt Đai Trong Thực Tế

Tóm tắt: Nền tảng lý thuyết của kết cấu sàn rỗng dựa trên sự mô phỏng thành một hệ lưới dầm chữ I trực giao, hiệu quả về mặt chịu uốn. Tuy nhiên, mô hình này phụ thuộc một cách sống còn vào hai giả định cơ bản: tính thẳng hàng của các sườn dầm và sự toàn khối của tiết diện. Bài báo này tiến hành phân tích cách các khiếm khuyết thi công phổ thông, đặc biệt là lỗi "lắp đặt hộp không thẳng hàng", đã phá vỡ cả hai giả định trên. Chúng tôi lập luận rằng, một khi các sườn dầm (bụng dầm) bị gãy khúc và trong bối cảnh thiết kế vốn đã không có cốt đai chịu cắt, kết cấu không còn làm việc như một hệ dầm chữ I nữa. Thay vào đó, nó biến chất thành một hệ sàn hai lớp – bao gồm hai bản bê tông mỏng trên và dưới – chỉ được liên kết yếu bởi các móc chữ C và sườn bê tông xiên vẹo. Hệ kết cấu mới này có khả năng chịu cắt cực kỳ yếu và có nguy cơ bị phá hoại giòn, đặt ra một thách thức an toàn nghiêm trọng, vượt xa các sai số tính toán trong mô hình quy đổi.

Từ khóa: sàn rỗng, tiết diện chữ I, không cốt đai, sàn hai lớp, lỗi thi công, phá hoại do cắt, an toàn kết cấu.

1. Đặt vấn đề

Hiệu quả lý thuyết của sàn rỗng được xây dựng trên một sự tương đồng thanh lịch: nó là một hệ lưới dầm chữ I làm việc hai phương. Tuy nhiên, sự thanh lịch của lý thuyết đang đối mặt với một thực tế thi công thô ráp. Trong khi các cuộc tranh luận học thuật thường tập trung vào việc tìm ra hệ số quy đổi chính xác, một câu hỏi nền tảng hơn lại thường bị bỏ qua: Liệu kết cấu được xây dựng ngoài thực tế có thực sự là một hệ dầm chữ I hay không? Bài viết này sẽ chứng minh rằng, các lỗi thi công phổ biến đang biến đổi bản chất của kết cấu, từ một hệ dầm thành một hệ sàn hai lớp nguy hiểm.

2. Mô Hình Lý Thuyết và Các Giả Định Bị Vi Phạm

Mô hình thiết kế của sàn rỗng có hai giả định ngầm nhưng tối quan trọng:

Giả định 1: Các sườn dầm thẳng và liên tục. Toàn bộ việc tính toán và phân phối nội lực đều dựa trên việc các bụng dầm chữ I phải tạo thành một hệ lưới thẳng, song song với các trục kết cấu chính.

Giả định 2: Tiết diện làm việc toàn khối. Lớp bê tông cánh trên, cánh dưới và bụng dầm phải được liên kết thành một khối duy nhất để có thể kháng lại các ứng suất uốn và cắt.

Tuy nhiên, thực tế thi công thường xuyên vi phạm cả hai giả định này.

3. Khiếm Khuyết Thi Công: "Bụng Dầm Gãy Khúc" và Sự Vắng Mặt Của Cốt Đai

Tài liệu kỹ thuật của chính các nhà cung cấp đã thừa nhận lỗi thi công chí mạng: "Hộp được lắp đặt không thẳng, không đảm bảo tiết diện của hệ dầm chìm chữ I trực giao"

Hệ quả hình học: Khi các hộp nhựa bị xô lệch, các sườn bê tông xen kẽ không còn là những đường thẳng. Chúng trở thành những trục dầm gãy khúc, xiên vẹo. Sơ đồ truyền lực lý tưởng bị phá vỡ hoàn toàn.

Sự vắng mặt của cốt đai: Một đặc điểm cố hữu trong thiết kế sàn rỗng là các sườn dầm hẹp này không được bố trí cốt đai chịu cắt dọc theo chiều dài của nó (cốt đai chỉ xuất hiện dưới dạng thép chống cắt, chống chọc thủng ở các khu vực đặc quanh cột). Toàn bộ khả năng chịu cắt của "bụng dầm" phụ thuộc vào sự toàn khối, cường độ của vật liệu bê tông và vài móc C liên kết 2 lớp sàn.

4. Sự Biến Chất Kết Cấu: Hệ Sàn Hai Lớp Thép

Khi một hệ kết cấu có các bụng dầm gãy khúc và không có cốt đai, nó không còn có thể được xem là một hệ dầm chữ I nữa. Nó đã biến chất về mặt cấu trúc thành một hệ sàn hai lớp.

Cấu tạo: Hệ này bao gồm hai bản bê tông mỏng (tương ứng với lớp thép trên và lớp thép dưới). Hai bản này được liên kết với nhau một cách yếu ớt bởi các sườn bê tông khuyết tật về hình học.

Ứng xử chịu lực: Trong hệ kết cấu này, hai lớp sàn có xu hướng làm việc gần như độc lập với nhau. Khả năng kháng mô men uốn tổng thể bị suy giảm nghiêm trọng.

Nguy cơ phá hoại do cắt: Đây là rủi ro lớn nhất. Vì không có cốt đai và các sườn bê tông liên kết đã bị suy yếu do gãy khúc, khả năng chống lại lực cắt theo phương đứng của hệ là cực kỳ thấp. Lực cắt sẽ gây ra các vết nứt xiên tại các sườn dầm và có thể dẫn đến sự trượt phá hoại giữa hai lớp sàn, gây sụp đổ đột ngột mà không có dấu hiệu báo trước.

5. Kết luận và Kiến nghị

Bài viết này đã chỉ ra rằng, sự kết hợp giữa lỗi thi công phổ biến (lắp đặt hộp không thẳng hàng) và một đặc điểm thiết kế cố hữu (không có cốt đai trong sườn dầm) đã làm biến chất kết cấu sàn rỗng từ một hệ dầm chữ I lý thuyết thành một hệ sàn hai lớp nguy hiểm trong thực tế.

Sự an toàn của công nghệ này không chỉ bị đe dọa bởi các sai số trong mô hình quy đổi, mà còn bị tấn công ngay từ bản chất kết cấu được hình thành trên công trường. Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị:

1.  Cần phải xem xét lại một cách cơ bản mô hình tính toán: Các mô hình quy đổi hiện nay vẫn giả định một kết cấu lý tưởng. Cần có những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá mức độ suy giảm khả năng chịu lực khi có các sai lệch thi công hình học.

2.  Tăng cường các yêu cầu về cấu tạo: Cần nghiên cứu các giải pháp cấu tạo bổ sung, chẳng hạn như các thanh thép nối theo phương đứng (dù không phải cốt đai đầy đủ) trong các sườn dầm để tăng cường liên kết giữa hai lớp sàn, nhằm ngăn chặn sự phá hoại giòn do cắt.

Nếu không giải quyết được mâu thuẫn giữa một bản vẽ lý tưởng và một thực tế thi công đầy khiếm khuyết, chúng ta đang chấp nhận một rủi ro mà không một hệ số an toàn nào có thể bù đắp được.


Trần Nguyên Duy Thịnh: Bài Học Eindhoven Và Sự Thật Của Những Vết Nứt

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, một cuộc tranh luận kỹ thuật gay gắt đã nảy sinh, phản ánh một cuộc khủng hoảng niềm tin sâu sắc.

Một bên là đại diện của đơn vị thi công/cung cấp sản phẩm, đưa ra kinh nghiệm thực tế làm bằng chứng. Họ tuyên bố đã thực hiện "một năm gần trăm dự án" với các nhịp lớn (lên tới 16m) sử dụng công nghệ sàn rỗng (sàn hộp). Mấu chốt trong lập luận của họ là một lời thừa nhận đáng báo động: "Sự cố thì thiếu gì, đa số là nứt và rỗ sàn", nhưng ngay lập tức được trấn an bằng cam kết "mà xử lý hết rồi". Quan trọng nhất, họ bác bỏ tuyệt đối nguy cơ nghiêm trọng nhất: "chứ bảo phá hoại giòn sụp đổ đột ngột... thì không có chuyện đấy nhé".

Bên còn lại, đại diện cho tiếng nói phản biện, đã dựa trên lý thuyết kỹ thuật cơ bản. Họ chỉ ra rằng, việc "sườn không có đủ thép chống cắt" vốn dĩ "có nguy cơ dẫn đến phá hoại giòn". Họ đặt ra một câu hỏi nền tảng: Phải chăng lời cam đoan thực tế kia đang đi ngược lại "những gì đã được dạy ở các trường kỹ thuật"?

Cuộc tranh luận này không còn là về bê tông. Đây là cuộc đối đầu giữa một bên là "Báo cáo Thực nghiệm" (chấp nhận vá lỗi) và một bên là "Nguyên tắc An toàn Căn bản" (không chấp nhận rủi ro hệ thống).

Để kiểm chứng hai luận điểm trên, chúng ta phải nhìn vào bằng chứng thực nghiệm. Trường hợp sụp đổ Gara P+R tại Sân bay Eindhoven, Hà Lan, cung cấp một dữ liệu bi thảm và chính xác.

Công nghệ được sử dụng tại Eindhoven (BubbleDeck) có cùng triết lý với sàn hộp: sử dụng các quả cầu nhựa rỗng để "tiết kiệm chi phí, trọng lượng và thời gian thi công". Đây chính là logic của "Báo cáo Kinh nghiệm" mà bên thi công đã bảo vệ.

Tuy nhiên, thảm họa đã xảy ra. Báo cáo điều tra chỉ rõ:
1.  Hiện tượng: Đã xảy ra một "sự sụp đổ dây chuyền" (progressive collapse). Đây chính xác là định nghĩa kỹ thuật của "phá hoại giòn" — thảm họa mà vị chuyên gia kia khẳng định là "không có chuyện đấy".
2.  Nguyên nhân gốc: "Thất bại về liên kết bê tông" (concrete bond failures)
3.  Tác nhân kích hoạt (Trigger): Một yếu tố mà mô hình dường như đã bỏ qua: "biến đổi nhiệt độ chênh lệch do mặt trời" (differential solar gain), vốn bị khuếch đại bởi chính đặc tính cách nhiệt của các quả cầu nhựa
4.  Vị trí sụp đổ: Thất bại xảy ra "dọc theo một khớp nối dọc", và đây cũng chính là "khu vực có mô men uốn dương tối đa" — tức là nơi chịu ứng suất và lực căng lớn nhất.

Việc đối chiếu dữ liệu Eindhoven với cuộc tranh luận trong nước mang lại một kết luận rõ ràng:

Thứ nhất, lời cam đoan "không có phá hoại giòn" là một sự tự tin nguy hiểm, đã bị thực tế quốc tế bác bỏ. Hệ thống sàn rỗng, về bản chất, có nguy cơ sụp đổ dây chuyền khi các điều kiện bất lợi hội tụ.

Thứ hai, và quan trọng nhất: Sự thừa nhận "nứt và rỗ sàn là chuyện thiếu gì" chính là lời thú nhận về sự tồn tại của "thất bại liên kết bê tông" (bond failures).

Lời bào chữa rằng các vết nứt đó đã "xử lý hết rồi" bỏ qua một sự thật khoa học: Anh có thể vá (xử lý) một triệu chứng bề mặt, nhưng anh không thể vá lại một sự mất liên kết (bond failure) đã xảy ra ở cấp độ cấu trúc bên trong.

Báo cáo Eindhoven cho thấy, một khi sự liên kết cơ bản đã thất bại (do thi công, thiết kế, hoặc vật liệu), toàn bộ kết cấu chỉ còn chờ đợi một "tác nhân kích hoạt" (như chênh lệch nhiệt độ) để sụp đổ tại điểm chịu ứng suất cao nhất.

Đây không chỉ là bài học về kỹ thuật; đây là bài học về niềm tin. Khi những kỹ sư thừa nhận rằng các vết nứt (triệu chứng của sự mất liên kết) là "chuyện thường ngày" - có thể vì áp lực "tiết kiệm chi phí và thời gian" —họ đã tự phá hủy cơ sở khoa học và lương tâm cho những lời cam đoan của chính mình.

Báo cáo của Hà Lan (TNO) kết luận rằng cần phải có "một sự liên kết đầy đủ hơn" (a more adequate bond). Đó cũng chính là điều xã hội yêu cầu. Chúng ta không thể đặt cược sự an toàn của mình vào một hệ thống chấp nhận "vết nứt" như một tiêu chuẩn, và chỉ hy vọng rằng sẽ không có một "cú sốc" bất ngờ nào kích hoạt thảm họa.

Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2025

KS. Mai Triệu Quang: TÓM TẮT TIÊU CHUẨN THIẾT KẾ MẶT ĐƯỜNG MỀM CỦA NGA - GOST R 71404-2024

Thấy nhiều chuyên gia người thì phê phán tiêu chuẩn thiết kế mặt đường của Nga, người thi ca tụng lên mây, ông Quang gạch thử dịch ra tiếng Việt cái bản 2024 của họ, xem nó khác gì với cái 30 năm trước được các Thầy dạy ở Đại học...

Các phân tích chuyên sâu về tiêu chuẩn mới của Liên bang Nga, GOST R 71404-2024: "Đường ô tô công dụng chung. Áo đường mềm. Quy tắc thiết kế". Đây là một tài liệu kỹ thuật rất bài bản và hiện đại, thể hiện sự phát triển trong phương pháp luận thiết kế của Nga.

Dưới đây là bản tóm tắt các nội dung cốt lõi của tiêu chuẩn này.

TÓM TẮT TIÊU CHUẨN THIẾT KẾ MẶT ĐƯỜNG MỀM CỦA NGA - GOST R 71404-2024

Tên đầy đủ: Национальный стандарт РФ ГОСТ Р 71404-2024 "Дороги автомобильные общего пользования. Нежесткие дорожные одежды. Правила проектирования" (Tiêu chuẩn quốc gia LB Nga GOST R 71404-2024 "Đường ô tô công dụng chung. Áo đường mềm. Quy tắc thiết kế").

Ngày hiệu lực: 01 tháng 9 năm 2024.

1. Phạm Vi Áp Dụng và Mục Tiêu

Đối tượng: Tiêu chuẩn này áp dụng cho việc thiết kế, tính toán và cấu tạo kết cấu áo đường mềm trên các tuyến đường ô tô công dụng chung tại Liên bang Nga, bao gồm cả xây dựng mới, tái thiết, sửa chữa lớn, sửa chữa vừa.

Mở rộng: Có thể áp dụng cho đường đô thị, đường có cường độ xe thấp và cả công tác duy tu, bảo dưỡng.

Giới hạn: Tiêu chuẩn không áp dụng cho việc thiết kế trong vùng điều kiện khí hậu - đường bộ loại I (vùng băng giá vĩnh cửu).

Mục tiêu: Thiết kế kết cấu áo đường không chỉ đảm bảo cường độ và độ tin cậy trong suốt tuổi thọ thiết kế mà còn phải kinh tế, tiết kiệm vật liệu (đặc biệt là vật liệu đắt tiền), năng lượng và tuân thủ các yêu cầu về môi trường.

2. Triết Lý và Quy Trình Thiết Kế Tổng Thể

Tiêu chuẩn tiếp cận thiết kế theo phương pháp cơ học - thực nghiệm, tương tự như các tiêu chuẩn hiện đại trên thế giới (AASHTO, v.v.). Quá trình thiết kế là một vòng lặp gồm các bước sau:

Thiết kế sơ bộ (Конструирование): Lựa chọn sơ bộ loại vật liệu, cấu tạo và chiều dày các lớp kết cấu.

Tính toán kiểm tra (Расчет): Kiểm tra kết cấu đã lựa chọn theo các tiêu chí về cường độ, ổn định nhiệt (chống trồi đất do băng giá) và khả năng thoát nước.

Xây dựng mặt cắt ngang: Bố trí các kết cấu trên mặt cắt ngang của nền đường.

So sánh kinh tế - kỹ thuật: So sánh ít nhất 03 phương án thiết kế khác nhau để chọn ra phương án tối ưu dựa trên tổng chi phí xây dựng và khai thác trong suốt vòng đời dự án.

3. Các Yếu Tố Đầu Vào Quan Trọng

3.1. Tải Trọng Tính Toán (Расчетные нагрузки)

Tải trọng trục tiêu chuẩn:

115 kN (A-11,5): Dùng cho kết cấu áo đường cấp cao (Капитальный тип).

100 kN (A-10): Dùng cho kết cấu áo đường cấp thấp (Облегченный тип) và loại quá độ (Переходный тип).

Áp lực bánh xe:

0,8 MPa: Cho đường cấp cao.

0,6 MPa: Cho đường cấp thấp và quá độ.

Lưu lượng xe tính toán (∑Np): Tiêu chuẩn sử dụng khái niệm "tổng số lần tác dụng của tải trọng trục quy đổi" trong suốt tuổi thọ thiết kế, tương đương với khái niệm ESALs trong tiêu chuẩn AASHTO. Việc quy đổi từ các loại xe khác nhau về trục tiêu chuẩn được thực hiện theo tiêu chuẩn riêng GOST R 71405-2024.

3.2. Vật Liệu và Nền Đất (Рабочий слой земляного полотна)

Tiêu chuẩn quy định rất chi tiết về các loại vật liệu cho từng lớp kết cấu, bao gồm:

Bê tông nhựa (БТН): Các loại bê tông nhựa đá dăm - mastic (ЩМА, SMA), bê tông nhựa theo phương pháp thiết kế thể tích chức năng (SP).

Vật liệu gia cố: Đá dăm, cấp phối sỏi sạn, đất... được gia cố bằng các loại chất liên kết hữu cơ (nhựa đường), vô cơ (xi măng) hoặc phức hợp.

Vật liệu hạt: Cấp phối đá dăm (ЩПС), cấp phối sỏi-cát (ПГС), đá dăm, sỏi, cát....

Yêu cầu đối với nền đất: Nền đất (phần trên của nền đường) phải đảm bảo một giá trị mô đun đàn hồi chung tối thiểu, phụ thuộc vào vùng khí hậu:

Vùng II: ≥60 MPa 

Vùng III: ≥53 MPa 

Vùng IV, V: ≥45 MPa 

Nếu không đạt, phải có các biện pháp xử lý như thay đất, gia cố hoặc ổn định đất.

4. Các Tiêu Chí Tính Toán Cường Độ

Đây là phần cốt lõi của tiêu chuẩn. Kết cấu áo đường cấp cao và cấp thấp phải được kiểm toán đồng thời theo 03 tiêu chí sau:

Tiêu chí về võng đàn hồi cho phép (по допускаемому упругому прогибу):

Mục đích: Khống chế biến dạng chung của toàn bộ kết cấu để đảm bảo không xảy ra phá hoại do lún vệt bánh xe.

Điều kiện kiểm tra: Mô đun đàn hồi chung trên bề mặt áo đường (E общ ) phải lớn hơn mô đun đàn hồi yêu cầu tối thiểu (E min) nhân với hệ số an toàn về cường độ (K пртр).

E общ ≥E min ⋅K пртр

Emin  được xác định dựa trên tổng số trục xe quy đổi (∑Np).

Tiêu chí về chống trượt trong nền đất và các lớp vật liệu không liên kết (по условию сдвигоустойчивости):

Mục đích: Đảm bảo ứng suất trượt sinh ra do tải trọng bánh xe tại mặt lớp đất nền và trong các lớp vật liệu hạt không vượt quá sức kháng trượt của chúng.

Điều kiện kiểm tra: Ứng suất trượt chủ động (T) phải nhỏ hơn ứng suất trượt giới hạn (T пр) chia cho hệ số an toàn.

T≤ K пртр T пр

T пр  được xác định theo định luật Coulomb, phụ thuộc vào lực dính (c N) và góc ma sát trong (ϕ N) của vật liệu.

Tiêu chí về chống mỏi do kéo uốn trong các lớp bê tông nhựa (по сопротивлению усталостному разрушению от растяжения при изгибе):

Mục đích: Khống chế ứng suất kéo uốn tại đáy các lớp bê tông nhựa để ngăn ngừa nứt do mỏi sau một số lần lặp lại của tải trọng.

Điều kiện kiểm tra: Ứng suất kéo uốn lớn nhất (σ r) phải nhỏ hơn cường độ chịu kéo uốn giới hạn có xét đến yếu tố mỏi (RN) chia cho hệ số an toàn.

σ r ≤ K пртр RN

 R N được xác định dựa trên cường độ chịu kéo uốn ban đầu của vật liệu, số lần tác dụng của trục xe quy đổi và các hệ số kể đến sự suy giảm cường độ theo thời gian.

5. Các Tính Toán Kiểm Tra Quan Trọng Khác

Kiểm tra ổn định nhiệt (chống trồi đất do băng giá - морозоустойчивость):

Đây là một phần cực kỳ quan trọng đối với điều kiện khí hậu của Nga.

Mục đích: Đảm bảo lượng trồi của mặt đường do hiện tượng đất đóng băng và trương nở vào mùa đông không vượt quá giá trị cho phép.

Điều kiện kiểm tra: 

l пуч <l доп  (lượng trồi tính toán < lượng trồi cho phép).

Các giải pháp bao gồm: sử dụng vật liệu không bị trồi đất, nâng cao độ cao thiết kế, sử dụng các lớp cách nhiệt hoặc các lớp ngăn mao dẫn.

Tính toán thoát nước (Осушение дорожных одежд):

Tiêu chuẩn yêu cầu thiết kế lớp đáy móng có khả năng thoát nước (дренирующий слой) tại các vùng có điều kiện thủy văn bất lợi.

Lớp thoát nước phải được tính toán để có thể tiêu thoát lượng nước xâm nhập vào kết cấu trong một khoảng thời gian nhất định, dựa trên nguyên tắc "thoát nước" (осушение) hoặc "thấm và trữ" (поглощение).

Hệ số thấm của vật liệu cho lớp thoát nước phải không nhỏ hơn 2 m/ngày đêm (đối với nguyên tắc thoát nước) và 1 m/ngày đêm (đối với nguyên tắc thấm và trữ).

6. Thiết Kế Tăng Cường (Проектирование слоев усиления)

Tiêu chuẩn cũng đưa ra các chỉ dẫn cho việc thiết kế các lớp phủ tăng cường trên mặt đường cũ.

Việc tính toán dựa trên kết quả khảo sát, đánh giá cường độ hiện trạng của kết cấu (thông qua độ võng đàn hồi) và tính toán chiều dày lớp tăng cường để đưa kết cấu về trạng thái đáp ứng được các yêu cầu về cường độ với lưu lượng xe dự báo trong tương lai.

Nhận xét của chuyên gia:

Tiêu chuẩn GOST R 71404-2024 là một bước tiến lớn, hệ thống hóa và hiện đại hóa phương pháp thiết kế áo đường mềm của Nga. So với tiêu chuẩn 22 TCN 211-06 của Việt Nam, hoặc TCCS 38, tiêu chuẩn này có những điểm tương đồng về phương pháp luận cơ học (tính toán ứng suất - biến dạng) nhưng ở mức độ chi tiết và phức tạp hơn rất nhiều.

Điểm mạnh:

Toàn diện: Bao quát từ khâu chọn vật liệu, tính toán cường độ, kiểm tra ổn định nhiệt, thoát nước đến cả các kết cấu phụ trợ.

Cơ học-thực nghiệm rõ ràng: Ba tiêu chí tính toán cường độ là nền tảng của các phương pháp thiết kế hiện đại trên thế giới.

Phù hợp điều kiện địa phương: Đặc biệt chú trọng đến yếu tố băng giá, một yếu tố sống còn đối với độ bền của kết cấu đường ở các vùng khí hậu lạnh.

Điểm khác biệt chính so với AASHTO và TCVN 211-06/TCCS 38:

Tính toán chống trồi đất do băng giá: Đây là phần tính toán riêng biệt và rất chi tiết mà các tiêu chuẩn ở vùng khí hậu nóng ẩm như Việt Nam không có.

Công cụ tính toán: Tiêu chuẩn này sử dụng rất nhiều biểu đồ (nomogram) để tra cứu các thông số ứng suất-biến dạng, đây là một phương pháp truyền thống nhưng vẫn rất hiệu quả nếu không có phần mềm chuyên dụng.

Phần Mở Đầu (Введение)

Tiêu chuẩn này được xây dựng nhằm phát triển phương pháp luận thiết kế kết cấu áo đường mềm đang có hiệu lực tại Liên bang Nga, và dựa trên các nguyên tắc đã được đặt ra trong các tài liệu quy phạm kỹ thuật có hiệu lực trước đây, như là VSN 46-72, VSN 46-83, ODN 218.046, PNST 265-2018 và PNST 542-2021.

Tiêu chuẩn này được xây dựng có xem xét đến kết quả phân tích từ việc giám sát quá trình áp dụng tiêu chuẩn PNST 542-2021 tại Liên bang Nga và có tính đến những thay đổi trong hệ thống cơ sở quy phạm-kỹ thuật đã diễn ra kể từ thời điểm tiêu chuẩn đó được đưa vào áp dụng.

1. Phạm vi áp dụng (Область применения)

Tiêu chuẩn này áp dụng cho kết cấu áo đường mềm (sau đây gọi là áo đường) của đường ô tô công dụng chung (sau đây gọi là đường ô tô).

Tiêu chuẩn này thiết lập các quy tắc thiết kế (cấu tạo và tính toán) áo đường khi xây dựng, tái thiết, sửa chữa lớn và sửa chữa vừa đường ô tô.

Cho phép áp dụng các điều khoản của tiêu chuẩn này khi thực hiện các công tác duy tu, bảo dưỡng (khi cần thiết phải khôi phục áo đường).

Cho phép áp dụng các điều khoản của tiêu chuẩn này khi thiết kế (cấu tạo và tính toán) áo đường của các tuyến phố và đường trong các khu dân cư.

Cho phép áp dụng các điều khoản của tiêu chuẩn này khi thiết kế (cấu tạo và tính toán) áo đường loại cấp cao và cấp thấp trên các tuyến đường có cường độ xe chạy thấp.

Tiêu chuẩn này không áp dụng cho việc thiết kế (cấu tạo và tính toán) áo đường trong vùng điều kiện khí hậu - đường bộ loại I.

2. Các tài liệu viện dẫn (Нормативные ссылки)

Trong tiêu chuẩn này có sử dụng các viện dẫn quy chuẩn đến các tài liệu sau đây:

ГОСТ 25584 Грунты. Методы лабораторного определения коэффициента фильтрации (Đất. Phương pháp xác định hệ số thấm trong phòng thí nghiệm)

ГОСТ 32703 Дороги автомобильные общего пользования. Щебень и гравий из горных пород. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Đá dăm và sỏi từ đá thiên nhiên. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ 32730 Дороги автомобильные общего пользования. Песок дробленый. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Cát nghiền. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ 32824 Дороги автомобильные общего пользования. Песок природный. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Cát tự nhiên. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ 32826 Дороги автомобильные общего пользования. Щебень и песок шлаковые. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Đá dăm và cát xỉ. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ 32960 Дороги автомобильные общего пользования. Нормативные нагрузки, расчетные схемы нагружения (Đường ô tô công dụng chung. Tải trọng tiêu chuẩn, sơ đồ tính toán tải trọng)

ГОСТ 33063-2014 Дороги автомобильные общего пользования. Классификация типов местности и грунтов (Đường ô tô công dụng chung. Phân loại địa hình và các loại đất)

ГОСТ 33100 Дороги автомобильные общего пользования. Правила проектирования автомобильных дорог (Đường ô tô công dụng chung. Quy tắc thiết kế đường ô tô)

ГОСТ 33133 Дороги автомобильные общего пользования. Битумы нефтяные дорожные вязкие. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Bitum dầu mỏ dạng dẻo dùng cho đường bộ. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ 33382 Дороги автомобильные общего пользования. Техническая классификация (Đường ô tô công dụng chung. Phân loại kỹ thuật)

ГОСТ Р 50597 Дороги автомобильные и улицы. Требования к эксплуатационному состоянию, допустимому по условиям обеспечения безопасности дорожного движения. Методы контроля (Đường ô tô và đường phố. Yêu cầu đối với tình trạng khai thác cho phép theo điều kiện đảm bảo an toàn giao thông. Phương pháp kiểm tra)

ГОСТ Р 52056 Вяжущие полимерно-битумные дорожные на основе блоксополимеров типа стирол-бутадиен-стирол. Технические условия (Chất kết dính polyme-bitum dùng cho đường bộ trên cơ sở copolyme khối loại styren-butadien-styren. Điều kiện kỹ thuật)

ГОСТ Р 52399 Дороги автомобильные общего пользования. Геометрические элементы. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Các yếu tố hình học. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ Р 55029 Дороги автомобильные общего пользования. Материалы геосинтетические для армирования асфальтобетонных слоев дорожной одежды. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp dùng để gia cường các lớp bê tông nhựa của áo đường. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ Р 56338 Дороги автомобильные общего пользования. Материалы геосинтетические для армирования нижних слоев основания дорожной одежды. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp dùng để gia cường các lớp dưới của móng áo đường. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ Р 56419 Дороги автомобильные общего пользования. Материалы геосинтетические для разделения слоев дорожной одежды из минеральных материалов. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp dùng để phân cách các lớp áo đường bằng vật liệu khoáng. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ Р 58349 Дороги автомобильные общего пользования. Дорожная одежда. Методы измерения толщины слоев дорожной одежды (Đường ô tô công dụng chung. Áo đường. Phương pháp đo chiều dày các lớp áo đường)

ГОСТ Р 58400.1 Дороги автомобильные общего пользования. Материалы вяжущие нефтяные битумные. Технические условия с учетом температурного диапазона эксплуатации (Đường ô tô công dụng chung. Vật liệu kết dính bitum dầu mỏ. Điều kiện kỹ thuật có tính đến dải nhiệt độ khai thác)

ГОСТ Р 58400.2 Дороги автомобильные общего пользования. Материалы вяжущие нефтяные битумные. Технические условия с учетом уровней эксплуатационных транспортных нагрузок (Đường ô tô công dụng chung. Vật liệu kết dính bitum dầu mỏ. Điều kiện kỹ thuật có tính đến các cấp độ tải trọng xe khai thác)

ГОСТ Р 58401.1 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси асфальтобетонные дорожные и асфальтобетон. Система объемно-функционального проектирования. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp bê tông nhựa đường và bê tông nhựa. Hệ thống thiết kế theo thể tích-chức năng. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ Р 58401.2 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси асфальтобетонные дорожные и асфальтобетон щебеночно-мастичные. Система объемно-функционального проектирования. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp bê tông nhựa đường và bê tông nhựa đá dăm-mastic. Hệ thống thiết kế theo thể tích-chức năng. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ Р 58406.1 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси щебеночно-мастичные асфальтобетонные и асфальтобетон. Технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp bê tông nhựa đá dăm-mastic và bê tông nhựa. Điều kiện kỹ thuật)

ГОСТ Р 58406.2 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси горячие асфальтобетонные и асфальтобетон. Технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp bê tông nhựa nóng và bê tông nhựa. Điều kiện kỹ thuật)

ГОСТ Р 58406.5 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси асфальтобетонные дорожные и асфальтобетон. Метод определения истираемости (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp bê tông nhựa đường và bê tông nhựa. Phương pháp xác định độ mài mòn)

ГОСТ Р 58422.1 Дороги автомобильные общего пользования. Защитные слои и слои износа дорожных одежд. Технические требования (Đường ô tô công dụng chung. Lớp bảo vệ và lớp hao mòn của áo đường. Yêu cầu kỹ thuật)

ГОСТ Р 58770 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси щебеночно-песчаные шлаковые. Технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp cấp phối đá dăm-cát từ xỉ. Điều kiện kỹ thuật)

ГОСТ Р 58818 Дороги автомобильные с низкой интенсивностью движения. Проектирование, конструирование и расчет (Đường ô tô có cường độ xe chạy thấp. Thiết kế, cấu tạo và tính toán)

ГОСТ Р 58829 Дороги автомобильные общего пользования. Битумы нефтяные дорожные вязкие. Правила выбора марок в зависимости от прогнозируемых транспортных нагрузок и климатических условий эксплуатации на основе дополнительных показателей (Đường ô tô công dụng chung. Bitum dầu mỏ dạng dẻo dùng cho đường bộ. Quy tắc lựa chọn mác bitum phụ thuộc vào tải trọng xe dự báo và điều kiện khí hậu khai thác trên cơ sở các chỉ tiêu bổ sung)

ГОСТ Р 58861-2020 Дороги автомобильные общего пользования. Капитальный ремонт и ремонт. Планирование межремонтных сроков (Đường ô tô công dụng chung. Sửa chữa lớn và sửa chữa vừa. Lập kế hoạch chu kỳ sửa chữa)

ГОСТ Р 59120-2021 Дороги автомобильные общего пользования. Дорожная одежда. Общие требования (Đường ô tô công dụng chung. Áo đường. Yêu cầu chung)

ГОСТ Р 59201 Дороги автомобильные общего пользования. Капитальный ремонт, ремонт и содержание. Технические правила (Đường ô tô công dụng chung. Sửa chữa lớn, sửa chữa vừa và duy tu, bảo dưỡng. Quy tắc kỹ thuật)

ГОСТ Р 59918 Дороги автомобильные общего пользования. Нежесткие дорожные одежды. Методики оценки прочности (Đường ô tô công dụng chung. Áo đường mềm. Phương pháp luận đánh giá cường độ)

ГОСТ Р 70197.1 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси органоминеральные холодные с использованием вторичного асфальтобетона. Общие технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp hữu cơ-khoáng nguội có sử dụng bê tông nhựa tái chế. Điều kiện kỹ thuật chung)

ГОСТ Р 70452 Дороги автомобильные общего пользования. Грунты стабилизированные и укрепленные неорганическими вяжущими. Общие технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Đất được ổn định và gia cố bằng chất kết dính vô cơ. Điều kiện kỹ thuật chung)

ГОСТ Р 70453 Дороги автомобильные общего пользования. Грунты, укрепленные органическими вяжущими. Общие технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Đất được gia cố bằng chất kết dính hữu cơ. Điều kiện kỹ thuật chung)

ГОСТ P 70454 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси щебеночно-гравийно-песчаные, обработанные органическими вяжущими. Общие технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp cấp phối sỏi-cát-đá dăm được xử lý bằng chất kết dính hữu cơ. Điều kiện kỹ thuật chung)

ГОСТ P 70455 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси щебеночно-гравийно-песчаные, обработанные неорганическими вяжущими. Общие технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp cấp phối sỏi-cát-đá dăm được xử lý bằng chất kết dính vô cơ. Điều kiện kỹ thuật chung)

ГОСТ P 70458 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси щебеночно-гравийно-песчаные. Общие технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp cấp phối sỏi-cát-đá dăm. Điều kiện kỹ thuật chung)

ГОСТ Р 71009 Дороги автомобильные общего пользования. Материалы вяжущие нефтяные битумные. Правила выбора марок (Đường ô tô công dụng chung. Vật liệu kết dính bitum dầu mỏ. Quy tắc lựa chọn mác)

ГОСТ Р 71244-2024 Дороги автомобильные с низкой интенсивностью движения. Дорожная одежда. Конструирование и расчет (Đường ô tô có cường độ xe chạy thấp. Áo đường. Cấu tạo và tính toán)

ГОСТ Р 71329 Дороги автомобильные общего пользования. Смеси песчано-гравийные. Общие технические условия (Đường ô tô công dụng chung. Hỗn hợp cấp phối cát-sỏi. Điều kiện kỹ thuật chung)

ГОСТ Р 71405-2024 Дороги автомобильные общего пользования. Проектирование дорожных одежд. Методика расчета коэффициентов приведения транспортных средств к расчетной осевой нагрузке (Đường ô tô công dụng chung. Thiết kế áo đường. Phương pháp luận tính toán hệ số quy đổi các phương tiện giao thông về tải trọng trục tính toán)

СП 22.13330 "СНиП 2.02.01-83* Основания зданий и сооружений" (Quy chuẩn xây dựng 22.13330 "SNiP 2.02.01-83* Nền móng nhà và công trình")

СП 42.13330.2016 "СНиП 2.07.01-89* Градостроительство. Планировка и застройка городских и сельских поселений" (Quy chuẩn xây dựng 42.13330.2016 "SNiP 2.07.01-89* Quy hoạch đô thị. Lập quy hoạch và xây dựng các khu dân cư đô thị và nông thôn")

СП 396.1325800.2018 Улицы и дороги населенных пунктов. Правила градостроительного проектирования (Quy chuẩn xây dựng 396.1325800.2018 Phố và đường trong khu dân cư. Quy tắc thiết kế quy hoạch đô thị)

СП 508.1325800 Мощение с применением бетонных вибропрессованных изделий. Правила проектирования, строительства и эксплуатации (Quy chuẩn xây dựng 508.1325800 Lát vỉa hè bằng các sản phẩm bê tông đúc rung. Quy tắc thiết kế, thi công và khai thác)

Ghi chú - Khi sử dụng tiêu chuẩn này, nên kiểm tra hiệu lực của các tiêu chuẩn (quy chuẩn) được viện dẫn trong hệ thống thông tin công cộng trên trang web chính thức của Cơ quan Liên bang về Điều chỉnh Kỹ thuật và Đo lường trên mạng Internet hoặc theo chỉ mục thông tin hàng năm "Tiêu chuẩn Quốc gia", được công bố tính đến ngày 1 tháng 1 của năm hiện tại, và theo các số phát hành hàng tháng của chỉ mục thông tin "Tiêu chuẩn Quốc gia" cho năm hiện tại.

Nếu tài liệu viện dẫn không ghi ngày tháng đã bị thay thế, thì khuyến nghị sử dụng phiên bản hiện hành của tài liệu đó, có tính đến tất cả các thay đổi đã được thực hiện đối với phiên bản này.

Nếu tài liệu viện dẫn có ghi ngày tháng đã bị thay thế, thì khuyến nghị sử dụng phiên bản của tài liệu đó với năm phê duyệt (ban hành) đã được nêu trên.

Nếu sau khi phê duyệt tiêu chuẩn này, tài liệu viện dẫn có ghi ngày tháng được sửa đổi, và sửa đổi đó ảnh hưởng đến điều khoản được viện dẫn, thì khuyến nghị áp dụng điều khoản đó mà không tính đến sửa đổi này.

Nếu tài liệu viện dẫn bị hủy bỏ mà không có tài liệu thay thế, thì điều khoản có viện dẫn đến nó được khuyến nghị áp dụng trong phần không bị ảnh hưởng bởi viện dẫn đó.

Thông tin về hiệu lực của các quy chuẩn xây dựng nên được kiểm tra trong Quỹ Thông tin Tiêu chuẩn Liên bang.

3. Thuật ngữ và Định nghĩa (Термины и определения)

Trong tiêu chuẩn này, áp dụng các thuật ngữ theo GOST 32960, GOST 33100, GOST 33063, GOST 33382, GOST R 58400.2, GOST R 58422.1, GOST R 58818, GOST R 58861, GOST R 59120, GOST R 71405, cũng như các thuật ngữ sau đây với các định nghĩa tương ứng: 

3.1 lớp bù vênh/lớp san phẳng (выравнивающий слой): Lớp có chiều dày thay đổi, được thi công trên lớp móng hoặc lớp mặt hiện hữu, kể cả sau khi phay bóc, nhằm đạt được các thông số hình học, công nghệ và khai thác của các lớp mới được thi công bên trên, không phải là lớp kết cấu và không được tính đến trong các tính toán về cường độ và ổn định băng giá. 

3.2 độ tin cậy của áo đường (надежность дорожной одежды): Chỉ tiêu tổng hợp về khả năng của toàn bộ kết cấu đường trong việc duy trì các đặc tính khai thác đã định (độ bằng phẳng, cường độ, độ nhám) trong suốt tuổi thọ tính toán, được đặc trưng bởi hệ số độ tin cậy. 

3.3 tải trọng trục tiêu chuẩn (нормативная осевая нагрузка): Toàn bộ tải trọng từ trục chịu tải lớn nhất của một xe hai trục giả định, mà tất cả các xe có tải trọng trục khác nhau được quy đổi về, được các tài liệu quy phạm thiết lập cho áo đường với một cấp đường nhất định và được sử dụng để xác định tải trọng tính toán khi tính toán cường độ áo đường. 

3.4 tải trọng trục tính toán (расчетная осевая нагрузка): Tải trọng tối đa vượt quá tải trọng tiêu chuẩn trên trục chịu tải lớn nhất đối với xe hai trục hoặc trên trục quy đổi đối với xe nhiều trục, mà tỷ lệ của chúng trong thành phần dòng xe, có tính đến sự thay đổi trong tương lai vào cuối kỳ hạn sửa chữa, chiếm không dưới 5%. 

Ghi chú

Trong trường hợp không có loại tải trọng như vậy, tải trọng tiêu chuẩn sẽ được lấy làm tải trọng tính toán. 

Áo đường với một cấp đường nhất định không thể được tính toán với tải trọng trục tính toán nhỏ hơn tải trọng tiêu chuẩn. 

3.5 độ ẩm tương đối của đất (относительная влажность грунта): Tỷ số giữa độ ẩm tự nhiên và độ ẩm ở giới hạn chảy. 

3.6 vật liệu ít dính (малосвязные материалы): Các vật liệu (cát và hỗn hợp cát-sỏi), mà các lớp kết cấu làm từ chúng được tính toán cường độ theo điều kiện ổn định trượt. 

3.7 lớp liền khối (монолитный слой): Lớp kết cấu của áo đường, được thi công từ đất hoặc vật liệu khoáng đã được xử lý bằng chất kết dính, từ hỗn hợp hữu cơ-khoáng và bê tông nhựa, hoặc là phần trên của lớp nền đất thi công từ đất được xử lý bằng chất kết dính. 

Ghi chú - Các lớp kết cấu của áo đường hoặc phần trên của lớp nền đất, được thi công từ đất ổn định, không được xếp vào loại lớp liền khối. 

3.8 mặt đường cấp cao của áo đường mềm (усовершенствованное покрытие нежестких дорожных одежд): Loại mặt đường dành cho các loại áo đường cấp cao và cấp thấp, mà các lớp của nó được làm từ các vật liệu chứa chất kết dính hữu cơ.

4. Các chữ viết tắt (Сокращения)

Trong tiêu chuẩn này, sử dụng các chữ viết tắt sau đây:

АПВГК (APVGK) - автоматический пункт весового и габаритного контроля (Trạm kiểm soát tải trọng và kích thước tự động).

БНД (BND) - битум нефтяной дорожный вязкий (Bitum dầu mỏ dạng dẻo dùng cho đường bộ).

ВСО (VSO) - верхний слой основания (Lớp móng trên).

ВСП (VSP) - верхний слой покрытия (Lớp mặt trên).

ГПС (GPS) - гравийно-песчаная смесь (Hỗn hợp sỏi-cát).

ДКЗ (DKZ) - дорожно-климатическая зона (Vùng điều kiện khí hậu - đường bộ).

НДС (NDS) - напряженно-деформированное состояние (Trạng thái ứng suất-biến dạng).

НМР (NMR) - номинально максимальный размер минерального заполнителя асфальтобетона (Kích thước danh nghĩa lớn nhất của cốt liệu khoáng trong bê tông nhựa).

НСП (NSP) - нижний слой покрытия (Lớp mặt dưới).

ОМС (OMS) - органоминеральная смесь (Hỗn hợp hữu cơ-khoáng).

ПБВ (PBV) - полимерно-битумное вяжущее (Chất kết dính polyme-bitum).

ПГС (PGS) - песчано-гравийная смесь (Hỗn hợp cát-sỏi).

УГВ (UGV) - уровень грунтовых вод (Mực nước ngầm).

УПВ (UPV) - уровень поверхностных вод (Mực nước mặt).

ЩГПС (ShchGPS) - щебеночно-гравийно-песчаная смесь (Hỗn hợp cấp phối sỏi-cát-đá dăm).

ЩМА (ShchMA) - щебеночно-мастичный асфальтобетон (Bê tông nhựa đá dăm-mastic).

ЩПС (ShchPS) - щебеночно-песчаная смесь (Hỗn hợp cấp phối đá dăm-cát).

SP - асфальтобетон, запроектированный по системе объемно-функционального проектирования в соответствии с ГОСТ Р 58401.1 (Bê tông nhựa được thiết kế theo hệ thống thiết kế thể tích-chức năng phù hợp với GOST R 58401.1).

SMA - щебеночно-мастичный асфальтобетон, запроектированный по системе объемно-функционального проектирования в соответствии с ГОСТ Р 58401.2 (Bê tông nhựa đá dăm-mastic, được thiết kế theo hệ thống thiết kế thể tích-chức năng phù hợp với GOST R 58401.2).

5. Các quy định chung (Общие положения)

5.1 Áo đường mềm bao gồm các loại áo đường có các lớp được thi công từ bê tông nhựa các loại, từ các vật liệu và đất được gia cố bằng chất kết dính hữu cơ, vô cơ và phức hợp, cũng như từ các vật liệu hạt (CPĐD, CPsđd, Hsh, Hcs, cát, đá dăm, sỏi, v.v.). Việc phân loại áo đường được thực hiện theo GOST R 59120.

5.2 Kết cấu áo đường, tổng chiều dày và chiều dày của từng lớp riêng biệt, cũng như các vật liệu được sử dụng phải đảm bảo các yêu cầu về độ tin cậy khai thác, được quy định bởi tiêu chuẩn này và GOST R 59120, trong phạm vi chu kỳ sửa chữa theo định mức, được quy định bởi GOST R 58861.

5.3 Áo đường được thiết kế không chỉ phải đảm bảo độ bền và độ tin cậy trong khai thác, mà còn phải kinh tế và ít tốn vật liệu nhất, đặc biệt là về việc tiêu thụ các vật liệu và tài nguyên năng lượng đắt tiền, đồng thời phải tuân thủ các yêu cầu về môi trường. Việc lựa chọn kết cấu áo đường được chứng minh bằng kết quả so sánh kinh tế - kỹ thuật của các phương án.

5.4 Việc lựa chọn và chỉ định vật liệu cho các lớp kết cấu của áo đường cần được thực hiện dựa trên kết quả phân tích nguồn nguyên liệu của khu vực xây dựng, công suất, chủng loại và khối lượng vật liệu thứ cấp thu được từ việc dỡ bỏ áo đường hiện hữu (khi tái thiết, sửa chữa lớn, sửa chữa vừa và duy tu, bảo dưỡng đường ô tô). Việc bố trí các lớp kết cấu trong kết cấu áo đường được thực hiện phù hợp với mục đích chức năng của chúng theo GOST R 59120-2021 (khoản 5.4.1) và điều kiện địa chất-thủy văn của nền đất.

5.5 Thiết kế áo đường là một quá trình thống nhất bao gồm việc cấu tạo và tính toán áo đường cùng lớp đất nền đường về cường độ, ổn định băng giá và thoát nước, với sự chứng minh kinh tế - kỹ thuật của các phương án. Thiết kế áo đường bao gồm các giai đoạn thực hiện tuần tự sau đây:

Cấu tạo - chỉ định sơ bộ các kết cấu áo đường.

Tính toán - kiểm tra các kết cấu áo đường đã được chỉ định sơ bộ về cường độ (theo võng đàn hồi cho phép, ổn định trượt của lớp đất nền đường và các lớp kết cấu bằng vật liệu ít dính, khả năng chống phá hoại do mỏi từ kéo uốn của các lớp bê tông nhựa), ổn định băng giá và thoát nước.

Xây dựng mặt cắt ngang của kết cấu áo đường - bố trí các kết cấu áo đường trên mặt cắt ngang của nền đường tùy thuộc vào mục đích chức năng của chúng, các yêu cầu đối với các yếu tố hình học của mặt cắt ngang đường ô tô. Các mặt cắt ngang của đường ô tô các cấp khác nhau được trình bày trong Phụ lục A.

So sánh kinh tế - kỹ thuật các phương án áo đường, bao gồm việc lựa chọn phương án hợp lý nhất có tính đến chi phí xây dựng và khai thác quy đổi cho đến lần sửa chữa lớn tiếp theo, được xác định theo GOST 33100, các tài liệu quy phạm và tài liệu kỹ thuật hiện hành trong lĩnh vực này. Khi tính toán chi phí xây dựng các phương án kết cấu áo đường, cần phải tính đến tất cả các chi phí liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thi công chúng, bao gồm cả việc bồi thường thiệt hại gây ra cho đường ô tô công dụng chung bởi các phương tiện có khối lượng tối đa cho phép trên 12 tấn, việc xử lý các vật liệu thứ cấp không sử dụng từ việc dỡ bỏ áo đường hiện hữu, v.v.. Việc so sánh kinh tế - kỹ thuật các phương án được thực hiện đối với các mặt cắt ngang của kết cấu áo đường, bao gồm cả các giải pháp kết cấu liên quan đến việc đảm bảo các yêu cầu về đặc tính cơ lý của lớp đất nền đường, thoát nước cho áo đường, gia cố lề đường, v.v.. Số lượng các phương án so sánh phải không ít hơn ba.

5.6 Việc tính toán áo đường được thực hiện cho các đoạn đường đồng nhất, có:

cùng một loại nền đường (nền đắp, nền không đắp không đào hoặc nền đào);

điều kiện địa chất-thủy văn tương tự (cùng một loại đất và một sơ đồ ẩm của đất nền đường);

cường độ xe quy đổi gần giống nhau (chênh lệch không quá 10%).

5.7 Áo đường theo chiều rộng phần xe chạy thường được thiết kế có cường độ bằng nhau, đồng thời cần xem xét các quy định tại mục 7.2.1.

5.8 Khi thiết kế áo đường cho các công trình cụ thể hoặc khi xây dựng các kết cấu áo đường điển hình, bên cạnh các quy định của tiêu chuẩn này, cần phải tính đến các dữ liệu từ kinh nghiệm khoa học-thực tiễn [bao gồm cả việc sử dụng các vật liệu địa phương có chất lượng yêu cầu (nếu có), làm rõ các đặc tính tính toán của chúng, v.v.], được phản ánh trong các tài liệu đã được phê duyệt theo quy định.

5.9 Áo đường loại quá độ và cấp thấp trên các tuyến đường ô tô có cường độ xe chạy thấp được cấu tạo và tính toán theo GOST R 58818 và GOST R 71244. Khi cấu tạo và tính toán áo đường loại cấp cao và cấp thấp trên các tuyến đường có cường độ xe chạy thấp, cần tuân thủ tiêu chuẩn này có tính đến các yêu cầu của GOST R 58818. Các cấp đường có cường độ xe chạy thấp loại cấp cao và cấp thấp IVA- , IVB-р, IVA-п, IVB-п sau đây được ký hiệu là IV; VA - là V.

6. Cấu tạo áo đường (Конструирование дорожных одежд)

6.1 Nhiệm vụ của việc cấu tạo áo đường 

Nhiệm vụ của việc cấu tạo áo đường là: 

chứng minh các loại áo đường và loại mặt đường; 

xác định số lượng các lớp kết cấu và lựa chọn vật liệu để thi công, bố trí chúng trong kết cấu theo một trình tự sao cho, có tính đến sự thay đổi của trạng thái ứng suất-biến dạng do tải trọng bánh xe, các điều kiện khí hậu và địa chất-thủy văn, các đặc tính về cường độ, biến dạng và cách nhiệt của chúng được thể hiện một cách tốt nhất; 

xác định chiều dày các lớp (chiều dày tối thiểu, tối đa và bước lặp để lựa chọn); 

xác định các biện pháp đảm bảo ổn định băng giá cho kết cấu đường có tính đến vùng điều kiện khí hậu - đường bộ (ДКЗ), loại đất của lớp nền đất và sơ đồ ẩm của nó tại các đoạn khác nhau; 

xác định các biện pháp thoát nước cho áo đường và giảm lượng nước chảy vào. 

6.2 Việc cấu tạo áo đường được tiến hành, có tính đến các yếu tố sau: 

cấp đường; 

số làn xe; 

cường độ và thành phần dòng xe (khi cần thiết phải tính đến cường độ trên các làn riêng biệt và có số liệu đo đếm thực tế theo làn); 

vùng và phân vùng điều kiện khí hậu - đường bộ (ДКЗ); 

loại đất của lớp nền đất; 

sơ đồ ẩm của đất nền đất; 

sự sẵn có và chất lượng của vật liệu xây dựng đường; 

khả năng tăng cường áo đường theo giai đoạn bằng cách thi công các lớp mặt mới bên trên khi cường độ xe tăng; 

sự sẵn có của các cơ sở sản xuất, máy móc và thiết bị xây dựng đường. 

6.3 Khi cấu tạo áo đường cần tuân thủ những điều sau: 

loại áo đường và loại mặt đường phải đáp ứng các yêu cầu vận tải-khai thác đối với đường ô tô cấp tương ứng, tùy thuộc vào thành phần và cường độ xe dự kiến có tính đến sự thay đổi của chúng trong suốt chu kỳ sửa chữa đã được chấp nhận của áo đường theo GOST R 58861; 

kết cấu áo đường có thể được tái sử dụng (điển hình) hoặc được xây dựng riêng cho từng đoạn hoặc một loạt các đoạn đường, có đặc điểm điều kiện tự nhiên tương tự (đất nền đất, điều kiện ẩm, khí hậu, sự sẵn có của vật liệu địa phương, v.v.) và tải trọng tính toán. Khi lựa chọn kết cấu cho các điều kiện đã cho, nên ưu tiên cho kết cấu đã được kiểm nghiệm trong thực tế; 

ở những khu vực không có đủ vật liệu khoáng tiêu chuẩn, cho phép sử dụng vật liệu khoáng địa phương (nếu có), các sản phẩm phụ công nghiệp và đất. Vật liệu khoáng địa phương, sản phẩm phụ công nghiệp và đất khi cần thiết có thể được cải thiện bằng cách xử lý chúng với các chất kết dính (xi măng, bitum, vôi, tro bay hoạt tính, v.v.); 

kết cấu áo đường phải có tính công nghệ cao và đảm bảo khả năng cơ giới hóa và công nghiệp hóa tối đa các quy trình xây dựng đường. Để đạt được mục tiêu này, số lượng lớp và loại vật liệu trong kết cấu phải là tối thiểu; 

cần tính đến các điều kiện thực tế của công tác xây dựng (công nghệ mùa hè hoặc mùa đông, v.v.). 

Các chỉ dẫn về việc chỉ định các loại áo đường cho các cấp đường tương ứng được nêu trong GOST R 59120. 

6.4 Các lớp kết cấu của áo đường theo mục đích chức năng và chiều dày tối thiểu của chúng ở trạng thái đầm nén được lấy theo GOST R 59120. Chiều dày của một lớp kết cấu riêng biệt làm từ vật liệu đá được xử lý bằng chất kết dính, cũng như từ các hỗn hợp hữu cơ-khoáng nguội, được khuyến nghị lấy không nhỏ hơn 12 cm. Chiều dày của một lớp kết cấu riêng biệt làm từ cát được khuyến nghị lấy không nhỏ hơn 20 cm. 

6.5 Lớp hao mòn trực tiếp chịu tác động của bánh xe ô tô và các yếu tố thời tiết-khí hậu và đảm bảo các phẩm chất vận tải-khai thác yêu cầu của mặt đường. Chức năng của lớp hao mòn có thể do các lớp bảo vệ từ các vật liệu khác nhau hoặc lớp mặt trên (ВСП) đảm nhiệm (khi không có lớp bảo vệ). 

Chiều dày của lớp bảo vệ được chỉ định tùy thuộc vào vật liệu sử dụng, công nghệ thi công và không được tính đến trong tính toán cường độ và ổn định băng giá. Các vật liệu (công nghệ) được khuyến nghị để thi công các lớp bảo vệ và lớp hao mòn được nêu trong GOST R 58422.1. 

Trong trường hợp lớp mặt trên (ВСП) thực hiện chức năng của lớp hao mòn, khi chỉ định chiều dày ВСП cần hướng tới chiều dày tối thiểu cho phép theo GOST R 59120. Khi tính toán áo đường về cường độ và ổn định băng giá, chiều dày ВСП, được lấy có tính đến các yêu cầu về chiều dày tối thiểu của lớp theo GOST R 59120, phải được giảm đi một lượng bằng độ sâu tối đa cho phép của vệt bánh xe theo GOST R 50597. Khi có sự đồng ý của chủ đầu tư và có kinh nghiệm tích cực tại khu vực xây dựng trên các tuyến đường cấp IV, cho phép thực hiện tính toán áo đường về cường độ và ổn định băng giá mà không cần giảm chiều dày ВСП. 

Chu kỳ thực hiện các công tác phục hồi lớp hao mòn từ các vật liệu khác nhau được thiết lập theo GOST R 58861. 

6.6 Khi cấu tạo áo đường cần lưu ý rằng quá trình biến dạng và các đặc tính cường độ của vật liệu chứa chất kết dính hữu cơ, quyết định các tính chất đàn hồi-nhớt-dẻo của hỗn hợp, phụ thuộc đáng kể vào nhiệt độ và chế độ tải trọng (tốc độ thay đổi và thời gian tác dụng của tải trọng), trong khi các đặc tính của vật liệu hạt (đá dăm, sỏi và các loại tương tự), cũng như các vật liệu và đất được gia cố bằng chất kết dính vô cơ, ít phụ thuộc vào nhiệt độ và chế độ tải trọng. 

6.7 Các vật liệu trong áo đường được khuyến nghị bố trí sao cho mô đun đàn hồi của vật liệu lớp kết cấu bên trên cao hơn mô đun đàn hồi chung trên bề mặt của lớp bên dưới. Việc cấu tạo áo đường với các lớp bằng vật liệu hạt không gia cố (CPĐD, CPsđd, Hsh, Hcs, cát, đá dăm, v.v.) và đất không gia cố của lớp nền đất được khuyến nghị thực hiện sao cho mô đun đàn hồi của lớp vật liệu hạt trên cùng không vượt quá mô đun đàn hồi chung trên bề mặt của kết cấu bên dưới quá năm lần. 

6.8 Không cho phép bố trí các lớp bằng vật liệu hạt không gia cố giữa các lớp móng hoặc mặt liền khối. Cho phép thi công các lớp bằng vật liệu hạt không gia cố trên lớp đất nền mà phần trên của nó được gia cố bằng chất kết dính. 

6.9 Trong kết cấu áo đường, tại vị trí tiếp xúc của các lớp kết cấu bằng vật liệu hạt không gia cố (CPĐD, CPsđd, Hsh, Hcs, đá dăm, v.v.) với các lớp kết cấu bằng cát hoặc với đất nền, khuyến nghị dự kiến gia cường lớp móng hạt bằng vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp theo GOST R 56338, mà hiệu quả sử dụng của chúng phải được xác nhận bằng các tính toán tương ứng. 

Khi sử dụng vật liệu hạt không gia cố (CPĐD, CPsđd, Hsh, Hcs, đá dăm, v.v.) để loại trừ sự xâm nhập lẫn nhau và trộn lẫn vật liệu tại vị trí tiếp xúc của các lớp này với các lớp kết cấu bằng cát hoặc với đất nền, khuyến nghị sử dụng vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp theo GOST R 56419 hoặc GOST R 56338 với cường độ ban đầu khi kéo lên đến 30 kN/m. 

Tại vị trí tiếp xúc của lớp cát với đất nền không thoát nước, khuyến nghị sử dụng vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp theo GOST R 56419 để loại trừ sự xâm nhập lẫn nhau và trộn lẫn vật liệu. Đồng thời, khuyến nghị dự kiến phần vải địa kỹ thuật phân cách được chừa ra với chiều rộng không nhỏ hơn 0,3 m so với các lớp bên trên ở mỗi bên. 

Để nâng cao khả năng chống nứt của các lớp bê tông nhựa, có thể dự kiến các lớp xen kẽ chống nứt đặc biệt làm từ các vật liệu khác nhau, bao gồm vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp theo GOST R 55029 và lưới thép, mà hiệu quả của chúng đã được xác nhận bằng các tính toán tương ứng. 

6.10 Đối với lớp móng dưới bổ sung, sử dụng các vật liệu hạt: Hsh, Hcs, CPĐD, CPsđd, đá dăm, cát theo GOST 32824 với mô đun độ lớn không nhỏ hơn 1,31. Giá trị hệ số thấm được xác định theo dữ liệu thử nghiệm của cát sử dụng từ mỏ theo GOST 25584 hoặc Hcs theo GOST R 71329. Đồng thời, lớp thoát nước, hoạt động theo nguyên tắc thoát nước, cần được thi công từ cát và các vật liệu rỗng khác có hệ số thấm không nhỏ hơn 2 m/ngày đêm, theo nguyên tắc thấm và trữ - không nhỏ hơn 1 m/ngày đêm. 

Cho phép thi công lớp móng dưới bổ sung thực hiện chức năng lớp chống băng giá từ cát, đá dăm, Hsh, Hcs, CPĐD và CPsđd, các vật liệu được xử lý bằng chất kết dính, đất được gia cố bằng chất kết dính. 

6.11 Cấu tạo các lớp mặt và móng của áo đường loại cấp cao và cấp thấp 

6.11.1 Các lớp kết cấu áo đường bằng bê tông nhựa 

Để thi công các lớp bê tông nhựa của áo đường loại cấp cao và cấp thấp, sử dụng các vật liệu sau: 

SMA theo GOST R 58401.2 và ЩМА theo GOST R 58406.1; 

bê tông nhựa theo GOST R 58401.1 và GOST R 58406.2. 

Trên các tuyến đường ô tô cấp I - III, ở lớp mặt trên (ВСП) khuyến nghị sử dụng SMA hoặc ЩМА. Phương pháp luận và ví dụ xác định điều kiện giao thông khi chỉ định loại hỗn hợp bê tông nhựa được trình bày trong Phụ lục B. 

Khi cấu tạo các lớp bằng bê tông nhựa, khuyến nghị hướng tới chiều dày tối thiểu cho phép. Khi cấu tạo, cho phép dự kiến các lớp bê tông nhựa bên dưới rộng hơn các lớp bên trên có tính đến các yếu tố khác nhau (chiều dày lớp, công nghệ rải, v.v.). 

Khi chỉ định các chỉ tiêu bổ sung của bê tông nhựa (cấp bê tông nhựa theo độ mài mòn cho ВСП theo GOST R 58406.5, v.v.), các chỉ tiêu được thiết lập tùy thuộc vào điều kiện giao thông theo các yêu cầu của tài liệu quy phạm hiện hành và được ghi rõ trong hồ sơ thiết kế.

- Ks. Mai Triệu Quang -

FBK. Nguyễn Chương-Mt: ĐỌC SỬ CHO KỸ

 ĐỌC SỬ CHO KỸ

Bài của FBK Nguyễn Chương-Mt 

* Tên gọi "VIETNAM" không xuất hiện trong văn kiện của Đồng Minh phân công ủy nhiệm quản trị sau khi đánh bại quân phiệt Nhựt Bổn (1945). Vì sao? Lãnh thổ lúc bấy giờ được gọi ra sao?

/1/ Trong cuốn “Nội các Trần Trọng Kim, bản chất, vai trò và vị trí lịch sử” (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009), tác giả Phạm Hồng Tung đã có sự thừa nhận khách quan: 

"Thực tế không ở đâu trên toàn quốc, Việt Minh giành chính quyền từ Nhật hoặc bắt Nhật giao chính quyền. Thực tế Việt Minh giành chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim."

* "Nhựt Bổn tuyên bố đầu hàng", tại... VN? Không phải. Ngày 15/8/1945, trên đất Nhựt Bổn, Nhựt hoàng Hirohito tuyên bố đầu hàng Đồng Minh (sau đó có lễ ký chánh thức đầu hàng vô điều kiện vào 2/9/1945 trên chiến hạm USS Missouri tại Vịnh Tokyo). 

Ngoài ra, còn có lễ ký đầu hàng diễn ra tại Trung Hoa ngày 9/9/1945. Nhựt Bổn đầu hàng ... quân đội Mao Trạch Đông? Không. Nhựt Bổn, đại diện là tướng Okamura Yasuji, ký đầu hàng trước quân đội Trung Hoa dân quốc (ROC), đại diện là tướng Hà Ứng Khâm. 

Về sau, năm 1949, quân đội của Mao Trạch Đông giành chính quyền từ tay chính phủ Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch. 

/2/ Theo Tuyên bố Postdam (tháng 7/1945), Đồng Minh dự liệu về phương cách giải giáp quân đội Nhựt Bổn một khi Nhựt đầu hàng, phân công ủy nhiệm quản trị đối với "Indochina" (Đông Dương), chú ý, tại "Parallel 16 of Indochina"!

(Phía nam vĩ tuyến 16 trở vào, ủy nhiệm cho Anh quản trị; phía bắc vĩ tuyến 16 trở ra, ủy nhiệm cho Trung Hoa dân quốc quản trị)

2a) Trước hết, xin nói ngay. Có ý kiến... buồn cười như sau: VN đâu rước Đồng Minh mà họ ỷ mạnh họ vào (!). Ngờ nghệch về lịch sử quá sức! Bấy giờ là chiến tranh toàn thế giới thứ II giữa phe Đồng Minh (Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp...) và phe Trục (Đức, Ý, Nhựt). Ở châu Á, Đồng Minh giải giáp quân Nhựt tại nước Nhựt và tại những vùng lãnh thổ mà Nhựt chiếm đóng. 

Lãnh thổ nào không có Nhựt, đâu mắc gì phải vào giải giáp? Còn ở VN, Nhựt chiếm đóng, thành thử Đồng Minh phải vào giải giáp! 

2b) Quí vị chú ý: Trong Tuyên bố Postdam (Potsdam Declaration), uỷ nhiệm quản trị tại "Parallel 16 of Indochina" (vĩ tuyến 16 đi ngang qua Đà Nẵng), quân Anh vào phía nam, đặt thủ phủ tại "Saigon, capital of Cochinchina", quân Trung Hoa vào phía bắc, đặt thủ phủ tại "Hanoi, capital of Tonkin". 

Sao không gọi "Vietnam"? Thủng thẳng đọc dưới đây:

2b.1) Người Pháp, phương Tây gọi "Cochinchina", "Tonkin". Bản đồ đất nước chúng ta, trước tháng 3/1945, đâu có lấy tên chung là "Vietnam"?

2b.2) Nhà Nguyễn bấy giờ, trước tháng 3/1945, gọi tên nước là "Đại Nam" (người Pháp còn gọi là "Annam").

2b.3) Tháng 3/1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, và nhà Nguyễn  chánh thức kết thúc sau khi khi vua Bảo Đại tuyên cáo thành lập nước mang tên "Việt Nam đế quốc" (không còn gọi Đại Nam theo các vị tiên đế của nhà Nguyễn). 

Hai chữ "VIET NAM" xuất hiện kể từ tháng 3/1945 (thời vua Gia Long đặt tên nước là "Việt Nam" đầu thế kỷ 19, rồi sau đó kể từ đời vua thứ nhì của nhà Nguyễn là vua Minh Mạng trở đi, tên nước là Đại Nam). 

Vậy, vì sao "Tuyên bố Postdam" (tháng 7/1945) không dùng hai chữ "Vietnam" xuất hiện trước đó vài tháng (tháng 3/1945)?

/3/Tuyên bố Postdam, đáng chú ý, đó là: 

- Trao trả CHỦ QUYỀN ngay lập tức cho những thể chế của quốc gia bổn xứ từng tồn tại TRƯỚC THỜI ĐIỂM bị Nhựt chiếm đóng; 

- Đối với những thể chế, chính phủ bổn xứ thành lập SAU THỜI ĐIỂM quân Nhựt đã chiếm đóng hoặc từng chiếm đóng, Đồng Minh xem xét nhân sự, bàn thảo, đồng thuận để tái cấu trúc một chính phủ bổn xứ, sau đó giao cho chính phủ đó thủ đắc chủ quyền lãnh thổ. 

3a) Như chính phủ Trung Hoa dân quốc (ROC) tồn tại TRƯỚC KHI quân Nhựt xâm lược, chiếm đóng. Do đó, sau khi Nhựt đầu hàng, chính phủ ROC đã thủ đắc chủ quyền (mà không phải trải qua giai đoạn ủy nhiệm). 

3b) Đối với thể chế, chính phủ thành lập sau khi quân Nhựt vào chiếm đóng - chú ý - Đồng Minh không phán quyết chính phủ đó là bù nhìn, tay sai hoặc độc lập, mà cần thiết phải qua giai đoạn xem xét, bàn bạc, tái cấu trúc!

Quí bạn xem trường hợp "bán đảo củ sâm" sẽ tỏ. 

Bán đảo Cao Ly phân thành hai vùng ủy nhiệm: phía bắc vĩ tuyến 38 do Liên Xô cai quản, phía nam vĩ tuyến 38 do Mỹ điều hành. 

Lúc bấy giờ, một Ủy ban Cứu quốc đã hoạt động ráo riết, bắt đầu từ tháng 8 năm 1945, sau đó tại Hán Thành (Seoul) vào ngày 12/9/1945 long trọng tuyên bố ra đời quốc gia mang tên "Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên". Chủ tịch là ông Lee Sung Man (Lý Thừa Vãn). 

NHƯNG, Mỹ - quốc gia được Đồng Minh ủy nhiệm việc điều hành phía nam vĩ tuyến 38 - đã không vội thừa nhận chính phủ của ông Lý Thừa Vãn. 

Bởi chính phủ này cũng như "Cộng hòa nhân dân Triều Tiên" không phải là chính phủ hoặc thể chế từng tồn tại trước khi bị Nhựt chiếm đóng. 

Để rồi, ông Lý Thừa Vãn đã có những cuộc tiếp xúc, dàn xếp, tái cấu trúc chính phủ. Vài năm sau, ngày 15/8/1948, "Đại Hàn dân quốc" chính thức ra đời mà Tổng thống đầu tiên của Đại Hàn, không ai khác, cũng chính là Lý Thừa Vãn! 

/4/ Trở lại với câu chuyện lịch sử nước nhà. 

4a) Chính phủ của nhà vua Bảo Đại, Trần Trọng Kim thành hình sau khi Nhựt chiếm đóng, chưa qua sự "kiểm nghiệm", tái cấu trúc của Đồng Minh nên Đồng Minh không vội thừa nhận. Tên gọi "Việt Nam" mà chính phủ này xướng danh (bắt đầu trong tháng 3/1945) cũng chưa thể chánh thức được thừa nhận, gọi tên. 

Thành thử Tuyên bố Postdam dùng những cách gọi mà phương Tây quen gọi trước đó như "Indochina", "Cochinchine", "Tonkin" (một khi có chính phủ bổn xứ, được Đồng Minh đồng thuận, chính phủ bổn xứ đó có thẩm quyền đặt ra tên gọi chánh thức cho quốc gia).

4b) Chính phủ VNDCCH cũng vậy, theo (3b), phải có sự bàn bạc, dàn xếp với thành viên được Đồng Minh ủy nhiệm quản trị - là Pháp (ban đầu phân công cho Anh, Trung Hoa, rồi cả hai đều giao quyền ủy nhiệm lại cho Pháp). 

Quí bạn chú ý: Theo Thỏa thuận Postdam, suốt thời gian từ tháng 9 năm 1945 cho đến đầu năm 1950, Liên Xô không đặt bang giao thừa nhận chính phủ VNDCCH! Bởi vì việc thừa nhận chính phủ bổn xứ, lúc bấy giờ nằm ở thỏa thuận với thành viên được Đồng Minh ủy nhiệm là Pháp. 

NHƯNG, qua năm 1950, "Chiến tranh Lạnh" giữa Liên Xô và Mỹ bắt đầu nổ ra. Thành thử, những bàn luận lịch sử tiếp theo sau, thuộc về một vấn đề rộng hơn, phức tạp hơn, vượt quá khuôn khổ nội dung cần ghi chú ớ đây./.

-----------------------------------------------------

Hình dưới: Nhựt Bổn ký đầu hàng trước ROC. 

Hình trên: Chính phủ Cứu quốc của Lý Thừa Vãn ban đầu không được Mỹ thừa nhận; sau đó sắp xếp, tái cấu trúc và Mỹ thay mặt Đồng Minh trao trả chủ quyền cho chính phủ Lý Thừa Vãn của Đại Hàn dân quốc.


Đỗ Trí Hùng: TỰ DO … NGÔN LUẬN

 TỰ DO … NGÔN LUẬN

1 -  Chuyện về quả phát ngôn “sai thời điểm” của anh Trấn Thành, tút trước tôi nói rồi. Quần chúng là lực lượng tôn vinh anh thì quần chúng cũng là lực lượng … dìm anh xuống đó là thân phận của bất kỳ ông sao nào. Hãy cố làm đẹp lòng quần chúng nếu muốn mình thành… ông thánh, vì xét cho cùng, ông thánh nào cũng do quần chúng quyết định hết…

Có bạn bảo “ Trấn Thành có quyền tự do ngôn luận, quyền trình bày cảm xúc của mình…”

He he… trớ trêu là, quyền tự do ngôn luận bao gồm cả quyền “trình bày cảm xúc về cảm xúc của người khác”

Nghĩa là, Trấn Thành tự do trình bày cảm xúc của mình thì quần chúng cũng có quyền tự do trình bày cảm xúc về cái “cảm xúc” đó của Trấn Thành.

Tự do ngôn luận cơ mà, ơ hay!

Cho nên, có những “cảm xúc riêng tư”, với người khôn ngoan, họ sẽ “không trình bày trước đám đông”, đặc biệt là những tình cảm như “yêu ai, ghét ai….”

Thậm chí, tôi yêu vợ tôi, tôi cũng nên giấu kín, chứ cứ chia sẻ lung tung ra chốn công cộng, thì người cảm thông sẽ ít thôi, bọn ném đá, bọn bêu riếu luôn đông hơn…

Hoặc nếu muốn chia sẻ cùng bạn bè thì cứ khoá mẹ chức năng “bình luận”  lại, cho an toàn, có phỏng bà con.

2 – Khi nào thì “quyền tự do ngôn luận” đi quá giới hạn và phạm luật?

À thì, có luật rồi đấy!

Bạn không thể nhân danh “tự do ngôn luận” để bịa tạc, bêu riếu, nói xấu tôi khiến tôi mất uy tín trước bạn bè, xa hơn, nếu tôi là giám đốc doanh nghiệp, tôi mất khách hàng, thậm chí phá sản vì những lời bịa tạc của bạn. Lúc này, tôi có thể kiện bạn được rồi.

Tương tự, bạn không thể “tự do ngôn luận” bịa tạc, bêu riếu, nói xấu … tổ quốc mình, đặc biệt các vị lãnh đạo cao cấp, nhằm làm mất uy tín đất nước và uy tín lãnh đạo…

Bạn vẫn có quyền phê bình, phê phán, góp ý, nhưng chớ có bêu riếu, xuyên tạc… 

Có bạn sẽ phản đối rằng “Bên Mỹ người ta chửi tổng thống thoải mái kia kìa”

Vâng, vì bên Mỹ có luật, bảo đảm cho bạn cái quyền chửi tổng thống mà không sao cả. Vậy, nếu bạn muốn mình được như nước Mỹ, bạn phải cố gắng đấu tranh cho cái “luật” đó ra đời đã…

Luật đó chưa có thì ráng chịu đi!

Thượng tôn pháp luật chính là chấp hành luật pháp hiện có. Luật chưa làm bạn thoả mãn thì bạn đấu tranh để luật tiến bộ hơn chứ bạn không có quyền vi phạm pháp luật.

3 –  Tút này tôi sẽ bàn về ý kiến của một bà tiến sĩ văn học, bà này thì danh tiếng khét mù giời, là thầy của rất nhiều trí thức bạn tôi, bà cũng lừng danh vì những quả phát ngôn trên chốn công cộng và tất nhiên, theo luật “tự do ngôn luận” bà cũng nhận vô vàn lý lẽ đáp trả xứng đáng…

Gần đây, bà phát biểu báo chí, cũng lên án anh kép Trấn Thành rất ghê, ok, anh ta đáng bị lên án.

Tuy nhiên từ việc lên án cá nhân một “anh kép cine” bà đưa đến những khái quát rất buồn cười, kiểu khái quát vội vàng nên dớ dẩn tào lao:

“… văn học nghệ thuật Việt Nam đang ở giai đoạn bứt phá, chuyển mình từ quy mô nhỏ lẻ sang hình thành ngành công nghiệp văn hóa…” 

Anh chị nhà thơ nhà văn nào quanh đây có thể chỉ được cho tôi ví dụ cụ thể ngành công nghiệp “mần thơ” hay “biên văn” nào có tên tuổi, kiểu công ty thơ hay xí nghiệp văn nào đang uy tín phát đạt, để tôi tham gia kiếm xèng với, có được không?

Đoạn khác, bà viết:

“Quy luật của thế giới là anh muốn vươn tới tầm vóc lớn lao thì trước hết phải vĩ đại trong dân tộc mình, chứ không thể chỉ hy vọng được tôn vinh ở nước ngoài. Chưa từng có nhà văn, nghệ sĩ nào không được ghi nhận trong dân tộc mình mà lại trở thành vĩ đại ở xứ người”

Luận điểm đanh thép này của bà thì quá ư vội vàng. Tôi liệt kê tạm vài cái tên mà nhiều người biết, rằng họ đã bị tống cút khỏi tổ quốc và thành danh ở nước ngoài:

- Cao Hành Kiện – sinh năm 1940 tại Giang Tây Trung Quốc, tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Bắc Kinh 1962. Trong cách mạng văn hoá bị đi cải tạo. Năm 1975 về làm biên kịch tại kịch viện nghệ thuật, kiêm dịch giả. Sang Pháp năm 1988 và … phắn luôn. Năm 2000 bố mày đoạt Nobel

- Milan Kundera – sinh 1923 ở Tiệp Khắc. Học nhạc từ nhỏ. Lớn lên theo học khoa văn và mỹ học đại học Praha. Năm 1948 là thành viên sáng lập đảng cộng sản Tiệp Khắc, năm 1950 bị khai trừ vì “chống lại” thứ mà mình … sáng lập ra. Sau sự kiện 1968, bố phắn sang Pháp và định cư luôn, từ đó ông chăm chú viết tiểu thuyết và trở thành nhà văn lớn nhất thời đại của ông, lớn đến mức, khi Tiệp Khắc đổi mới dân chủ hoá, chính quyền tổng thống Havel lại tha thiết mời ông quay về…

- Jozeph Brodsky - sinh 1940 tại Leningrad Liên xô, anh này thì quá lừng danh, vì khi còn ở trong tổ quốc mình anh đã được tống vào tù 5 năm vì tội “vô công rồi nghề và nói năng bậy bạ”. Năm 1972 anh phắn sang Mỹ và năm 1987 anh đoạt Nobel văn học.

Kể tên ba đại diện ở ba quốc gia "cộng sản" điển hình cho bà con tham khảo, chứ kể hết thì nhiều, vì còn cả các triết gia lớn, nhà soạn nhạc lớn trên thế giới đã thành danh, đã làm ra kiệt tác trong thời kỳ lưu vong.

Bà tiến sĩ khái quát “qui luật của thế giới”, thì lấy ví dụ của thế giới thôi!

4 – Ông K. Popper, triết gia khoa học rất nổi tiếng, cha đẻ của thuyết “phản qui nạp” có một ví dụ điển hình về sự qui nạp sai:

“Ta quan sát 100 con thiên nga màu trắng và ta đưa ra khái quát rằng, mọi con thiên nga đều màu trắng. Nhưng, con thiên nga 101 xuất hiện và nó màu đen, và thế là khái quát của ta bị đánh đổ”

Từ đó, ông đề xuất lý thuyết “phản qui nạp” tức thuyết “Kiểm – sai”

Quay về với bà tiến sĩ.

Đúng là, rất nhiều thành tựu văn học nghệ thuật vĩ đại sinh ra từ trong lòng dân tộc, nhưng cũng nhiều thành tựu vĩ đại không kém sinh ra từ những đứa … con hoang, bị tống cút, bị lưu đày…

Cho nên, khái quát tầm tiến sĩ, cụ thể là tiến sĩ văn học, mà cứ cực đoan một chiều, thì rất không xứng đáng!

Hay nói cách khác, trí thức nâng bi rất tốt, rất cần thiết, nhưng nâng bi cũng cần có tầm, có trình một tý. Nâng vớ nâng vẩn, làm… ô danh tiến sĩ và hổ thẹn cả những hòn bi!

- Đỗ Trí Hùng -