Thứ Hai, 6 tháng 10, 2025

KS. Ca Lê Quốc: NGÀNH SẢN XUẤT THÉP CHẤT LƯỢNG CAO VÀ NGÀNH CHẾ TẠO MÁY CÔNG CỤ Ở ĐÀI LOAN

NGÀNH SẢN XUẤT THÉP CHẤT LƯỢNG CAO VÀ NGÀNH CHẾ TẠO MÁY CÔNG CỤ Ở ĐÀI LOAN

1. Khái quát chung

Đài Loan – hòn đảo nhỏ nhưng có nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ bậc nhất châu Á – được xem là “con rồng công nghiệp” bên cạnh Hàn Quốc, Singapore và Hồng Kông. Trong cơ cấu công nghiệp Đài Loan, ngành sản xuất thép chất lượng cao và ngành chế tạo máy công cụ là hai trụ cột quan trọng, gắn bó mật thiết, tạo nên nền tảng cho sự phát triển của các lĩnh vực cơ khí chính xác, điện tử, ô tô và công nghiệp quốc phòng.

2. Ngành sản xuất thép chất lượng cao

Ngành thép Đài Loan bắt đầu từ thập niên 1950, nhưng thực sự cất cánh vào những năm 1970–1980 khi Tập đoàn China Steel Corporation (CSC) được thành lập. CSC trở thành “xương sống” của công nghiệp thép Đài Loan, với các nhà máy hiện đại tại Cao Hùng, Đài Trung và Đài Bắc.

Đài Loan tập trung phát triển thép đặc biệt và thép dụng cụ, phục vụ cho chế tạo khuôn mẫu, máy cắt gọt kim loại, và linh kiện cơ khí chính xác. Công nghệ luyện kim tiên tiến gồm: lò hồ quang điện (EAF) kết hợp tinh luyện VD, VOD, AOD; công nghệ đúc liên tục; kiểm tra khuyết tật bằng siêu âm (UT); hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001, ISO/TS 16949.

Nhờ đó, thép Đài Loan có độ tinh khiết cao, ít tạp chất, cơ tính ổn định – có thể cạnh tranh với thép Nhật Bản, Đức trong các lĩnh vực thép khuôn, thép trục, thép không gỉ và thép chịu nhiệt.

3. Ngành chế tạo máy công cụ Đài Loan

Từ thập niên 1990, Đài Loan nổi lên như một trong năm trung tâm sản xuất máy công cụ lớn nhất thế giới, cùng với Nhật Bản, Đức, Ý và Hàn Quốc. Thành phố Đài Trung được xem là “thủ phủ máy công cụ”, nơi tập trung hàng trăm doanh nghiệp sản xuất máy tiện, máy phay CNC, trung tâm gia công, máy EDM, và robot công nghiệp.

Đặc điểm nổi bật: tính chuyên môn hóa cao, liên kết chuỗi cung ứng chặt chẽ, công nghệ CNC tiên tiến (Fanuc, Siemens, Mitsubishi), hiệu quả kinh tế cao. Hướng đi mới: tự động hóa, tích hợp IoT và AI, phát triển trung tâm gia công 5 trục, in 3D kim loại, mài siêu chính xác.

4. Mối liên kết giữa hai ngành

Ngành thép chất lượng cao và máy công cụ tại Đài Loan hỗ trợ lẫn nhau: thép chất lượng cao cung cấp nguyên liệu cho linh kiện máy chính xác (trục chính, dao cụ, bánh răng); ngành máy công cụ tạo ra thiết bị để luyện, cán và gia công thép. Hai ngành tương hỗ, giúp Đài Loan duy trì vị thế nền công nghiệp cơ khí vững mạnh, dù tài nguyên hạn chế.

5. Vai trò trong nền kinh tế

Hai ngành này đóng góp hơn 15% GDP công nghiệp của Đài Loan, xuất khẩu máy công cụ và thép sang hơn 70 quốc gia, tạo hàng trăm nghìn việc làm kỹ thuật cao.

6. So sánh giữa Đài Loan và Nga trong lĩnh vực thép và máy công cụ CNC

Đài Loan hướng đến thị trường xuất khẩu và công nghiệp chính xác, trong khi Nga tập trung phục vụ quốc phòng, năng lượng và hàng không.

- Công nghệ luyện kim: Đài Loan dùng EAF + VD/VOD, chú trọng tinh luyện; Nga vẫn chủ yếu dùng lò cao + lò chuyển.

- Sản phẩm: Đài Loan sản xuất thép khuôn, thép dụng cụ, thép hợp kim; Nga sản xuất thép kết cấu và thép chịu nhiệt.

- Máy công cụ CNC: Đài Loan nằm trong top 5 thế giới, mạnh về CNC 3-5 trục, trung tâm gia công, robot công nghiệp; Nga phát triển chậm, phụ thuộc nhập khẩu.

- Hệ thống điều khiển CNC: Đài Loan hợp tác Fanuc, Siemens; Nga có hệ NCMS nội địa nhưng độ chính xác thấp hơn.

- Xuất khẩu: Đài Loan xuất hơn 80% sản lượng; Nga chủ yếu phục vụ nội địa.

=> Đài Loan vượt trội về tự động hóa, năng suất và khả năng xuất khẩu; Nga mạnh ở thép đặc biệt và quốc phòng, nhưng yếu về cơ khí chính xác và CNC dân dụng.

7. Ta có thể nói rằng

Sức mạnh công nghiệp của Đài Loan không nằm ở tài nguyên, mà ở trí tuệ tổ chức, hệ sinh thái công nghiệp và tinh thần cải tiến không ngừng. Ngành thép chất lượng cao và máy công cụ CNC của họ là tấm gương cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, nếu muốn xây dựng nền cơ khí hiện đại, tự chủ và hiệu quả.

- KS. Ca Lê Quốc -

FBK. Tuyen Ngô: Năng lực sản xuất máy CNC của Nga

Ca Lê Quốc: "HỠI ƠI NGÀNH MÁY CÔNG CỤ CỦA NƯỚC NGA THUA CẢ NƯỚC TÀU VÀ CHẮC CHẮN THUA ĐÀI LOAN. CÁI CẦN THÌ KHÔNG LÀM, CÁI GIẾT NGƯỜI THÌ CỨ LAO VÀO. LÀM GÌ CÓ CHỖ ĐƯNG CHO MỘT NƯỚC NGA CÔNG NGHỆ."

Năng lực sản xuất máy CNC của Nga

Nước TQ mới theo đường lối XHCN ra đời năm 1949, thì những năm 1950, CCCP đã viện trợ để TQ xây dựng nền móng sản xuất nhiều ngành công nghiệp trong đó không thể thiếu ngành chế tạo máy công cụ. Tận sau năm 2000 sang TQ vẫn thấy rất nhiều các máy công cụ do CCCP hoặc TQ tự sản xuất mang hơi hướng kĩ thuật của CCCP. Khái niệm “máy công cụ” mà người ngoài nghề có thể không hiểu, đó là MÁY CÁI tức là máy có thể sản xuất ra các máy khác.

Năm 1980 kinh tế TQ bắt đầu thời kỳ mới còn CCCP loay hoay vật lộn với cơ chế cũ để rồi tan rã 10 năm sau đó. Kể từ đó, cỗ máy công nghiệp khổng lồ CCCP bị phân mảnh. Các chuỗi cung ứng và hệ thống R&D bị gián đoạn, mất định hướng. Nước Nga hậu CCCP qua nhiều thế hệ từ 1917 đã mất bản năng kinh tế thị trường, nên chọn con đường dễ nhất là tập trung vào khai thác và xuất khẩu tài nguyên. Ngành công nghiệp chế tạo không thể tự phát triển trong quan hệ cung cầu mới mẻ. Tư duy có tiền thì nhập về dùng, vừa nhanh vừa tốt.

Con đường của TQ lại khác. Thế hệ với dòng máu kinh doanh của người TQ sau 30 năm (từ 1949) vẫn chảy trong huyết quản. Họ không ngại những người khổng lồ ở mọi lĩnh vực trên thế giới. Con đường đầu tư mạnh mẽ vào năng lực chế tạo của Đức, Nhật, Hàn thế nào thì TQ cũng có thể đi như thế. Nga không có thị trường đủ lớn, thì TQ có thị trường nội địa khổng lồ. Người TQ nhìn nước ngoài làm mục tiêu chứ không vọng ngoại. Giờ thì thị trường máy CNC toàn cầu khoảng 80-100 tỷ USD thì TQ chiếm hơn 1/3. TQ chấp nhận còn thua kém ở tầm trung và cao cấp nhưng họ ưu thế không chỉ ở tầm trung bình mà còn ở phân khúc các máy khổng lồ với giá cả không có đối thủ. 

Nếu máy công cụ thông thường trong thế kỷ 20 chỉ là cỗ máy cơ bắp thì máy CNC là cỗ máy thông minh không lệ thuộc vào sự khéo léo của con người. Động cơ servo, trục chính và CNC controller là linh hồn của máy CNC. Trong khi TQ đầu tư để làm chủ các lĩnh vực này thì ở Nga gần như là con số 0. Kể cả Nga có đầu tư để làm ra thì các nhà máy sản xuất máy công cụ của Nga cũng không mạo hiểm dùng. Kết quả là bài toán “con gà và quả trứng” không cho ra đáp án mong muốn.

Trước khi bị cấm vận thì Nga có thể tiếp cận động cơ servo & hệ điều khiển của Siemens, Bosch Rexroth (Đức), trục chính từ các nhà sản xuất Đức (như GMN, Fischer), Ý, Nhật (Fanuc, Mitsubishi Electric). TQ cùng Đài Loan là lựa chọn có giá cạnh tranh, dù chất lượng không phải ở đẳng cấp cao nhất. Khi bị cấm vận thì TQ trở thành nguồn cung duy nhất. Có thể nói giờ thì ngành máy công cụ và tự động hóa của Nga dựa hết vào nguồn động cơ servo, trục chính và hệ điều khiển từ TQ.

Vào những năm 1980 ít ai tưởng tượng công nghiệp chế tạo máy như của CCCP trước kia mà lại bị đứt gãy, đổ vỡ. Cuộc sống không thể không có máy móc. Nga một mặt nhập khẩu đáp ứng nhu cầu, nhưng những người theo đuổi chế tạo máy công cụ vẫn còn. Cấm vận lại là cơ hội để Nga nghĩ về hào quang quá khứ CCCP và vấn đề tự lực, tự chủ. Thế nhưng khi đầu vào giá rẻ từ TQ nhanh chóng lấp đầy nhu cầu thì cánh cửa phát triển lại trở nên bị thu hẹp. 

Năm 2024, theo Cơ quan Thống kê Liên bang Nga thì Nga chỉ sản xuất được 1.230 máy CNC trong tổng số 11.400 máy cắt kim loại. Cũng năm này Nga nhập khẩu 45.800 máy công cụ, trong đó khoảng 35.000 là máy TQ (rẻ hơn châu Âu khoảng 30-40%). Số lượng máy CNC nhập khẩu có thể gấp 10-20 lần số Nga sản xuất. Trong khi đó năm 2024 TQ sản xuất khoảng 700 nghìn máy cắt kim loại với hơn một nửa là máy CNC. Nếu tính tất cả các loại máy công cụ thì có thể hơn 1 triệu chiếc.

Nói về những hạn chế của Nga thì không khỏi có ý kiến cho rằng sao lại có thể hạ thấp Nga, nào là họ có những lĩnh vực mũi nhọn vô đối như vũ trụ, tên lửa, hạt nhân, tàu ngầm. Nhìn vào những thành tựu như thế (phần nhiều kế thừa quá khứ CCCP) thì khen họ thế là còn ít, nên đánh giá họ thật cao hơn nữa. Thế nhưng những sự thật trần trụi về khả năng làm ra những thứ mà người bình thường không mấy khi biết đến như vòng bi, trục chính, động cơ servo nó lại cho thấy sức mạnh thật sự của nền công nghiệp chế tạo máy ở nước Nga ngày nay. 

(Hình: máy CNC của Nga)

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

Nguyễn Cảnh Bình: 🇯🇵 Nghệ thuật của sự cân bằng: thỏa hiệp và những nét tinh tế trong việc bố trí nhân sự và nội các dưới thời Takaichi – Asō.

 🇯🇵 Nghệ thuật của sự cân bằng: thỏa hiệp và những nét tinh tế trong việc bố trí nhân sự và nội các dưới thời Takaichi – Asō.

“Nếu không hiểu được những quy tắc tinh tế và ngầm định trong chính trị Nhật Bản, ta sẽ chẳng bao giờ thấy được những dòng chảy ngầm thật sự quyết định vận mệnh của Tokyo.”

I. Bí mật lâu đời trong nền chính trị Nhật

Bề ngoài, Nhật Bản trông như một nền dân chủ ổn định – một quốc gia mà Đảng Dân chủ Tự do (LDP) nắm quyền gần như suốt 8 thập kỷ kể từ sau Thế chiến II. Nhưng ẩn sâu bên trong, chính trị Nhật không hề đơn giản là chuyện “một đảng thống trị”.

Thực chất, LDP gồm nhiều đảng nhỏ tồn tại bên trong một đảng lớn, một đế chế của các phe phái (factions) – nơi mỗi phe là một tiểu quốc, có lãnh chúa, có ngân khố, có mạng lưới trung thành riêng, có tuyên ngôn và thủ lĩnh riêng..

Đó chính là nguyên tắc nền tảng của quyền lực Nhật Bản hiện đại: "Giữ thăng bằng bằng thỏa hiệp, duy trì ổn định bằng phân quyền trong cùng một đảng.”

Nếu không hiểu điều đó, ta sẽ không bao giờ lí giải được vì sao Tokyo có thể thay Thủ tướng liên tục mà không hề mất ổn định, và vì sao ngay cả trong một đảng duy nhất, người ta vẫn phải ‘đàm phán quyền lực’ tinh tế giống như trong một quốc hội thu nhỏ.

II. Khoảnh khắc mới trong lịch sử: sự trỗi dậy của Takaichi

Tháng Mười năm 2025, Nhật Bản chứng kiến một cột mốc chưa từng có: Sanae Takaichi – người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử hiện đại – trở thành Chủ tịch LDP và chuẩn bị bước vào Phủ Thủ tướng.

Với người dân Nhật, đó là biểu tượng của đổi mới, của nữ quyền, của một Nhật Bản đang mở cửa với thời đại. Nhưng với giới chính trị, họ hiểu rằng phía sau bước ngoặt lịch sử ấy là bàn tay của một người – Tarō Asō, một bố già hậu trường, 1 King Maker như chúng ta vẫn thường gọi. 

Asō – tháng 9/2025 vừa tròn 85 tuổi, người từng làm Thủ tướng, từng giữ Bộ Tài chính suốt gần một thập kỷ – là chiến binh già lão luyện của nền chính trị LDP, Người nắm trong tay mạng lưới phe Shikōkai và mối quan hệ đan xen khắp các tầng quyền lực. Vừa có tiền (nhà giàu, tạo dựng tài sản tốt, có thói quen ăn uống sang trọng, xuất thân của gia đình giàu có dòng dõi kết hợp với sự khôn ngoan cả về tài chính và chính trị, Aso là con sói già của LDP Nhật Bản, (khá giống một nhân vật, một chính trị gia lão luyện ở Việt Nam mà có lẽ nhiều người biết)

Khi Takaichi thắng cử, số phiếu bầu cho bà ở vòng hai vọt lên đáng ngạc nhiên, ngay cả người trong cuộc cũng bất ngờ, nhưng những tay chơi sành sỏi ở chính trường nói nhỏ với nhau: "Đó là chiến thắng của cả hai. Một người lên mặt trời, một người giữ mặt trăng.” Lên mặt trời đó là Takaichi. Người giữ mặt trăng đó là Aso!

III. Nghệ thuật thoả hiệp nội các Nhật Bản 10/2025: bài học về quyền lực mềm trong đảng LDP.

Sau chiến thắng của bà Takaichi, việc đầu tiên không phải là ăn mừng – mà là xếp người - xếp "người nhà" vào nội các, và cả vào cơ cấu tổ chức vận hành của đảng LDP (kiểu như sắp xếp các ghế bộ trưởng, và cả sắp xếp các ghế trưởng ban chiến lược, trưởng ban tổ chức, chánh văn phòng TW đảng, trưởng ban tài chính.. vậy) 

Chính phủ Nhật không được hình thành bởi một người, mà bởi một chuỗi thỏa hiệp giữa các phe. Vì thế, trong những cuộc họp kín ở Nagata-chō, Asō bắt đầu vẽ bản đồ quyền lực:

- Bộ Tài chính – “trái tim ngân khố” – phải là người của ông, để giữ kỷ luật chi tiêu.

- Tổng thư ký Đảng – “người điều hành bộ máy” – cũng phải do phe thân Asō nắm, để kiểm soát quỹ vận động.

- Bộ Quốc phòng và Chính sách – nhường cho phe bảo thủ của Abe, giữ hình ảnh mạnh mẽ với cử tri.

- Một vài gương mặt trẻ – như Shinjiro Koizumi (Thái tử Đảng) – được đưa vào nội các để thổi luồng gió mới.

Và Takaichi đồng ý tất cả. Tất cả mọi người đều chiến thắng, đấy là nguyên tắc của bà. Bà biết, một chính phủ chỉ tồn tại khi tất cả phe cùng có phần trong nó. Chính phủ Nhật vì thế không phải là “chính phủ của người thắng cuộc”, mà là chính phủ của những người đồng ý cùng ngồi lại và chia sẻ trách nhiệm, có lẽ chia sẻ cả quyền lợi..

Đó là nguyên tắc căn bản của mô hình chính trị Nhật: "Cai trị không phải bằng quyền lực tuyệt đối, mà bằng sự đồng thuận được dệt bằng kỷ luật và tín nhiệm.”

IV. Tarō Asō – người cầm lái trong bóng tối

Nếu Takaichi là khuôn mặt trước ống kính, thì Asō là bàn tay sau rèm. Ông không cần ngồi vào ghế Thủ tướng nữa – ông cần sự cân bằng. Khi Takaichi muốn tăng chi tiêu để kích thích kinh tế, Asō nhắc: "Một đồng tiền in ra là một lời hứa với thế hệ sau.” Takaichi cũng quá hiểu, nên mời Aso vào chiếc ghế Phó chủ tịch đảng LDP. Và chỉ riêng việc ông nhận lời ngồi vào ghế phó chủ tịch đảng, thì ai cũng hiểu rằng bà Takaichi giành phiếu là nhờ ai..

Khi phe trẻ muốn thử chính sách mới, ông cười khẽ: "Chính trị là trò chơi của thời gian – không phải tốc độ.”

Ông để mọi người tranh luận, đôi khi im lặng rất lâu – đủ để người khác tự hiểu điều ông nghĩ. Chính trong sự im lặng đó, quyền lực thật sự của Asō hiện ra: không ồn ào, không mệnh lệnh, mà là sự công nhận tự nhiên của tất cả các phe rằng ông là người giữ nhịp.

V. Một chính phủ được xây bằng thỏa hiệp, không phải đối đầu hay tranh giành.

Nội các Takaichi không phải là một chính phủ thống nhất theo kiểu phương Tây, mà là một mạng lưới đa tâm quyền lực: (i) Mỗi bộ trưởng là đại diện cho một phe, (ii) mỗi quyết định lớn đều được thương lượng trước khi công bố, (iii) và mỗi chính sách đều phản ánh một điểm cân bằng giữa rủi ro và lợi ích.

Nhìn từ ngoài, người ta có thể cho rằng đó là “chậm chạp”. Nhưng thật ra, đó chính là sự ổn định bền vững nhất mà một nền chính trị có thể đạt được –

bởi vì mọi quyết định lớn đều đi qua quá trình “đồng thuận hoá quyền lực” (consensus politics), không ai bị bỏ lại.

Đó là bí quyết để LDP tồn tại suốt gần 70 năm: Không phải vì họ mạnh nhất, mà vì họ biết chia sẻ quyền lực trong chính nội bộ của mình.

VI. Hình mẫu cho thế giới hiện đại

Ngày nay, khi nhiều quốc gia đang loay hoay giữa đa đảng rối loạn và độc đảng độc đoán, mô hình Nhật Bản – “một đảng, nhiều phe, nhiều thỏa hiệp” – trở thành một hình mẫu hiếm hoi của sự cân bằng hiện đại.

Ở đó, chính phủ không được xây bằng chiến thắng, mà bằng sự chấp nhận.

Mỗi lãnh đạo mới không phải là người xoá đi quá khứ, mà là người tái cấu trúc nó để tiếp tục sống.

Takaichi hiểu điều đó. Bà không phải người phá vỡ trật tự cũ, mà là người học cách đi trong nó mà vẫn tạo dấu ấn riêng. Asō, với kinh nghiệm và tài năng thỏa hiệp, trở thành người bảo vệ cho cả hệ thống, đảm bảo rằng “dòng máu chính trị Nhật” vẫn chảy đều qua từng thế hệ.

VII. Kết: Nghệ thuật của sự cân bằng

Có lẽ, chính trị Nhật Bản không hấp dẫn bằng những màn hùng biện rực lửa hay những cải cách ồn ào. Nhưng trong sự yên ả của Nagata-chō, giữa những cuộc họp đầy nghi thức, ẩn chứa một nghệ thuật lãnh đạo mà thế giới hiếm nơi nào hiểu được:

Nghệ thuật giữ cân bằng giữa quyền lực và sự đồng thuận. Nếu ở Việt Nam, đó là sự cân bằng giữa các miền, và cụ thể hơn là giữa các tỉnh. Không chỉ vậy còn là sự cân bằng giữa các nhóm quân đội, công an, và các lực lượng khác.. Thì ở Nhật cũng hệt như vậy.

Chính phủ mới của Nhật Bản sẽ là nơi mà Takaichi – biểu tượng của thời đại mới – đứng ở phía trước, và "Bố Già" Asō – tượng đài của truyền thống – vẫn lặng lẽ đứng phía sau, cùng nhau vận hành một hệ thống tưởng chừng cũ kỹ, nhưng lại vẫn đang trình diễn cho thế giới bài học về sự tinh tế của quyền lực hiện đại.

Nguyễn Cảnh Bình 

5/10/2025

Ảnh: Nội các Abe, bà Takaichi đứng giữa ông Abe và Aso...

Bùi Quang Minh: BÓNG DÁNG CHỊ HAI

- Bùi Quang Minh -

Năm 1975, Tíα chen chúc giữα dòng người lên trực thăng di tản. Nghĩ sαo … không đành đoạn … tíα nhảy xuống trở lại … !!! Năm đó Chị 2 củα Má Lớn còn ẵm ngửα trên tαy. Cả nhà quyết định “sinh rα ở đâu – nằm lại tại đó”.

Bắt đầu 1 cuộc sống mới !

Má Lớn nắm tαy Má Nhỏ, hαi chị em cùng “lăn rα” vỉα hè để hoà mình và chấρ nhận những cái mới. Bán đồ chợ trời, làm đủ mọi nghề. Chỉ mong kiếm đủ được tiền để nuôi sống giα đình.

Mà cũng thiệt lạ. Tíα “quα lại” giữα 2 Má mà họ không ghen – không lồng lộn. Có lúc hỏi chuyện thì 2 Má cười móm mém :

– … chuyện mấy chục năm rồi … nhắc làm gì nữα ….

Lần lượt các “αnh em” củα chúng tôi rα đời.

Thời thế nổi trôi. Con người rồi cũng ρhải già đi. Tíα đi trước, rồi Má Lớn cũng bỏ cả nhà mà đi …..

Chị 2 lớn về ở với Má Nhỏ và tụi tui. Má Lớn chỉ có ᵭộc nhất đứα con là Chị. Nên từ nhỏ Hαi đã tự lậρ. Thái thân chuối cho heo ăn. Nấu cơm, kho thịt , vá quần chằng áo. Đủ cả…. Trưα nào Hαi cũng thαy Má Nhỏ tắm cho cả bầy heo “lúc nhúc” là tụi tui !

Có bận Má Nhỏ ҳάch giỏ đi buôn ở Chợ Cầu Ông Lãnh. Ở nhà Hαi vừα đút cơm Anh Tư, vừα đưα võng cho thằng Út ngủ. Bất giác có con mèo hoαng đi lổn ngổn trên mái ngói. Nó đạρ ρhải 1 miếng “chết hồ”.

Sức nặng làm miếng ngói bự chảng rớt xuống ngαy chỗ Út nằm. Không kịρ nghĩ … Hαi đưα đầu che cho Út. Vậy là kể từ lúc đó Hαi trở thành người 7 tỉnh 3 mê……….

Năm 1990,�Đất nước mở cửα. Nhiều cái mới du nhậρ. Nhiều sự xáo trộn kịch liệt đã diễn rα. Và trong giα đình này cũng xảy rα 1 chuyện như thế !

Một bữα, Hαi ҳάch giỏ đi chợ. Bận về lại “lớ ngớ” thế nào, không về thẳng nhà mà đi đâu mất. Chiều về thì Hαi quần áo tả tơi. Má Nhỏ hớt hải dắt Hαi vào nhà tắm kiểm trα. Và năm đó Hαi … đã lên chức Mẹ …

Hỏi gì Hαi cũng không nói, chỉ ư ư ư rồi chỉ trỏ lung tung. Không cười, cũng chẳng khóc. Phải mất gần nửα tháng sαu, Hαi mới hoàn hồn lại được ! Lậρ tức, cả nhà họρ bàn để “giải quyết” giọt мάu trong bụng củα Hαi. Ai cũng tán đồng việc bố nó, vì nó còn rất nhỏ, vì kinh tế giα đình không thể cάпg đáng thêm nữα ……

Chỉ có Má và thằng Út là kịch liệt ρhản đối. Má thì ôm Hαi khóc tức tưởi. Thằng Út thì giαng tαy chắn trước mặt Hαi rồi nói :

– … ngày đó Hαi cứu Út một mạпg … bi giờ Út sẽ nuôi Hαi đến già … đến chết… !

Thần thức Hαi trở về, nhậρ lại vào ҳάc. Quá đỗi bất ngờ. Hαi ôm bụng đứng dậy dõng dạc :

 nó là giọt мάu củα Hαi … sống chết gì Hαi cũng sẽ giữ nó …

Nói là làm. Hαi ҳάch cói, nhét đồ vào, rồi qùγ xuống “lạy Má” 3 lạy. Ôm thằng Út thật chặt. Rồi Hαi bỏ nhà đi ! Cũng chính vì vậy, mà thằng Út nó giận cả nhà gần chục năm hơn….

Năm 2019,�Thượng Thọ 90 củα Má. Mấy αnh em trong nhà αi cũng công thành dαnh toại. 3 Bác Sỹ, 2 Kỹ Sư, 1 Nhà Báo, đủ cả …. ! Nhân ngày vui củα Má. Mấy đứα xúm đùm lại họρ bàn tổ chức Đại Tiệc cho Má. Anh Hαi ρhát biểu :

– … tụi mày để Anh … mình Anh bαo hết …

– … í … đâu có được Anh … tụi này cũng là con Má đẻ rα mà …

Má lặng lẽ bỏ rα mái hiên, nhìn về ρhíα đầu ngõ mà lòng buồn vời vợi…

Đêm đó,�Khách khứα kéo đến đông nườm nượρ, họ đến vì xã giαo, vì địα vị củα các con Má. Chứ có biết Má là αi đâu. Mấy Tấm Khánh bằng vàng được người tα hì hục khiêng vào.

Má cũng vui….. Vì con Má được nhiều người trọng vọng. Nhưng được nửα tiệc thì Má đi đâu mất tiêu…

Cả nhà túα rα đi tìm khắρ nơi. Không αi thấy Má ở đâu. Cuối cùng thằng Út lên tiếng :

– … hαy Má về nhà …… ?

Cả bọn lũ lượt kéo nhαu về nhà. Đậρ vào mắt mọi người, ở dưới bếρ, Má cầm đũα gắρ mấy miếng Cơm Dừα Già kho mặn – bên cạnh là tô cαnh rαu tậρ tành (dưα chuột, mướρ, khổ quα dại, mồng tơi) trộn chung lại với nhαu.

Còn … còn … còn Hαi thì đαng ngồi qùγ dưới chân Má (cười cười mếu mếu) bóρ bóρ chân cho Má ….

Thấy nhóm người hùng hổ sấn tới. Hαi co rúm người lại và thαnh minh.

– … Hαi … Hαi … Hαi xin lỗi … sαnh nhựt Má … Hαi không có gì tặng …

– … Hαi … Hαi … Hαi đi liền … con … con đi nghen Má …(Hαi luống cuống)

Má nói :

– … tụi con đừng lα Hαi … mấy bữα trước nó lại thăm … Má nói Má thèm mấy món ngày nhà mình còn nghèo … nên nó mới nấu cho Má ăn ….

Hαi cúi gằm mặt ….. Mấy ngón chân bấu chặt xuống đôi déρ Tổ Ong vàng đục rách quαi. Thằng Út nhào lại ôm Hαi khóc nức nở.

Cũng chính món đơn giản này mà Hαi đã thαy Má nuôi chúng lớn lên từng ngày. Hαi đút ăn, Hαi rửα đít, Hαi ru ngủ, Hαi chơi với từng đứα. Hαi là Chị, Hαi là Bạn, Hαi là cả Má. Vậy mà…

khi Hαi gặρ пα̣п cả nhà đã đẩy Hαi rα ngoài đường …

Một cậu trαi trẻ, ăn mặc giản dị nhưng sạch sẽ chạy từ bên ngoài cửα vào. Giαng cάпh tαy chắc chắn che chở cho Hαi và hét lớn :

– … không αi được ᵭάпҺ Mẹ tôi …

Thằng Út nhỏ cҺếϮ điếng. Đây chính là hình ảnh củα nó bảo vệ Hαi mấy mươi năm trước mà. Bất giác nó rùng mình khi mấy thấy mấy Anh Chị củα nó đαng ăn vận áo Vest – Đồ Tây … lũ lượt nhìn nhαu rồi… qùγ xuống … chắρ tαy vái lạy Chị Hαi :

– … Hαi ơi … tụi em sαi rồi …

– … tụi em là những đứα bất hiếu …

– … Hαi cũng như Má … Hαi về ở với tụi em nghen Hαi …

Hαi không nói gì. Chỉ đứng khóc tức tưởi… Hαi cảm động, Hαi sợ hãi, hαy Hαi như thế nào khác ….. ?

Không quαn trọng. Mà quαn trọng là năm đó, Má tụi tui đã đón một tuổi 90 thiệt vui. Nhìn nhận lại đứα cháu trαi ngoαn ngoãn. Có Hαi về, cả nhà lại xum hợρ như những ngày xưα thơ dại …

Sài Gòn,�Còn ở lại trong tim…

BÓNG DÁNG CHỊ HAI

Guy de Maupassant: TRÊN XE LỬA 🚂

Guy de Maupassant (1850-1893) là một nhà văn danh tiếng của Pháp, chuyên viết truyện ngắn. Ông tập sự viết văn với văn hào Gustave Flaubert, một người bà con xa của ông. Chính Gustave Flaubert dạy cho Maupassant biết rằng thiên tài chỉ là một sự làm việc kiên nhẫn lâu dài.

Truyện ngắn dưới đây dịch từ nguyên tác có tên là Idylle của ông – có nghĩa là: Một Truyện Dâm Mà Không Dâm.

                 TRÊN XE LỬA 🚂

        Tác Giả: Guy de Maupassant

         Nguyễn Vạn Lý phỏng dịch

Xe lửa vừa rời Genoa trên đường đi Marseilles, chạy theo một con đường dài dọc bờ biển, lướt đi giữa biển và núi như một con rắn bằng sắt, bò bên trên những bãi cát vàng viền những đợt sóng bạc đầu, và bất thình lình lao xuống những đường hầm đen ngòm giống như một con thú chui vào hang.

Trong toa xe lửa cuối cùng, một người đàn bà mập mạp và một thanh niên ngồi đối diện nhau, không nói một lời, nhưng thỉnh thoảng liếc nhìn nhau. Nàng vào khoảng hai mươi lăm tuổi và ngồi cạnh cửa, nhìn ra cảnh vật bên ngoài. Đây là một người đàn bà nhà quê chắc nịch của vùng Piedmont, mắt đen, ngực to và hai má căng tròn. Nàng đẩy vài cái bao vào dưới ghế ngồi bằng gỗ, và ôm một cái rổ trên đầu gối.

Người thanh niên khoảng hai mươi tuổi. Chàng gầy gò và da rám nắng, với nước da ngăm đen vì làm việc ngoài đồng dưới ánh mặt trời thiêu đốt. Bên cạnh chàng, buộc trong một tấm khăn là tất cả tài sản của chàng: một đôi giầy, một áo sơ mi, một chiếc quần đùi và một áo jacket. Bên dưới chỗ ngồi, chàng giấu một cái cuốc và một cái xẻng cùng với một đoạn giây thừng. Chàng đang đi Pháp tìm việc làm.

Mặt trời lên cao tuôn lửa xuống bờ biển. Lúc ấy là vào cuối tháng Năm, và mùi hương thơm ngát phảng phất vào toa xe lửa qua những cửa sổ mở. Những vườn chanh và cam đang nở hoa, bốc lên bầu trời bình yên mùi hương ngọt ngào, nồng nàn và khó chịu, hoà lẫn với những bông hồng mọc chen chúc dọc đường rầy, trong vườn của những nhà giầu có, tại cửa những mái tranh xiêu vẹo, và cũng cả ngoài đồng nữa.

Có quá nhiều hoa hồng dọc bờ biển này! Hoa tràn ngập cả vùng với hương thơm nhẹ nhàng nhưng nồng nàn, và thay đổi không khí thành một mùi hương thơm dịu, một cái gì ngon hơn rượu vang và cũng không kém say sưa.

Xe lửa chạy chậm chạp, như thể muốn nán lại cái khu vườn lộng lẫy này. Nó cứ tiếp tục ngừng lại tại những nhà ga nhỏ, trước một vài căn nhà trắng, rồi lại tiếp tục chạy theo một tốc độ nhàn nhã, sau khi buông ra một hồi còi dài. Không có khách lên xe. Như thể là cả thế giới đang ngái ngủ, bất đắc dĩ phải đi bất cứ đâu vào cái buổi sáng mùa xuân nồng ấm ấy.

Thỉnh thoảng người đàn bà mập mạp nhắm mắt lại, và chỉ bất thình lình mở ra bất cứ lúc nào nàng cảm thấy cái rổ tuột khỏi đùi nàng. Nàng nắm cái rổ lại, nhìn ra ngoài cửa sổ vài phút, rồi lại ngủ gà ngủ gật. Những giọt mồ hôi đọng trên trán nàng, và nàng thở khó khăn, như thể đang bị một cơn co thắt đau đớn.

Người thanh niên gục đầu xuống ngực và ngủ say sưa như một người nhà quê.

Bỗng nhiên ngay lúc xe lửa rời một nhà ga nhỏ, người đàn bà nhà quê dường như thức giấc; nàng mở cái rổ và lấy ra một khoanh bánh mì, một vài trứng luộc, một chai rượu vang và một vài trái mận chín đỏ. Rồi nàng bắt đầu ăn.

Người đàn ông cũng bị đánh thức dậy bất thình lình và nhìn nàng ăn, theo dõi những miếng đồ ăn di chuyển từ đầu gối lên môi nàng. Chàng ngồi đó, má hõm xuống, hai tay khoanh lại, mặt trịnh trọng, đôi môi mím chặt.

Người đàn bà ăn như một người háu ăn, thỉnh thoảng làm một nốc rượu để nuốt trôi món trứng, và thỉnh thoảng ngừng lại để thở.

Nàng ăn hết mọi thứ, bánh mì, trứng, mận và rượu vang. Ngay khi người đàn bà ăn xong, người đàn ông lại nhắm mắt lại. Rồi cảm thấy khó chịu, người đàn bà nới lỏng chiếc áo của nàng, và người đàn ông bỗng nhìn lại nàng.

Nàng không để ý và cứ cởi khuy áo ra. Đôi vú quá to của nàng làm căng vải đến nỗi khi khe áo hở rộng ra, nó phô bày một chút vải trắng và da thịt giữa hai vú nàng.

Khi cảm thấy dễ chịu hơn nữa, người đàn bà nhà quê nói bằng tiếng Ý, “Trời nóng đến không thể thở được.”

Chàng thanh niên trả lời bằng cùng một ngôn ngữ và cách phát âm, “Thời tiết này rất tốt để đi đó đây.”

Nàng hỏi, “Ông cũng từ Piedmont?”

“Tôi quê Asti.”

“Còn tôi quê Casale.”

Họ là người cùng một vùng. Họ bắt đầu nói chuyện.

Họ trao đổi những nhận xét dài và thông thường, mà người lao động thường nhắc đi nhắc lại, và cũng đủ cho trí óc chậm chạp và giới hạn của họ. Họ nói về quê nhà và nhận thấy họ cùng quen một số người. Họ gọi tên và trở nên thân mật hơn mỗi khi họ khám phá ra một người mà cả hai cùng biết. Những lời nói mau lẹ với âm vang ở cuối câu và âm điệu của tiếng Ý tuôn ra từ môi họ.

Rồi họ nói về chính họ. Nàng có chồng và đã có ba con nàng gửi lại cho em gái nuôi, vì nàng vừa tìm được việc làm vú em cho một bà người Pháp tại Marseilles.

Về phần chàng, chàng cũng đi tìm việc. Chàng nghe nói có thể kiếm được việc làm cũng tại Marseilles, vì người ta đang xây cất nhiều tại đó.

Rồi họ lại im lặng.

Hơi nóng thực là khủng khiếp đè xuống mái xe lửa. Một đám mây bụi bốc lên đằng sau xe lửa, và bay vào qua cửa sổ; mùi hương của hoa hồng hoa cam trở nên nồng nàn hơn, nặng nề và thấm nhập hơn.

Hai du khách cùng ngủ trở lại.

Họ cùng mở mắt ra, hầu như cùng một lúc. Mặt trời đang lặn xuống biển, hắt ánh sáng lên làn nước xanh. Trời mát mẻ hơn và không khí nhẹ nhàng hơn.

Người vú em đang thở hổn hển. Chiếc áo của nàng mở banh ra, đôi má nàng trông mềm nhão, và đôi mắt khờ dại.

Nàng buồn phiền nói, “Tôi không cho con bú từ hôm qua. Bây giờ tôi cảm thấy như muốn xỉu.”

Chàng không trả lời, không biết nói gì. Nàng nói tiếp, “Khi một người đàn bà có nhiều sữa như tôi thì phải cho bú một ngày ba lần nếu không thi khó chịu lắm. Nó giống như một sức nặng đè lên tim tôi, đúng như vậy; một sức nặng chặn hơi thở của tôi và làm tôi cảm thấy nặng nề. Thực là kinh khủng khi có nhiều sữa như thế.”

Chàng trả lời, “Phải. Bà chắc khó chịu lắm.”

Nàng quả thực trông muốn bệnh, như thể nàng muốn xỉu đi.

Nàng thì thầm, “Tôi chỉ có thể vắt sữa ra, và sữa chảy như một vòi nước. Trông kỳ cục lắm. Chắc ông không thể tin được; ở Casale cả lối xóm thường đến xem tôi vắt sữa.”

Chàng nói, “Thế hả?”

“Phải, thực đấy. Tôi sẵn sàng để ông xem, nhưng cũng không giúp ích gì cho tôi được. Vắt như thế không có nhiều sữa ra.”

Và nàng lại im lặng.

Xe lửa ngừng lại. Đứng tại cổng xe lửa là một người đàn bà bồng một đứa bé khóc lóc trong cánh tay. Người đàn bà gầy gò và ăn mặc rách rưới.

“Kìa có một người đàn bà mà tôi có thể giúp được. Và đứa nhỏ cũng có thể giúp tôi nữa. Coi đây, tôi không giầu có, tôi phải bỏ nhà và gia đình và đứa con nhỏ yêu quý của tôi để đi làm; nhưng tôi sẵn sàng trả năm quan cho cái bà kia trong mười phút để tôi có thể cho đứa nhỏ bú. Như thế đứa trẻ sẽ nín khóc và cũng giúp tôi nữa. Tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.”

Nàng lại im lặng. Rồi nàng vuốt bàn tay nóng của nàng vài lần lên cái trán đang đổ mồ hôi, và rên rỉ: “Tôi không thể chịu được nữa. Tôi cảm thấy tôi sắp chết đến nơi rồi.”

Và với một cử chỉ vô ý tứ, nàng cởi phanh áo ra.

Bầu vú bên phải nhô ra, đồ sộ và căng cứng, cùng với núm vú màu nâu; người đàn bà tội nghiệp rên rỉ: “Trời ơi! Trời ơi! Tôi làm gì bây giờ?”

Xe lửa lại tiếp tục cuộc hành trình giữa rừng hoa bốc lên mùi hương thấm nhập tỏa ra vào những buổi tối ấm áp. Thỉnh thoảng một chiếc thuyền câu hiện ra trong tầm mắt, trông như nằm ngủ giữa đại dương, với cánh buồm trắng phản chiếu xuống nước như thể có một chiếc thuyền khác lộn ngược lại.

Chàng thanh niên trông có vẻ rất bối rối, và lắp bắp, “Nhưng… thưa bà… tôi có thể… có thể giúp bà.”

Nàng trả lời bằng một giọng mệt mỏi, “Phải, nếu ông muốn. Nếu ông chịu làm thế là ông làm ơn cho tôi đấy. Tôi không thể chịu đựng được nữa, thực sự tôi không thể.”

Chàng quỳ gối xuống trước mặt nàng, và nàng cúi xuống, đưa cái đầu vú màu đậm vào miệng chàng như thể chàng là một đứa trẻ nhỏ. Trong cử động của nàng, hai tay nàng ôm bầu vú về phía người đàn ông, một vài giọt sữa ứa ra trên núm vú. Chàng hăm hở liếm những giọt sữa ấy, ngậm lấy bầu vú nàng giữa hai môi như thể là ngậm một trái cây, và bắt đầu nút đều đặn và tham lam.

Chàng hai tay ôm lấy ngang lưng người đàn bà để kéo nàng lại gần chàng hơn; chàng uống thong thả nhưng đều đặn, với cái cử động của cổ giống như một đứa trẻ.

Bỗng nàng nói, “Như thế đủ cho bên ấy rồi. Bây giờ bú bên này.”

Và chàng vâng lời quay sang vú bên kia.

Nàng đặt cả hai tay lên lưng chàng thanh niên, và bây giờ nàng thở thật sâu và sung sướng, hưởng cái hương thơm của hoa lẫn với từng ngọn gió lùa vào toa xe lửa, cùng với sự chuyển động của xe lửa.

Nàng nói, “Quanh đây thơm quá.”

Chàng không trả lời, vẫn tiếp tục bú cái vòi nước của bầu vú của nàng, mắt nhắm lại như để tận hưởng hơn nữa.

Nhưng lúc đó nàng khẽ đẩy chàng ra.

“Thế đủ rời. Bây giờ tôi cảm thấy dễ chịu lắm. Tôi là một người mới rồi.”

Chàng đứng dậy, lấy mu bàn tay lau miệng.

Bỏ vú vào trong áo, nàng nói, “Thưa ông, quả thực ông đã làm ơn cho tôi. Cám ơn ông nhiều lắm.”

Và chàng trả lời một cách biết ơn, “Thưa bà, chính tôi phải cám ơn bà mới phải. Đã hai ngày nay tôi chưa được ăn uống gì.”

                            Hết

          ✒️ Guy de Maupassant

 ✵ ✵   ✯ ✵ ✵  ✯ ✵ ✵  ✯ ✵ ✵  ✯ ✵ ✵  ✯ 

          📜 Nguyên bản tiếng Pháp :

                              IDYLLE

http://maupassant.free.fr/textes/idylle.html

Từ fb Tri Dung Le

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

FBK. Lê Thọ Bình: ĐỪNG ĐÙA VỚI MỸ!

ĐỪNG ĐÙA VỚI MỸ!

By Lê Thọ Bình

Trong xã hội Việt Nam, mỗi khi nhắc đến nước Mỹ thường có hai luồng cảm xúc trái ngược. Có người ngưỡng mộ, coi “giấc mơ Mỹ” là biểu tượng của sự tự do và thịnh vượng. Ngược lại, cũng có không ít người chỉ trích, xem Mỹ như “sen đầm quốc tế”, can thiệp khắp nơi. Nhưng tình cảm cá nhân, dù yêu hay ghét, không thể thay thế cho cách nhìn nhận trên bình diện quốc gia. Ở đó, nguyên tắc tối cao phải là lợi ích dân tộc.

Nếu đứng từ lợi ích ấy, ta cần hết sức thận trọng: đừng đùa với Mỹ.

Lịch sử hiện đại đã để lại không ít bài học. Cuba từng được ca ngợi như “thiên đường xã hội chủ nghĩa” ở Tây bán cầu, nay vẫn loay hoay giữa khủng hoảng kinh tế, sự cấm vận kéo dài và nhu cầu cải cách. 

Bắc Triều Tiên, đồng minh thân cận của Trung Quốc, cũng chưa thoát khỏi vòng kiềm tỏa, trừng phạt quốc tế. Khi Mỹ tung đòn, ngay cả những “ông anh lớn” của Cuba và Bắc Hàn cũng chỉ có thể quan sát từ xa. 

Nga hiện nay, sau hơn hai năm chiến sự tại Ukraine, cũng đang oằn mình dưới những biện pháp trừng phạt chưa từng có. Những ví dụ ấy nhắc nhở chúng ta rằng, quan hệ với Mỹ không thể chỉ dựa trên ý chí hay tình cảm, mà phải tính toán thấu đáo, khôn khéo, để tránh rơi vào thế bị động.

Với Việt Nam, điều này càng quan trọng. Hai nước từng trải qua chiến tranh, nhưng cũng đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Trong nhiều lĩnh vực, từ thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ cho đến giáo dục, Việt Nam hưởng lợi không nhỏ từ sự hợp tác ấy. Tuy nhiên, hợp tác với Mỹ cũng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận những thách thức từ chính sách bảo hộ, từ cách hành xử thực dụng, đôi khi khắc nghiệt, của nền chính trị Hoa Kỳ.

Một ví dụ gần đây là việc Mỹ xem xét áp thuế với hải sản Việt Nam. Nếu đề nghị đàm phán không thành công, hàng tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, cùng công ăn việc làm của hàng chục nghìn ngư dân, doanh nghiệp chế biến, sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. 

Nói thì dễ: “không bán cho Mỹ thì bán cho châu Âu”. Nhưng thực tế, các thị trường có tiêu chuẩn riêng, không phải cứ mất một nơi là ngay lập tức có chỗ thay thế. Trong kinh tế toàn cầu hóa, đôi khi chỉ một quyết định từ Washington cũng có thể làm chao đảo hàng ngành nghề tại Việt Nam.

Trong bối cảnh ấy, việc một số người nặng về cảm tính, hoặc quá tung hô, hoặc quá chỉ trích, đều thiếu thực tế. Không phải cứ ghét Mỹ mà kinh tế Việt Nam ít lệ thuộc vào họ hơn. Cũng không phải cứ ca ngợi Mỹ là quan hệ tự động trở nên “cùng có lợi” tuyệt đối. Mọi chính sách đều dựa trên lợi ích quốc gia của Mỹ trước hết, và ở đó, Việt Nam chỉ là một đối tác nằm trong bàn cờ lớn hơn.

Đặc biệt, dưới thời Donald Trump, một con người thất thường, tính khó đoán còn cao hơn. Người ta có thể gọi ông là “kẻ tráo trở”, “thực dụng”, thậm chí “thằng hề”, nhưng không thể phủ nhận ảnh hưởng của ông với chính sách kinh tế, đối ngoại Hoa Kỳ. 

Với một nhà lãnh đạo sẵn sàng thay đổi quyết định chỉ trong một đêm, Việt Nam càng phải giữ thái độ tỉnh táo, vừa hợp tác, vừa đề phòng. Trên trường quốc tế, có thể ghét Trump, nhưng không thể bỏ qua Trump.

Chính sách đối ngoại khôn khéo không dựa vào tình cảm, mà dựa vào lợi ích, tầm nhìn và sự linh hoạt. Việt Nam không thể chọn “yêu” hay “ghét” Mỹ, mà phải biết tận dụng những cơ hội từ Mỹ để phát triển kinh tế, đồng thời giữ thế cân bằng để không bị cuốn vào những toan tính địa chính trị. Điều ấy đòi hỏi bản lĩnh, trí tuệ và sự kiên nhẫn.

Bởi vậy, bài học rút ra vẫn là: hãy cảnh giác, thận trọng và thực dụng. Không ai đùa được với Mỹ, nhưng cũng không ai ngăn cản được một quốc gia khôn khéo biết biến mọi mối quan hệ thành lợi ích cho dân tộc mình

Từ Facebook Lê Thọ Bình

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

FBK. Nguyễn Chương-Mt: "MẦN"

"MẦN", CÓ MẶT NƠI CHÂU THỔ PHƯƠNG NAM, NƠI XỨ QUẢNG, XỨ NGHỆ, XỨ THANH... Nhưng, biệt tích nơi ngôn ngữ người Kinh sông Hồng. 

/1/ "Mần", tiếng Mường ở Hòa Bình. Người xứ Nghệ cũng gọi "mần". Quảng Bình, Quảng Trị cũng gọi "mần". Nhiều tỉnh ở miền duyên hải cũng nói "mần". Người miền châu thổ Đồng Nai - Cửu Long cũng quen với cách nói "mần". 

Quí bạn thấy gì? Đây là tiếng VIỆT trải dài từ Mường (được gọi là tiếng Việt cổ, proto-Vietic), xuống xứ Nghệ, rồi miền duyên hải, và có mặt nơi vùng phương Nam của chúng ta! 

/2/ Nhưng, "lạ" thay, ở châu thổ sông Hồng thì "mần" bị biệt tích. 

Tiếng VIỆT ("VIETIC", cách gọi trong ngành ngôn ngữ học, thuộc Ngữ hệ NAM Á) của cách nói "Mần" có mặt gần như khắp nơi, nhưng không còn trong cách nói của người Kinh sông Hồng. Sao vậy? 

/3/ Đây, mượn lại cách phân định từ đời Trần: "người Kinh" tức là người ở kinh thành và những vùng phụ cận, thành thử chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hán tự, khá sâu đậm.

Còn những cộng đồng sống về phía Nam - như xứ Thanh, xứ Nghệ, rồi phương Nam còn tiếp tục với Quảng Bình, Quảng Trị ... thì KHÔNG gọi "Kinh", mà gọi "người Trại". 

* Trở lại với "Mần". 

Người Kinh không có cách nói "mần", hay là từng dùng rồi từ bỏ cách nói này (?). 

Trong khi trên nước Việt, nhiều nơi, vẫn còn giữ cách nói "mần".

Bởi lý do gì, mà "người Kinh" (theo cách phân định vào đời Trần) KHÔNG còn dùng "mần" trong TIẾNG VIỆT như nhiều vùng miền khác (gồm cả một số nơi ở đàng Ngoài)?

---------------------------------------------

Người dân miền châu thổ Cửu Long (hàng trên)

Người Mường ở Thanh Hóa (hàng giữa)

Người dân ở Quảng Trị (hàng dưới)



FBK. Lương Hải: Quân đội Mỹ - sự chuyên nghiệp cùng số lượng tướng lĩnh, đô đốc, phân bổ!

 Quân đội Mỹ - sự chuyên nghiệp cùng số lượng tướng lĩnh, đô đốc, phân bổ!

    Quân đội Mỹ là một ngành nghề như bao ngành nghề khác với lương bổng theo luật định … và bạn phải thi tuyển đầu vào … chứ không bắt buộc như nhiều quốc gia khác … riêng về sự chuyên nghiệp của họ thì khỏi phải bàn … bởi họ là quân đội chuyên nghiệp nhất hành tinh!

     Quân đội Mỹ chỉ tuyên thệ trước Hiến pháp của Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ … họ chỉ độc lập với quân sự thuần túy và chỉ hành động theo Hiến pháp … họ phi chính trị, phi đảng phái … và chấp hành mệnh lệnh từ Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng (chiến tranh) của Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ - tất nhiên là mệnh lệnh đó phải hợp Hiến!

   Hiến pháp Mỹ cũng hiến định rằng tất cả mọi cá nhân trong quân đội Mỹ - từ cấp chỉ huy cao nhất, đến binh lính trực tiếp thi hành nhiệm vụ đều có quyền “không thì hành mệnh lệnh”, nếu sau đó họ chứng minh được mệnh lệnh đó là Vi Hiến trước Toà án binh!

    Với cuộc họp bất thường tại Căn cứ Thủy quân Lục chiến Quantico, Virginia vừa qua là “cơ hội đời người” chúng ta mới được chứng kiến toàn bộ hơn 800 tướng lĩnh, đô đốc, chỉ huy quân đội Mỹ từ khắp thế giới về dự họp dưới lệnh triệu tập và chủ trì của Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng (chiến tranh) của Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ … tuy với sự “bất ngờ” và thời gian rất ngắn (chỉ 3 ngày), nhưng tất cả họ đều đến và đi rất đúng giờ trong trật tự và im lặng, tất cả mọi hình ảnh đi, lại của họ đều cực kỳ hạn chế công bố, ngoài sự xuất hiện đông đủ trong cuộc họp tại căn cứ ở Virginia!

   Vì họ tập hợp về Virginia họp khẩn theo lệnh triệu tập được Hiến định của Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng của Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ (chứ không phải cá nhân của ông Donald Trump hay ông Peter Hegseth) … bởi nên họ chỉ ngồi im lặng để nghe và ghi nhận Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng (những người thuộc về bên Dân sự) diễn thuyết … và họ sẽ chỉ ghi nhận những gì theo đúng với Hiến Pháp hiến định … đồng thời họ hoàn toàn không ủng hộ hay cổ suý - thậm chí có quyền bỏ ngoài tai, những gì nằm ngoài Hiến pháp … với một sự chuyên nghiệp đến mức độ lạnh lùng!

  Họ khác hoàn toàn với hình ảnh tướng lĩnh quân đội Nga, Tàu, Triều Tiên luôn vỗ tay nhảy múa loạn cào cào mỗi khi họp với “lãnh tụ”, thậm chí còn sẵn sàng “nhắm mắt” thi hành mọi mệnh lệnh của “lãnh tụ” bất kể cả Vi Hiến!

   Cũng phải nói thêm rằng chỉ quân đội Mỹ mới có cấp bậc Tướng, Tá, Uý … còn cảnh sát Mỹ, FBI, CIA đều thuộc về bên Dân sự nên không có cấp bậc, mà chỉ được gọi chung “cảnh sát”, “đặc vụ” …!

  Hiến pháp Mỹ hiến định Bộ trưởng quốc phòng luôn là một nhân vật Dân sự - nếu là tướng quân đội thì phải về hưu đúng 7 năm, hoặc ít nhất là 5 năm với trường hợp đặc biệt - đó là học thuyết Dân sự kiểm soát quân sự rất hay của nước Mỹ … tại Lầu năm góc, nhân vật quân đội đương nhiệm cao nhất luôn là 1 tướng 4 sao nắm quyền Tổng tham mưu trưởng liên quân!

   Theo tìm hiểu của Lương Hải từ số liệu của quân đội Mỹ … chỉ tiêu tối đa cho tổng số tướng lĩnh và Đô đốc (từ 1 sao đến 4 sao) thường trực trong toàn bộ quân đội Mỹ trong thời bình hiện tại là 804 tướng và 332 đô đốc (riêng 5 sao chỉ có ở thời chiến) … phân bổ trong 6 Binh chủng là;

 1/ Army - Lục quân, lực lượng quan trọng nhất trong quân đội, có 412 tướng;

   4 sao: 12

   3 sao: 40

   2 sao: 110

   1 sao: 250

2/ Air Force - Không lực, có 287 tướng;

   4 sao: 10

   3 sao: 37

   2 sao: 90

   1 sao: 150.

3/ Marine Corps - Thủy quân lục chiến, có 90 tướng;

   4 sao: 2

   3 sao: 6

   2 sao: 22

   1 sao: 60

4/ Space Force - Lực lượng Vũ trụ, có 15 tướng;

    4 sao: 1

    3 sao: 2

    2 sao: 4

    1 sao: 8

5/ Navy - Hải quân, có 298 đô đốc;

   4 sao: 12

   3 sao: 36

   2 sao: 90

   1 sao: 160 

6/ Coast Guard - Tuần duyên, có 34 đô đốc;

 Tuần duyên Mỹ thuộc sự quản lý của Bộ An ninh Nội địa, tuy nhiên vẫn tuân theo các quy ước sắp xếp của Lầu năm góc;

   4 sao: 1

   3 sao: 2

   2 sao: 11

   1 sao: 20

Phân bổ chỉ huy; 

  Tướng 4 sao - cấp bậc cao nhất trong thời bình, chỉ huy cấp chiến dịch, hoặc binh chủng!

 Tướng 3 sao, chỉ huy cấp quân đoàn hoặc tham mưu!

  Tướng 2 sao, chỉ huy cấp sư đoàn hoặc chiến lược hoạt động!

  Tướng 1 sao, chỉ huy cấp phó sư đoàn hoặc chỉ huy cấp lữ đoàn!

  Khi tất cả tướng lĩnh, đô đốc, chỉ huy quân đội Mỹ từ khắp thế giới đều tụ họp về Virginia … khiến nhiều người lo sợ sự nguy hiểm khi “bỏ tất cả trứng vào một giỏ” (!) hay “quân đội Mỹ toàn cầu sẽ không có chỉ huy tại chỗ sẽ rất nguy hiểm” (!) … nhưng chúng ta đã thấy rõ là chẳng hề có bất cứ sự cố gì xảy ra cả … Bởi đơn giản là người Mỹ họ kiểm soát được tất cả!

  P/S; Lương Hải cũng chúc mừng Đại tá Hung Cao - 54 tuổi, bang Virginia - sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ gốc Việt đã được Tổng thống Donald Trump đề cử và Thượng viện phê chuẩn làm Thứ trưởng Hải quân Hoa Kỳ!

Lương Hải

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2025

FBK. Nguyễn Chương-Mt: BƯỚC NGOẶT (TURNING POINT) CHO TRUNG ĐÔNG ĐANG ĐẾN!

BƯỚC NGOẶT (TURNING POINT) CHO TRUNG ĐÔNG ĐANG ĐẾN! 

* Bản kế hoạch hòa bình, do TT Donald Trump đưa ra, khiến cho Hamas và một vài nước châu Âu (mới đây khi tuyên bố công nhận Nhà nước Palestine) phải CHƯNG HỬNG! Vì sao?

/1/ Hamas KHÔNG còn ở vị thế đàm phán nữa, mà buộc phải chọn lựa sự kết thúc: GIẢI GIỚI tổ chức này thông qua thỏa thuận "êm đềm", các thành viên Hamas được trở về cuộc sống thường dân một cách an toàn; hoặc bị tiêu diệt hoàn toàn bằng võ lực.

Mỹ tuyên bố ủng hộ Israel, trong trường hợp Hamas không chịu giải giới, thì Israel được quyền "giải quyết".

/2/ Mỹ cũng buộc Israel phải rời khỏi Dải Gaza, theo từng giai đoạn, song hành với qui trình Hamas giải giới. Khi giải giới Hamas xong xuôi (tức "xóa sổ" mà không cần đến võ lực), Israel cũng phải hoàn tất việc rút quân khỏi Dải Gaza!

/3/ Mỹ dàn xếp để công nhận Nhà nước Palestine, điều này khiến cho một vài nước châu Âu không còn "lý cớ" gì để khua chiêng múa trống nữa. Ở đây, KHÔNG phải là tuyên bố công nhận Palestine cho sướng miệng, mà CẦN THỰC HIỆN THEO ĐÚNG LỘ TRÌNH HOÀ BÌNH. Tức, trước hết, phải - nhấn mạnh - GIẢI GIỚI HAMAS! 

Hành động đầu tiên mà Hamas phải làm, đó là trao trả toàn bộ con tin đang sống lẫn thi hài con tin đã chết, trao trả một lần (không "nhỏ giọt" mỗi lần 1, 2 con tin). 

Thời hạn đặt ra là TRONG 72 GIỜ phải trao trả hoàn tất. 

Vấn đề là thời điểm nào Mỹ tuyên bố CHÁNH THỨC BẮT ĐẦU?

/4/ Hamas chưng hửng, lúng túng, và một số nước châu Âu hệt như bị tạt gáo nước lạnh, khiến cho lời tuyên bố "công nhận Palestine" trở thành... trớt quớt.

Bởi vì, RẤT BẤT NGỜ, các nước ở Trung Đông - gồm Ai Cập, Jordan là hai nước giáp biên giới với Israel, cùng với khối Ả Rập là Ả Rập Saudi, Qatar, UAE, và Thổ Nhĩ Kỳ đều đồng thuận với kế hoạch do TT Donald Trump đưa ra! 

Chính các nước ở Trung Đông chớ không ai khác, chính họ mới hiểu tiến trình cần phải như thế nào thì ĐEM LẠI HÒA BÌNH (không phải mấy nước châu Âu tự cho mình cái quyền tưởng tượng "công nhận Nhà nước Palestine" thì đem lại hòa bình).

Trong kế hoạch hòa bình của Donald Trump là CÓ CÔNG NHẬN nhà nước Palestine, nhưng không theo kiểu tuyên bố đong đỏng của vài ông chính khách châu Âu, mà cần phải chứng tỏ có sự trưởng thành trong hiểu biết thực tế! 

Chưa kể còn có hai quốc gia Hồi giáo là Pakistan, Indonesia cũng đồng thuận với kế hoạch hòa bình do TT Trump tung ra.

5/ Một ỦY BAN HÒA BÌNH TRUNG ĐÔNG được lập ra, giám sát tiến trình tái thiết Dải Gaza trở thành Đặc khu phát triển kinh tế, một đặc khu của Hòa Bình! 

Người dân Palestine (không phải thành viên Hamas) đều có quyền định cư, sanh sống nơi Gaza. 

ỦY BAN HÒA BÌNH TRUNG ĐÔNG gồm nhiều chính khách quốc tế có dày dạn kinh nghiệm (trong đó có cựu Thủ tướng Anh Tony Blair), các chuyên viên ngân hàng, kinh tế, và an ninh sừng sỏ. Chủ tịch Ủy ban Hòa bình Trung Đông là Donald Trump. 

Liên Hợp Quốc được mời ... ngồi chơi xơi nước, không còn có vai trò trong thiết lập BƯỚC NGOẶT TẠO HÒA BÌNH CHO TRUNG ĐÔNG. 

----------------------------------------------

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

"Qua" và "Bậu"

- Sưu tầm từ "Góc nhìn An Nam" -

"Qua" và "Bậu" đều là đại từ nhân xưng đặc trưng của miền Trung và miền Nam ngày xưa. Nhưng nó được dùng nhiều nhất là ở vùng đất phương Nam.

"Qua" là ngôi thứ nhất, nếu dùng riêng lẻ là từ xưng hô của người lớn tuổi với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi (là cô, chú, bác, anh, chị), nhưng khi dùng chung với "Bậu" thì nghĩa là anh, là cách xưng hô của chồng với vợ hoặc của người con trai với người yêu hoặc với người mà họ có ngỏ ý thương mến.

"Bậu" là ngôi thứ hai, là từ thân thương mà người con trai dùng để gọi vợ hay người yêu hay người con gái mà họ đem lòng thương mến.

"Bướm xa hoa, bướm dật, bướm dờ

Qua đây xa Bậu đêm ngày chờ trông."

Theo GS Lê Ngọc Trụ (1909-1979) gốc của từ "Qua" do chữ wá, hay đọc đúng hơn là u_á đọc theo giọng Triều Châu của chữ "ngã" tức là "tôi". Cũng có giả thiết khác rằng sự liên hệ từ "Qua" với tiếng Mường và tiếng Nhật nhưng có lẽ lối giải thích của GS Lê Ngọc Trụ dễ chấp nhận hơn bởi sự giản dị.

“Hôm qua Qua nói Qua qua mà Qua hổng qua

Hôm nay Qua nói Qua hổng qua mà Qua qua.”

Từ "Qua" được dùng rất nhiều trong các tác phẩm của Nhà văn Hồ Biểu Chánh (1884-1958) như: Thầy Chung trúng số, Tơ hồng vương vấn, Sống thác với tình, Ai làm được... và nhiều tác phẩm khác nữa.

Nếu "Qua" đã là từ Triều Châu thì "Bậu" cũng rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Nhà văn Bình Nguyên Lộc (1914-1987) có đưa ra gốc từ tiếng Mạ nhưng sau khi bàn luận với người Triều Châu, thì trong tiếng Triều Châu "pa_u" hay "pấu" (giọng đọc khác nhau tùy vùng) là vợ, một danh từ bình thường và khi ghép vào một chữ nữa mới phân rõ ngôi thứ như "cha pấu", "cha pa_u" (vợ tôi) "deo pa_u" (vợ yêu) như ta dùng Hán Việt "tệ phu, tệ nội, hiền phụ, hiền thê...” Người Việt chung sống với người Triều Châu đọc trại là "bậu" và "Bậu" trở thành đại từ ngôi thứ hai.

"Bậu có chồng chưa, Bậu thưa cho thiệt

Kẻo Qua lầm tội nghiệp cho Qua."

Dù với cách lý giải nào thì từ "Qua" và "Bậu" cũng đều là từ ngoại lai. Tuy nhiên, khi được Việt hóa, "Qua" và "Bậu" trở thành những từ ngữ độc đáo của tình cảm thương yêu đôi lứa thật súc tích.

"Bậu qua phà Rạch Miễu, Qua lẽo đẽo theo sau.”

Qua- Bậu tiêu biểu cho ngôn từ Việt hóa của miền đất phương Nam, trong đó bên cạnh tiếng Hoa còn phải kể tiếng Pháp, tiếng Miên... Từ ngữ Việt hóa gốc Hoa phần nhiều được sử dụng giới hạn ở miền đất phương Nam là vì điều kiện chung sống, hội nhập nơi đây. Mặc dù, số từ ngữ Việt hóa rất nhiều nhưng đi vào ca dao, văn chương phương Nam mạnh mẽ nhất có lẽ là hai từ "Qua" và "Bậu" (chiếm hơn phân nửa).

"Trách mẹ với cha chớ Qua không trách Bậu

Cha mẹ ham giàu gả Bậu đi xa.”

"Bậu có chồng như cá vô lờ,

Tương tư nhớ Bậu, dật dờ năm canh."

"Bậu về kẻo mẹ Bậu trông,

Kẻo con Bậu khóc, kẻo chồng Bậu ghen."

"Ví dầu tình Bậu muốn thôi

Bậu gieo tiếng dữ cho rời Bậu ra

Bậu ra Bậu lấy ông câu

Bậu câu cá bống chặt đầu kho tiêu.”

Nhà thơ Phạm Hải Đăng cũng sáng tác rất nhiều bài thơ có "Qua" và "Bậu" như:

BẼ BÀNG TÌNH QUA

Nói hoài Bậu hổng thèm nghe

Để Qua ấm ức đầy ghe đem dìa!

Vô tình trong buổi chiều kia

Bậu theo người khác, tình chia cách tình

Mình ên Qua đứng lặng thinh

Nhìn theo con nước lục bình trôi theo

Trách ên Qua kiếp bọt bèo

Sóng xô sóng đập, sóng leo mạn thuyền

Mé sông bến đợi mình ên

Bông Bần bông Mắm rơi lền trắng sông

Đường tình bạc bẽo long đong

Tình duyên dang dở đắng lòng Qua đau

Bậu ơi! còn có thương nhau

Cửa Vàm Qua đợi, trái sầu Qua mang

Sông năm bảy ngã đò ngang

Bậu không dìa nữa bẽ bàng tình Qua.

***

BẬU THÔI ĐƯA ĐÒ

Mưa chiều, Qua dõi mắt theo

Bến xưa tình cũ ai gieo câu thề

Bậu còn nhớ đến tình quê

Để Qua trông ngóng, khi về cô đơn

Bậu đi mưa gió dỗi hờn

Lòng Qua trĩu nặng như con đò chiều

Ngày nào tíu tít lời yêu

Tay Qua Bậu nắm nói điều mộng mơ

Sông Cửa Vàm thuở tình thơ

Qua thương Bậu nói: “mình chờ nhé Qua!"

Nào dè đâu, Bậu đã xa

Trầu cau chưa thắm, người ta lấy chồng

Đứng nhìn chim sáo sang sông

Để Qua lẻ bạn đau lòng Bậu ơi

Giờ đây, cách biệt phương trời

Quê nghèo miệt thứ, Bậu thôi đưa đò.

Ngày nay, "Qua" và "Bậu" đã trở thành dĩ vãng nhưng đối với những người con vùng đất phương Nam xưa, hai từ Qua - Bậu bình dị, chân quê này luôn gợi nhớ về một thời sơ khai với những tình cảm êm đềm, mộc mạc nhưng thấm đượm chân tình của những năm tháng cũ thân thương.

 Chuyện của Sơn

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

Hiệu Minh blog: Good Bye America - Chia tay nước Mỹ

 Good Bye America - Chia tay nước Mỹ

Thời thò lò mũi xanh, mình biết nước Mỹ qua ngọn đèn dầu hoa kỳ chuyên học bải đêm, chả hiểu có liên quan tới Hoa Kỳ hay không nhưng mình nghĩ bụng, Mỹ vớ vẩn quá, sao lại có ngọn đèn leo lét…vầy. Thế mà như định mệnh, mình lại đến nước có cái đèn này.

Chuyến bay Washington DC – Hà Nội qua ngả Seoul sau 24 tiếng đã hạ cánh. Cuối cùng thì lão Cua cũng chia tay nước Mỹ như một người Việt ăn rau muống. Y ra đi từ đồng chua nước mặn của đất Hoa Lư, đến Hoa Kỳ sang trọng và khi hưu cũng không khác kẻ nhà quê, cho dù y đi khắp nẻo “càng đi càng thấy mình nhỏ bé” như cái slogan của Hiệu Minh Blog.

Về hưu đã 10 năm như một cơn gió thoảng, kể ra cũng làm được khá việc, đi về quê nhiếu hơn, tìm lại những giá trị nền tảng của gia đình, làm album, làm phim về người cha nhân dịp 100 năm ngày sinh, hoàn thành cuốn sách “Nước Mỹ từ A đến Z”, tham gia vào chính phủ điện tử và chuyển đổi số, viết báo, dạy truyền thông, đi chơi và du lịch kha khá, có tổ ấm êm đềm.

Tháng 9-1995 lần đầu lão Cua đi Mỹ theo ngả Hồng Kong, 20 năm sau (1-2015) về hưu y bay qua Seoul về Hà Nội, lần này (9-2025) cũng vậy. Chả hiểu sao mình có cảm giác không quay lại nước Mỹ nữa, những chuyến đi với hàng triệu km milage chỉ còn là kỷ niệm.

Luck và Bin khi sang Mỹ mới 3 và 1,5 tuổi, giờ các con đã tốt nghiệp đại học, đã đi làm, Luck (Minh) ở Texas, Bin (Hiệu) đang học thêm thiết kế nội thất ở Ba Lan. Tháng 4/2025 mình sang Mỹ để dự lễ tốt nghiệp của Bin, coi như nhiệm vụ đã hoàn thành. Vẫn ở ngôi nhà cũ ở Arlington (VA) mấy tháng, biết bao buồn vui, cuối cùng các con đi hết, ngôi nhà mang tên cô hàng xóm, không có lý do gì để quay lại chốn xưa. Chia tay lần này có thể là mãi mãi.

Mình tới Mỹ khi Bill Clinton làm TT, sau đó là Bush con, tiếp theo Obama, Trump, Biden và lại Trump. Năm ngoái (10/2024) mình ở đó thì Trump và Harris đang ganh đua, lẽ ra ở thêm để xem vở kịch nhưng rồi tắc lưỡi, chả để làm gì.

Mình biết nước Mỹ thời Clinton trẻ trung, hào hoa, rồi Bush con cũng thế, sau đó là Obama, mỗi thời một khác nhưng đó là thời êm đềm của nước Mỹ, chưa thấy cảnh ra đường phải sợ cảnh sát. Xưa dạo chơi ở công viên, dân chúng gặp nhau hay hello thân thiện, cảm xúc của mình về nước Mỹ vẫn nguyên vẹn như xưa, yêu quí và đầy thương mến.

Nhưng gần đây đã khác. Ai cũng tư lự, cúi đầu, không cười, nhìn nhau dò xét. Có lần gặp một bác cầm poster trước Nhà Trắng viết rất thú vị “Hate won’t make US great”. Vài lần đi qua ngã tư đèn đỏ, chả hiểu sao người ta bấm còi inh ỏi, mà ở Mỹ, bấm còi nghĩa là chửi thầm đấy.

Không hiểu do ai đó sai, do phải đợi người đi bộ, hay nhìn thấy mình đầu đen, mũi tẹt. Sự phân biệt chủng tộc, ghét bỏ người nhập cư, da trắng thượng đẳng…có thể thấy được trên phố kèm theo sự uất hận. 

Hôm đi ZOO ở Washington DC, một nhóm nhỏ thanh niên trẻ cỡ tuổi Bin Luck đi vượt qua và nhổ phì bọt vào trước mặt mình. Người bạn đi cùng ngạc nhiên vô cùng, sao người Mỹ bất lịch sự thế. Bạn từng đọc “Nước Mỹ từ A đến Z” nên thích xứ sở này. Nhưng những gì chứng kiến trên phố thì nước Mỹ không phải là nước Mỹ nữa. Một thăm dò gần đây của CNN cho biết, dường như những gì tốt đẹp của nước Mỹ đã qua rồi.

Vấn đề nhập cư, visa du lịch, visa làm việc, đối đầu giữa giá trị truyền thống và giá trị đương đại, cắt viện trợ, xóa bỏ Bộ GD, giải tán USAID, tariff, súng đạn, bắn giết vô cớ, những mâu thuẫn đang âm ỷ trong lòng nước Mỹ. Nhổ nước bọt vào mặt du khách là một ví dụ nhỏ nhưng chứa đựng sự xung đột lớn, đợi có dịp là bùng phát. Chưa biết Hoa Kỳ sẽ đi về đâu.

Thời mình viết blog cũng lo về VN sẽ bị phiền toái do đề cập những vấn đề chính trị, nhân quyền, tự do ngôn luận. Nhưng suốt mấy tháng bên Virginia mình không viết gì về Mỹ cũng do lý do trên. Chính quyền hiện nay không chấp nhận ai nói xấu TT hay chính phủ, visa bị hủy, bị bắt, bị trục xuất nếu viết linh tinh trên mạng XH. 

Truyền thông được cho là quyền tự do ngôn luận cao quí nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ cũng đang phải gọt chân cho vừa giầy, tự kiểm duyệt. Các trường đại học thuộc Ivy League như Harvard, Columbia, Princeton… cũng lao đao vì học thuật, đài VOA bị cắt sóng, ICE, vệ binh quốc gia…làm cho du khách cảm giác bất an.

Một thời giá trị Mỹ “tự do, dân chủ, nhân quyền” được rao giảng khắp thế giới nhưng bây giờ thì ít ai tin. Một thời tôi phải đắn đo khi viết về VN nhưng giờ đây lại đắn đo gấp bội khi viết về Mỹ. Một sự chuyển dịch lạ lùng.

Nhớ thời khi vào cửa khẩu Mỹ thì phía dành cho khách du lịch đông như kiến, bên công dân Mỹ cũng đông nhưng thủ tục nhanh chóng, giờ đây khách ít hơn, thay vì vui đến nước Mỹ, vẻ mặt ai cũng lo âu.

Những nơi đông du khách xưa như bảo tàng Smithsonian, National Mall, New York, Boston…giờ thấy ít dần, hầu hết là khách Mỹ, một sự thay đổi đáng ngạc nhiên.

14 năm trước (2011) tôi từng nghe Jeffrey Sachs, từng là giáo sư KT trẻ nhất ở Havard, tác giả của hai cuốn bán chạy nhất của New York Times là “The End of Poverty” và “Common Wealth”, được tạp chí Times cho trong danh sách 100 người ảnh hưởng đến thế giới năm 2004 và 2005, khi ông tới WB nói chuyện về cuốn sách “The Price of Civilization – Cái giá của văn minh”.

Jeffrey lo rằng suy thoái trong kinh tế làm cho Hoa Kỳ đi xuống, và sức mạnh chính trị và văn hóa đang đứng trước hiểm họa. Người ta bắt đầu đặt câu hỏi về chủ nghĩa tư bản có đang giãy chết?

Thống kê thời đó cho thấy 1% dân số là người giầu ở Mỹ đã chiếm tới 25% GDP, và chỉ 0,01% cũng đã chiếm tới 5% GDP. Như vậy sự chênh lệch giầu nghèo là rất lớn.

Kinh tế Mỹ khủng hoảng là do phẩm hạnh công dân của những nhà chính trị và kinh tế cao cấp có chiều hướng đi xuống. Hệ thống pháp luật, xã hội tiêu dùng, và kể cả bầu cử tự do dân chủ cũng không đủ nếu như người giầu (1% hay 0,01%) kia không hành xử một cách đàng hoàng, trung thực, có tấm lòng đối với xã hội và nói xa hơn là cả thế giới.

Như vậy nền tảng đạo đức lung lay đã làm cho nền kinh tế khủng hoảng. Nếu không tìm ra cách chữa chạy kịp thời thì Hoa Kỳ khó mà giữ được vị trí siêu cường, có khi thành ngọn đèn hoa kỳ leo lét thuở nào.

Cái giá của nền văn minh không rẻ. Để đạt được điều đó, người Mỹ cần phải là những công dân tốt: đóng thuế đàng hoàng, suy ngẫm sâu sắc những đòi hỏi của xã hội, thận trọng hướng dẫn thế hệ trẻ và nhân tâm chính là keo gắn kết xã hội lại với nhau.

Quả thật, sau 15 năm, những gì Jeffrey Sachs dự đoán về sự suy đồi của nước Mỹ đã đúng. Người ta từng nuốt từng lời của TT Hoa Kỳ, của các chính khách từ đất nước tự do. Nhưng bây giờ thì hơi khó tìm được sự đồng cảm toàn cầu.

30 năm trước mình tới cửa khẩu ở Los Angeles (California), cô biên phòng hỏi mình, anh sang Mỹ để làm gì, mình luôn có câu trả lời. Nhưng giờ thì các con trưởng thành, đã bay đi tìm tổ ấm, nếu có ai hỏi, có đi Mỹ nữa không thì mình không tìm được lý do chính đáng. 

Good Bye America. 

Bài và ảnh HM.

FBK. Ý. Như Vạn Sự: NHỮNG ĐỊA DANH MANG ÂM VỰC TIẾNG CHAMPA TRÊN LÃNH THỔ TRUNG PHẦN VN

NHỮNG ĐỊA DANH MANG ÂM VỰC TIẾNG CHAMPA TRÊN LÃNH THỔ TRUNG PHẦN VN 

Là một người đam mê Văn Hóa Champa (Chiêm Thành) trong người cũng mang 1/8 dòng máu Chăm vì bà Ngoại của PND là một người Chăm lai Việt (Cha Việt, mẹ Chăm). Nên đã có nhiều cơ may sở hữu các tài liệu cổ của đất nước người Hời. PND cũng đã viết một quyển sách nhỏ về những thứ liên quan đến Văn Hóa Chăm như rất tiếc không được xuất bản vì lý do mà nhà xuất bản đưa ra là:

“THỜI ĐẠI NGÀY NAY, KHÔNG ĐƯỢC KHƠI DẬY LỊCH SỬ CHIÊM THÀNH" 

Giờ này khi đã chính thức là một nhà nghiên cứu Văn Hóa thì PND danh chánh ngôn thuận hơn để viết về văn hóa. Không xuất bản cũng được thì để lại cho con cháu sau này làm tài sản văn hóa.

Hôm nay xin trích một chương nhỏ trong quyển sách về cách di chỉ tên gọi cũ của các địa điểm Trung phần VN ngày nay:

- ĐÀ NẴNG. Là biến dạng của từ Chăm DAKNAN. thì chữ dak có nghĩa là nước (Chăm cổ), nan hay nưn (tức lanưng) là rộng. Địa danh Daknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông (cửa sông Hàn bây giờ). Người Việt phiên âm ra thành Đà Nẵng. DAKNAN của Chăm người Trung Hoa gốc Hải Nam đọc là TOUNAN, do đó vào thời Pháp thuộc người Pháp phiên âm thành Tourane.

- KHÁNH HÒA: Vốn được phiên âm từ tên của Tiểu Quốc Kauthara. Một tiểu quốc hùng mạnh thế kỷ 14 trong hình thái liên tộc Champa.

- NHA TRANG. Thành phố thuộc xứ Kauthara cũ, người Chăm thường gọi là La Trang (La là nước, Trang là đan chéo) hàm ý chỉ nơi có hai luồn nước chảy đan chéo nhau. Danh từ Ia Trang được phiên âm ra thành Nha Trang ngày nay. Cũng có một nhận định khác là chữ Trang (trong Ia trang) có nghĩa là lau, sậy. Và từ Ia Trang dùng để chỉ vùng sông nước có nhiều lau sậy.

- PHAN RANG Là thủ đô của Vương Quốc Chàm cổ tên là PANDURANGA. Phiên âm sang tiếng Việt là Phan Rang.

- PHAN RÍ. Là thủ phủ của vùng đất phong của lãnh chúa Pin To Lo (Tân Đà La) thuộc tộc Cây Cau (Clan de l’Arequire) phía nam nước Chiêm Thành hay xung đột với Tộc cây Dừa (Clan du Cocotier) vùng đất Phú Yên ngày nay. Tiếng Chăm của Vùng đất Lãnh Chúa Pin To Lo là PARIK.  Người Việt phiên âm thành Phan Rí.

- PHAN THIẾT. Tiếng Chăm là Panthit có nghĩa là Vùng đất cực nam của Chiêm Thành. Người Việt phiên âm thành Phan Thiết.

- TU BÔNG. Vùng đất phía nam đèo Cả (phiên âm từ chữ Kau) có tên là Tưh Bboh có nghĩa là Đồng Vàng. Sau này người Việt đọc nhại thành Tuy Bông rồi dần dần thành Tu Bông.

- TUY HÒA: Thành phố thuộc tỉnh Phú Yên thời Chiêm Thành có tên là Tưh Bhal có nghĩa là Tháp Vàng. Sau này đọc dần thành Tuy Hòa.

- SÔNG ĐÀ RẰNG. Đó là con sông chảy qua phía nam Thành phố Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên. Từ Đà Rằng mang âm Chăm và có nguồn gốc từ chữ Dairios (tên của con sông này trước kia). Chính từ này lại được phiên âm từ chữ Dak Riong, có nghĩa là sông sâu trắc trở. Dần dần đọc chữ DakRiong thành Đà Rằng.

- ĐẬP ĐỒNG CAM. Đập Đồng Cam tọa lạc tại Phú Yên, nơi có đồng ruộng lúa nước lớn nhất miền Trung. Đập này xưa kia chắc chắn mang tên Chăm nhưng nay không ai còn nhớ nữa. Người Việt đặt tên đập này là Đập Đồng Chàm. Nhưng thời Pháp thuộc họ đọc Champa thành Campa (vì âm h câm) nên dần đổi Đập Đồng Cam.

- CÙ LAO CHÀM. Đó là một hòn đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nam. Trước đây, cù lao này là nơi cư trú của các dân chài Chăm (tức Chàm) và dĩ nhiên mang tên Chăm. Kaulau Cham. Trong đó Kaulau là nghĩ là Đảo. Về sau, qua biến đổi của lịch sử, người Chăm đã di tản đi nhiều nơi (có lẽ đông nhất là Hải Nam của Trung Quốc) và người Việt gọi địa danh này là Cù lao Chàm, nghĩa là cù lao của người Chăm cư trú trước đây.

- HÒA LAI: là một địa danh ở bắc Ninh Thuận thường được gọi là Ba Tháp, thuộc xã Tân Hải, huyện Ninh Hải. Trên quốc lộ số 1, du khách bắt gặp hai ngọn tháp Chăm cổ kính tọa lạc phía đông con đường, cách ranh giới Khánh Hòa – Ninh Thuận khoảng 8 km (ngọn thứ ba đã bị đổ nát từ lâu). Nơi đây chính là HÒA LAI. Xưa kia địa danh này mang tên là BHAL LAI Chính từ Bhal Lai này đã được phiên âm thành Hòa Lai.

- LAGI: tức là vùng huyện Hàm Tân bây giờ (thuộc tỉnh Bình Thuận), xưa kia là đất Nưgar LADIK của xứ Panduranga cũ (đọc là La-tik theo âm Chăm). Danh từ LADIK được phiên âm thành La Gi ngày nay.

- THỊ NẠI  Dọc theo duyên hải miền Trung Việt Nam, chúng ta tìm thấy nhiều địa danh mang tên Thị Nại như Đầm Thị Nại ở gần thành Quy Nhơn. 

Xưa kia, người Chăm sinh sống dọc bờ biển, bờ đầm thường làm nghề đánh cá. Mỗi buổi sáng hay buổi chiều đều có các thuyền đánh cá tấp vào một vài nơi nhất định (nơi có những cư dân đông đúc) để bán cá. Do đó, về lâu về dài, những nơi này hình thành những “chợ nhỏ”, chủ yếu là để bán cá tươi cho người địa phương và các dân buôn.

“Chợ nhỏ” đó tên Chăm là darak naih (darak là chợ, naih là nhỏ), đọc là “tàrạk neh”. Người Việt dịch chữ darak là Thị, còn chữ naih lại ngỡ là danh từ riêng. Từ Darak là chợ tiếng Hán có nghĩa là Thị. Và đọc dần thành Thị Nại.

- CHÀ RANG. Vùng núi ở phía nam xã An Hiệp quê hương PND một hang động cổ mang tên là Chà Rang. Thời Chiêm Thành có tên là Cơk Ranga. Từ Chà hay Trà trong tiếng Chăm là Cơk có nghĩa ngọn núi, Ranga có nghĩa là vùng đất. Rồi phiên âm dần đọc thành Chà Rang.

- CAM RANH. Tên chăm của vùng đất này là Cham-Nrahn rồi người Pháp phiên âm thành Cam-Ran đọc dần dần thành Cam Ranh. Theo nghĩa cũ là “Mảnh vườn của người Chăm”

- QUÁN CAU. Đây cũng là địa danh nơi PND được sinh ra nên bị gọi là dân Quán Cau. Có rất nhiều sự giải thích về tên gọi này là vùng đất trồng nhiều Cau nên được gọi là vậy. Như thật sự không phải vậy khi lật quyển Sử Chăm do Bà Ngoại để lại thì Vùng đất này vốn có tên chăm là Urang Kaulau (Urang là người, Kaulau: là cù lao) chỉ những người sống nghề chài lưới ven đầm. Cụ Lương Văn Chánhh vào tiếp quản đặt tên Phú Yên (tên tiếng Chăm là Aiaru) nghĩa là vùng đất trù phú và yên bình. Và từ Urang Kaulau đọc trại thành Quán Cau.

- LA HAI: Là một thị trấn vùng núi của Phú Yên, tiếng Chăm được viết là La-naih có nghĩa là Vùng nước Nhỏ. Người Việt đọc phiên âm thành La Hai.

Và còn nhiều địa danh khác nữa như Đại Lãnh, Vạn Giã, Ô Loan, Phú Túc, Phú Bổn, Sông Trà Khúc, La Ngà, Đa Nhim, Cù Mông, Cà Ná, Trà Cú, Cam Lộ … đều xuất phát từ tên gốc là tiếng Chiêm Thành.

TRT

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2025

FBK. Nguyễn Chương-Mt: Kỳ 2: ĐÀNG TRONG là một "ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ"

Kỳ 2: ĐÀNG TRONG là một "ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ"

Đây nhấn mạnh một dữ kiện mà rất nhiều người không biết đến, khi phân đôi Đàng Trong và Đàng Ngoài:  

- Đàng Ngoài trở lại khớp với biên cương lãnh thổ "TĨNH HẢI QUÂN" (thời Ngô Quyền, đây là tên gọi do Tàu đặt ra, và Ngô Quyền chưa đổi sang tên khác). 

- ĐÀNG TRONG (từ Quảng Bình trở vô, theo dòng thời gian sau đó đã mở rộng tới tận Cà Mau) là một không gian lãnh thổ KHÔNG DÍNH DÁNG GÌ ĐẾN & HOÀN TOÀN KHÁC với "Tĩnh Hải quân".

Mời đọc kỳ 1 https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1289158441518133, để tỏ tường.  

&1&

Nhiều người đọc sử vội vàng nên tưởng rằng công trạng khẩn hoang ở Nam Kỳ là do các luồng di dân người Việt từ miền Bắc vào (?).

Hãy coi cho kỹ lưỡng:

Năm 1600, trong đoàn di dân theo chân chúa Nguyễn Hoàng bấy giờ CHỦ YẾU là dân ở xứ Thanh. xứ Nghệ (phía bắc miền Trung) (ngoài ra còn có một phần di dân từ đồng bằng sông Hồng). 

NHƯNG đến năm 1627 xảy ra chiến tranh Đàng Trong / Đàng Ngoài, chánh thức định cõi, chấm dứt các luồng di dân từ phía bắc vô Nam.

Chỉ có 27 năm ban đầu, trong dòng thời gian dài 200 năm của Đàng Trong (1600-1800, trước khi hợp nhứt cùng lúc hai Đàng), là có mặt di dân từ ngoài Bắc mà thôi. Mà trong 27 năm ban đầu ấy, Đàng Trong – chú ý - là chưa hề mở cõi tới đất phương Nam (sau này gọi là Nam Kỳ vào thời vua Minh Mạng / từ năm 1945 VNDCCH gọi là Nam Bộ).

Quí bạn hãy tưởng tượng: vào năm 1600 trong luồng di dân ngoài Bắc vô Đàng Trong, lúc đó có "những đứa bé mới sinh ra ngoài Bắc" được bồng bế. Đến quãng thời gian 1697

-1698 mới khởi lập những đoàn di dân vô Nam Kỳ thì "những đứa bé sinh ra ngoài Bắc" lúc này cũng đã già háp (79-80 tuổi) hoặc đã qua đời rồi đa.

CHỈ CÓ NHỮNG THẾ HỆ SANH RA và LỚN LÊN tại ĐÀNG TRONG đổ công đổ sức ĐỊNH CÕI tại miền châu thổ.

Nếu "kiên quyết quán triệt" di dân người Bắc đổ mồ hôi xây dựng Nam Kỳ (xin chú ý: thời điểm là vào cuối thế kỷ 17 - bước qua thế kỷ 18) thì có khác nào khẳng định do ...  các vong hồn người miền Bắc đội mồ sống dậy rồi bay chấp chới vô Nam, hóa phép dựng cõi? Nghĩ kỹ đi, "ảo" hết sức!

Và tiếp đó là gần một thế kỷ rưỡi ròng rã định cõi Nam Kỳ, đa số luồng di dân vô Nam đều SANH RA và LỚN LÊN tại Ngũ Quảng ở miền Trung - gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên - Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngoài ra còn có di dân xuất xứ từ Bình Định, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận. 

* Nói chút về Quảng Bình: tỉnh này thuộc miền Trung về địa lý tự nhiên chớ miền Bắc nào vô đây? Mặt khác, Quảng Bình lại thuộc về NAM HÀ, tức MIỀN NAM về mặt phân giới địa lý chính trị lúc bấy giờ (MIỀN NAM tức Đàng Trong / MIỀN BẮC tức Đàng Ngoài). 

&2&

Không thể nào nhắm mắt trước một thực tế lịch sử hiển nhiên, đó là: công lao đổ mồ hôi sôi nước mắt của rất nhiều thế hệ SANH RA & LỚN LÊN tại Đàng Trong để gầy dựng Nam Kỳ nói riêng và Đàng Trong nói chung! 

Phải biết ghi ơn cho đúng mức, cho thực kỹ lưỡng. 

Đàng Trong, so với Đàng Ngoài (trong khoảng gần hai thế kỷ định cõi), miền nào phồn thịnh hơn? Miền nào đẩy mạnh tiến trình giao thương với quốc tế nhiều hơn? Miền nào thoát khỏi não trạng "Hán hóa" tốt hơn? 

(chỉ MÃI SAU NÀY, SAU THỜI ĐỊNH CÕI ĐÃ XA, sau khi hợp nhứt sơn hà mới xuất hiện những luồng di cư từ miền châu thổ ngoài Bắc vô Nam để làm ăn)

----------------------------------------------------------------------

Hình ảnh (trên): Đền thờ Thái miếu 9 đời Chúa Nguyễn tại Huế; 

Hình ảnh (dưới): Cảnh quan ở Nam Kỳ.



FBK. Nguyễn Chương-Mt:Kỳ 1: ĐÀNG TRONG là một "ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ":

Kỳ 1: ĐÀNG TRONG là một "ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ":

MỘT KHÔNG GIAN NƯỚC NAM, MỘT SỨC SỐNG MỚI !

I/ TĨNH HẢI QUÂN - CHIÊM THÀNH - ĐẾ QUỐC CAO MIÊN  

1) Sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, năm 938, lập nên Nhà Ngô, cương vực lãnh thổ về phía nam là "xứ Nghệ" - Nghệ An, Hà Tĩnh - mà biên giới được dựa theo ngọn núi Hoành Sơn (đèo Ngang). 

Bước qua đèo Ngang là lãnh thổ của một quốc gia KHÁC. 

Lúc bấy giờ nhà Ngô chưa đặt tên nước (qua thời Đinh kế tiếp mới đặt tên nước Cồ Việt), toàn bộ lãnh thổ vẫn còn gọi là "TĨNH HẢI QUÂN" 靜 海 軍 - đây là tên gọi dưới thời Tàu đô hộ (nhà Nam Hán) đặt ra.

("quân" 軍 là một đơn vị hành chánh lãnh thổ, dựa theo cách tổ chức quân sự mà phân giới, đừng lộn với "quận" 郡)

2) Vào thời điểm năm 938, bên kia đèo Ngang là quốc gia nào? 

Hết thảy các tỉnh từ Quảng Bình cho tới Bình Thuận (gọi theo tên sau này cho dễ hình dung) đều thuộc về lãnh thổ của VƯƠNG QUỐC CAMPANAGARA (chuyển ngữ qua chữ Hán ghi như ri: 占城 , "CHIÊM THÀNH"). Lúc bấy giờ, ở Chiêm Thành do nhà vua Indravarman III cai quản.

3) Còn miền châu thổ Đồng Nai - Cửu Long, thời xưa lắc, thuộc quốc gia nào? 

Vào thời điểm năm 938 (Ngô Quyền dựng nghiệp), bấy giờ vùng phương Nam này thuộc lãnh thổ của ĐẾ QUỐC KHMER (chuyển ngữ Hán tự là 高 棉, "CAO MIÊN"), còn gọi là Đế quốc Angkor. Bấy giờ do nhà vua Jayavarman V cai trị. 

Ủa, sao nói vùng này là "Thủy Chân Lạp" thuộc Vương quốc Chân Lạp? Chân Lạp là âm Việt đọc cho hai chữ Hán như sau 真 臘, từ "Chenla" mà thành. Vương quốc Chân Lạp tồn tại từ năm 627 đến năm 802, sau đó đổi tên là "Đế quốc Cao Miên" (Khmer Empire).

Nói nào ngay thì cũng vẫn lãnh thổ do người Khmer cai quản, nhưng tên gọi của quốc gia thì đổi (từ "Chenla" thành "Khmer", "Chân Lạp" thành "Cao Miên"), chúng ta quen gọi "Chân Lạp" cũng không sai (nhưng nếu ưa chuộng tính chính xác lịch sử thì thời điểm nào nên gọi đúng tên tồn tại vào lúc đó). 

[Nguyên ủy lãnh thổ phương Nam, xa xưa hơn nữa, thuộc Vương quốc Phù Nam (xuất hiện vào thế kỷ thứ 1) mang tính chất văn hóa Nam đảo, giao thương nhiều với Java, Indonesia, Malaysia... Chân Lạp của người Khmer đã từng là "chư hầu" của Phù Nam; nhưng vào thế kỷ thứ 7, Chân Lạp bật ngược trở lại mà "xóa sổ" Phù Nam luôn.]

II/ ĐÀNG NGOÀI - ĐÀNG TRONG: 

Dưới đời Lý, Trần, Hậu Lê có sự mở rộng lãnh thổ, vượt qua Đèo Ngang, tiệm tiến theo hướng Nam .... Và rồi, xảy ra sự định cõi Đàng Trong và Đàng Ngoài vào cuối thế kỷ 16 - đầu thế kỷ 17. 

Rất bất ngờ, rất kỳ lạ! Hai Đàng không phân ranh tại Quảng Trị, hay tại Huế... - mà trở lại ĐỊNH CÕI trùng khớp với sự định cõi từ thời Ngô Quyền (năm 938) với "Tĩnh Hải Quân", chỉ đến Hà Tĩnh là dứt! 

Đàng Ngoài là vậy, cũng Hà Tĩnh trở thành vùng biên cương. 

(nói cho thực đúng, là có xê xích chút ít thôi: thay vì phân đôi tại đèo Ngang thì phân đôi nơi sông Gianh chỉ cách đèo Ngang khoảng 30km, phần lớn Quảng Bình thuộc Đàng Trong) 

* Thấy gì? 

- Lãnh thổ Đàng Ngoài cũng là lãnh thổ "TĨNH HẢI QUÂN" (tên gọi do bên Tàu đặt ra mà thời Ngô Quyền vẫn giữ, chưa đổi tên khác).  

- ĐÀNG TRONG (từ Quảng Bình trở vô, theo dòng thời gian sau đó đã mở rộng tới tận Cà Mau), như vậy, hoàn toàn là một không gian lãnh thổ KHÔNG DÍNH DÁNG GÌ ĐẾN & KHÁC với "Tĩnh Hải quân"! 

"Thiên thư định phận" như vậy, để chi? 

Từ đây, dẫn đến sự khác biệt trong mô thức phát triển văn hóa & kinh tế của ĐÀNG TRONG: 

Nhờ vào sự tiếp biến với văn hóa của cư dân bản địa (người Chàm, người Khmer, một số sắc tộc từ Phù Nam còn định cư tại đây...) / tiếp nhận kinh nghiệm hàng hải rất giỏi của người Chàm / và rồi kinh nghiệm thương mại từ người Minh hương.v..v... mà ĐÀNG TRONG sở hữu một nội lực đa dạng. 

* Mời đọc Kỳ 2: https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1293346071099370

--------------------------------------------------------

Ghi chú: 

Ban đầu, lúc chúa Nguyễn Hoàng khởi lập Đàng Trong, bấy giờ biên cương phía nam giáp với Vương quốc PANDURANGA, bao gồm (nói theo tên sau này cho dễ hình dung) Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. 

Còn "Thủy Chân Lạp"? Không còn đế quốc Khmer nữa (suy tàn) mà đã chuyển sang "Thời kỳ hậu Angkor" gồm các triều đại: Chaktomuk => Longvek => Srey Santhor => triều đại Oudong.  

Lúc chúa Nguyễn khởi lập Đàng Trong, bấy giờ xứ Chùa Tháp đã bước vào TRIỀU ĐẠI OUDONG (kinh đô Oudong nằm ở Phsar Daek, nay thuộc tỉnh Kandal).  

----------------------------------------------------------------

Hình ảnh: Bản đồ TĨNH HẢI QUÂN thời Ngô Quyền (năm 983); 

Bản đồ năm 1611, giai đoạn đầu của ĐÀNG TRONG (chúa Nguyễn) / ĐÀNG NGOÀI (chúa Trịnh, vua Lê).


Nguyễn Thế Tuyền: TOÀN CẦU HÓA – CON DAO HAI LƯỠI?

Trần Nam Anh: Bài viết của nhà giáo Nguyễn Thế Tuyền rất chi tiết và logic, cho thấy toàn cầu hóa đúng là một “con dao hai lưỡi”. Nó giúp thế giới kết nối, tạo ra sự phát triển vượt bậc về kinh tế, khoa học, công nghệ, nhưng đồng thời cũng đặt phương Tây vào thế tự ràng buộc và phụ thuộc vào những đối tác mà họ từng nghĩ sẽ “tự thay đổi”.

Theo mình, điểm mấu chốt là toàn cầu hóa không chỉ thuần túy là vấn đề kinh tế, mà còn là câu chuyện về thể chế, văn hóa và chiến lược. Phương Tây đã quá tin rằng kinh tế thị trường sẽ kéo theo tự do chính trị, trong khi thực tế ở Trung Quốc và Nga lại cho thấy ngược lại: họ tận dụng kinh tế để củng cố quyền lực chính trị.

Thế giới ngày nay không thể quay lưng với toàn cầu hóa, nhưng cần một cách tiếp cận tỉnh táo và thực dụng hơn. Thay vì “trao toàn bộ công nghệ” để đổi lấy thị trường, các nước phát triển cần đặt ra giới hạn rõ ràng, đa dạng hóa chuỗi cung ứng và chú trọng cân bằng giữa lợi ích ngắn hạn với an ninh lâu dài.

Nói cách khác, bài học là: Toàn cầu hóa cần sự khôn ngoan và cảnh giác, nếu không sẽ biến thành cái bẫy do chính mình dựng nên.

👉 Dưới đây là toàn bộ bài viết của nhà giáo Nguyễn Thế Tuyền ( Fb Tuyen Nguyen)-từ Berlin.

——————

TOÀN CẦU HÓA – CON DAO HAI LƯỠI?

Nghiên cứu lịch sử để người ta biết những gì đã xảy ra trong quá khứ và từ đó rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai.

Từ gần một chục năm nay, tôi có linh cảm quá trình toàn cầu hóa ít nhiều phương tây đã phạm sai lầm chiến lược để dẫn đến tình trạng ngày nay. Trước hết xin ôn lại sơ lược lịch sử dẫn đến quá trình toàn cầu hóa sau khi chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước.

Chủ nghĩa phát xít ra đời cách đây một thế kỷ, đứng đầu là Đức quốc xã. Đó là một chủ nghĩa cực kỳ nguy hiểm cho loài người vì nó tiêu diệt mọi hình thức dân chủ, tôn chủ nghĩa dân tộc và dùng vũ lực chiến tranh để mong cai trị cả thế giới. Phần lớn các nước trên thế giới đều thống nhất là phải xóa sổ tư tưởng này để loại trừ hiểm họa cho nhân loại. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bằng việc phát xít Đức tấn công Ba-Lan tháng 9 năm 1939 đã làm bùng nổ cuộc đại chiến khốc liệt trên lục địa châu Âu. 

Dù khác nhau về quan điểm và mục đích xây dựng xã hội, các nước vẫn tạm thời bắt tay nhau, tạo thành đồng minh tiêu diệt phát xít. Liên minh này gồm Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ hình thành khi Hitler điên cuồng muốn thôn tính cả châu Âu. 

Thế nhưng, sau khi chế độ phát xít bị tiêu diệt, sự rạn nứt trong quan hệ Mỹ- Xô  ngày càng rõ rệt. Mặc dù thế, tổng thống Mỹ hồi đó là Roosevelt vẫn muốn thực hiện một chính sách ONE-WORLD-POLITIC, cụ thể là trong tương lai những tranh chấp giữa các quốc gia phải được giải quyết bằng con đường đàm phán, từ bỏ hoàn toàn vũ lực, trong đó Liên hiệp quốc đóng vai trò trung tâm. 

Nhưng Liên Xô muốn bành trướng ảnh hưởng của mình nên đã lập lên hàng loạt các nước vệ tinh cùng thể chế, gọi là phe XHCN. Ngoài ra, Liên Xô còn nhắm mục tiêu lôi kéo Thổ Nhĩ Kỳ và Hy lạp vào phe mình. Trước tình hình ấy, Mỹ phải thay đổi thái độ và „Bức màn sắt“ chia dọc châu Âu (lời của thủ tướng Anh Churchill) xuất hiện. Phía đông bức màn sắt này gồm các nước: Liên-Xô, Ba-Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Rumani, Bulgari. Còn sát phía tây bức màn sắt là Phần-Lan, Tây Đức, Áo, Hy-Lạp. Nam-Tư cũng nằm bên phía tây đường biên này nhưng là nước không theo phe nào.

Có bức màn sắt, người ta không thể biết những gì xảy ra ở bên kia, hai bên luôn đề phòng nhau, sẵn sàng đặt ngón tay vào cò súng. Đó là dấu chấm hết cho chính sách ONE-WORLD-POLITIC để chuyển sang chính sách CONTAINMENT- POLITIC nhằm cản sự bành trướng của Liên-Xô. Từ đó lý thuyết hai hệ thống đối đầu ra đời (Chiến tranh lạnh giữa Khối XHCN do Liên Xô đứng đầu và TBCN do Mỹ đứng đầu) 

Mỹ muốn giúp đồng minh ở Tây Âu để họ đủ mạnh có thể đương đầu với Liên-Xô nên đã đổ tiền vào các nước bên sườn tây của “Bức màn sắt” mong vực các nền kinh tế của họ đã kiệt quệ vì chiến tranh (bắt đầu từ năm 1947). Tiền và hàng từ Mỹ đổ về và dựa trên chính sách kinh tế thị trường tự do, các nước phương tây hồi phục nhanh chóng rồi phồn vinh, trong khi sự phát triển ở Đông Âu ì ạch vì vận hành theo chính sách kinh tế kế hoạch. 

Sau hai chục năm có “bức màn sắt”, tình hình không hề dịu đi mà mâu thuẫn còn lên cao hơn. Trước tình hình đó, một số chính trị gia Tây Âu, trong đó nổi bật nhất là Thủ tướng Đức Willy Brandt, có ý tưởng phải thay đổi chiến lược: Cải thiện các mối quan hệ thông qua thân thiện (1970). Chính phủ của ông đã ký hàng loạt hiệp ước hợp tác kinh tế với CHDC Đức, Ba-Lan, Hung-ga-ri, Liên – Xô. Sự hợp tác ấy mang lại lợi ích cho cả hai bên và dần dần dân chúng không còn nhìn nhau như kẻ thù nguy hiểm nữa. Bức màn sắt thưa dần, người dân hai bên đã hiểu một chút về nhau và biết được sự phát triển xã hội của bên kia. 

Mọi cố gắng của nền kinh tế XHCN dần dần cũng đụng tới giới hạn, không thể phát huy tiềm năng và tài nguyên của đất nước một cách tối ưu. Cuối những năm 70, tình hình ở một số nước bắt đầu căng thẳng như ở Ba-Lan, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri. 

Đặc biệt người dân CHDC Đức biết khá rõ những người bà con của họ ở bên kia biên giới sống ra sao, vì họ cùng một dân tộc. Chính vì thế, phong trào phản đối ở đây mạnh nhất dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường Berlin tháng 11 năm 1989. Khoảng một năm sau đó, hàng loạt các nước Đông Âu nổi dậy, không chấp nhận chế độ ở nước họ và muốn xây dựng nhà nước đa nguyên đa đảng, tự do dân chủ theo mô hình phương tây. Chiến tranh lạnh kết thúc!

Phương tây đã nghĩ rằng, thể chế dân chủ đã chiến thắng trên phạm vi toàn cầu. Trên thế giới chỉ còn tồn tại vài nước vẫn theo CNCS. Người dân ở các nước phương tây vốn đã giàu có nên nhu cầu tiêu thụ hàng hóa không còn cao như  trước đây nữa. Các hãng phương tây muốn bán hàng cho các nước nghèo khác. Một thị trường mênh mông, đặc biệt là thị trường Trung Quốc với 1,4 tỷ người cuốn hút họ. 

Thế rồi họ nhận ra, tại sao mình không sản xuất ở ngay trên đất nước họ và tận dụng công nhân rẻ mạt để lợi nhuận cao hơn. Toàn cầu hóa về kinh tế ra đời từ đó. 

Ta có thể hiểu nôm na khái niệm “Toàn cầu hóa” như thế này: Một mặt hàng được thiết kế ở CHLB Đức nhưng mua nguyên liệu ở Ukraine rồi đưa sang Trung Quốc sản xuất. Hàng hóa từ đó bán cho dân Trung Quốc và các nước xung quanh, vừa chi phí rẻ, vừa có lợi nhuận rất cao. Đó là thời kỳ hoàng kim của các hãng công nghiệp Tây Âu. 

Các ông chủ hãng ở Tây Âu nói với các nước tiếp nhận đầu tư rằng: Chúng tôi sẽ sản xuất ra những máy mọc tinh vi, thuốc men cao cấp, còn các anh sản xuất hàng tiêu dùng rồi chúng tôi mua lại của các anh. Chúng tôi bỏ tiền xây dựng hãng xưởng ở đất nước các anh và tạo công ăn việc làm cho dân chúng, đóng thuế cho chính phủ các anh. Hai bên gật gù, hoàn toàn đồng ý thỏa thuận.

Khoảng chục năm đầu tiên, các hãng công nghiệp châu Âu thu lợi nhuận rất tốt. Họ sẵn sàng để cho dân nước họ thất nghiệp và mang việc làm đến tặng dân các nước họ đầu tư, vì giá công nhân ở châu Âu rất đắt (Ví dụ, mới chỉ công may một chiếc áo sơ mi ở Đức ít nhất cũng phải 7 Euro, trong khi ở Trung Quốc kể cả tiền vải và công may chỉ có 5 Euro mà chất lượng tương đương). Thất nghiệp ở Mỹ và châu Âu tăng mạnh dẫn đến bất ổn xã hội, chủ nghĩa dân túy có đất phát triển và biến Trung Quốc trở  thành xưởng sản xuất hàng tiêu dùng cho cả thế giới.

Sau khoảng chục năm, giới lãnh đạo Trung Quốc cho là thời điểm họ mong chờ đã đến. Họ ra điều kiện cho các hãng phương tây: Các anh đầu tư vào đất nước này, chúng tôi rất hoan nghênh. Chúng tôi sẽ giảm thuế cho các anh, cho các anh thuê đất rất rẻ và cho phép các anh tiếp cận những thị trường mênh mông khác, không giới hạn. Chúng tôi chỉ yêu cầu một điều kiện. Đó là, các anh phải để lại công nghệ sản xuất cho chúng tôi, phải đào tạo nhân viên của chúng tôi thành những chuyên gia. Chấm hết!

Điều đó có nghĩa là, bao nhiêu bí mật nhà nghề do nghiên cứu hàng trăm năm qua, bây giờ phải tuôn ra hết. Đồng ý ký hay không đây? Mình không ký thì thằng khác nó lại nhảy vào mà thị trường thì béo bở, hốt bạc. Vả lại nhiệm kỳ mình làm Manager chỉ có vài năm thôi, phải tranh thủ chứ vì đằng nào vốn liếng của mình đã nằm chết ở đây rồi. Thế là sau vài đêm mất ngủ, họ nhắm mắt nghiến răng ký!

Trung Quốc chỉ chờ có thế. Họ dùng toàn bộ trí tuệ để thu Know- How của những nước văn minh bằng nhiều con đường, kể cả gián điệp kinh tế nhan nhản. 

Có những khi họ mua hai hoặc ba cái máy hiện đại hoàn toàn giống nhau. Một cỗ máy họ tháo ra nghiên cứu từng con ốc, viên bi rồi cho sản xuất lại những bộ phận ấy để copy hoàn toàn thành một chiếc máy mới. 

Hồi đó Trung Quốc ký với Đức làm đường sắt cao tốc 400 km/h. Họ nói, trước hết thử nghiệm từ sân bay quốc tế về trung tâm thành phố Thượng Hải 50 km, sau đó sẽ mở rộng ra toàn đất nước. Thủ tướng Đức Gehardt Schröder và thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ hân hoan cụng ly sâm banh trên đoạn đường sắt mới khánh thành. Nhưng đó là đoạn đường duy nhất Đức làm, sau đó TQ tự làm và bắt chước công nghệ Đức một cách tài tình!

Với việc đẩy mạnh toàn cầu hóa, phương tây tin rằng, một mặt kiếm lời, mặt khác sẽ biến thể chế của những nước này dần dần “tự do hóa” và hội nhập vào trật tự như ý họ muốn. Nhưng họ đã lầm. Chỉ trong vòng hơn 20 năm, từ một đất nước lạc hậu, Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế và công nghệ, thách thức vai trò của phương tây, trong khi họ vẫn giữ thể chế độc tài. 

Phương tây đã tự tạo ra sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng từ Trung Quốc như thuốc men, hàng tiêu dùng, đất hiếm. Họ đã tạo điều kiện để đối thủ vươn lên, mô hình xã hội tự do của phương tây bây giờ kém tính hấp dẫn hơn trước.

Có lẽ vì sự thành công trong chiến lược “Cải tổ thông qua thân thiện” của những năm 70 thế kỷ trước nên phương tây chủ quan ứng dụng cho các nước có nền văn hóa khác họ nhiều. Họ ít nghiên cứu về bản chất con người TQ và ngây thơ dễ tin nên nhiều trường hợp rơi vào tình trạng “nuôi ong tay áo”. Đối với Nga cũng thế. Bản chất của chính phủ Nga thể hiện rất rõ từ năm 2014 khi họ ngang nhiên thôn tính bán đảo Krim của Ukraine, nhưng phương tây chỉ phản đối lấy lệ. Phương tây chỉ nhìn lợi ích kinh tế và nguồn năng lượng rẻ từ Nga, bây giờ giật mình thì đã hơi muộn.

Nói tóm lại, quá trình toàn cầu hóa là quá trình phát triển tất yếu, nhưng phương tây chủ quan, ít nhiều thật thà khờ khạo và bây giờ phải trả giá đắt. Hy vọng đây là bài học xương máu để họ đánh giá các đối tác chiến lược trong tương lai. Tôi giật mình khi nghe thấy một chính trị gia cao cấp Đức phát biểu: “Từ trước đến nay chế độ độc tài chỉ có thể phồn thịnh một thời gian ngắn. Nhưng có thể bây giờ sẽ khác!”. 

Nguyễn Thế Tuyền

FBK. Rùa Tiên Sinh: Chúng ta không hề chống lại bất kỳ điều gì giúp Tổ Quốc mình thịnh vượng, hùng cường

Nếu những người đã theo dõi Facebook của em thì các cụ cũng biết. Chúng ta không hề chống lại bất kỳ điều gì giúp Tổ Quốc mình thịnh vượng, hùng cường.

Bản thân em hay tham vấn với nhiều người cũng có chức vị, tạm gọi là cấp khá cao, nhưng mình nói là 1 chuyện, còn các cốp có nghe và làm được không lại là chuyện khác. Rùa em trăn trở với những khó khăn của Việt Nam, những đường hướng sai lầm và nhưng thách thức thời đại mà chúng ta càng ngày càng phải đối mặt 1 cách quyết liệt.

Chúng ta không nhận mình là tri thức mới, nhưng chúng ta là công dân Việt Nam, chúng ta quan tâm đến vận thế quốc gia, lo lắng cho đất nước này đi trên những chặng đường dài chông gai để cải cách.

Thời đại mới, chúng ta không nên ảo tưởng về những sự ổn định giả tạo, xã hội chúng ta không biểu tình, không bạo động, nhưng xã hội đang trải qua những cảm giác bức xúc nhất, chúng ta mệt mỏi không? Cực kỳ mệt mỏi và ngột ngạt trong 1 xã hội ổn định và thịnh vượng giả tạo.

Tụi phương tây đã thất vọng với ta rồi nên bắt đầu trả đũa kinh tế, đang dùng kinh tế để bóp chúng ta, có vẻ tụi nó không cho chúng ta đứng theo kiểu 7-3 hay 4-6 mà là rõ quan điểm không khôn lỏi mập mờ nữa… khi Cô gái đẹp đã “mất trinh” thì một là làm vợ 2 là làm đĩ chứ không còn ỏng ẹo kiếm quà nữa rồi, đừng tỏ ra khôn lỏi kiểu tay phải nhận quà tay trái sờ cu thằng khác.

Trong nhiều bài phân tích địa chính trị của Việt Nam, em nói rằng Việt Nam có vị trí chiến lược quan trong trong khu vực, nhưng chúng ta không phải chốt chặn của các siêu cường, đừng ảo tưởng, chúng ta quan trọng trong khu vực địa lý, nhưng chúng ta cũng đang đối mặt với nhiều thách thức ở mọi phía từ phía bắc, phía đông, phía tây và hướng đông nam, kỳ thực , chúng ta đang bị bao vây, chúng ta không có khả năng vươn ra ngoài, chúng ta cực kỳ dễ tổn thương về mặt an ninh quốc phòng và an ninh kinh tế.

Chúng ta đã lựa chọn sai trong 15 năm từ 1985, chúng ta bỏ lỡ những thời điểm quan trọng nhất ở ASEAN, chúng ta ngạo nghễ với GDP sánh ngang hàng hoặc thua kém 1 chút với Thái Lan, Malaysia, Indonesia nhưng đó là những thống kê hết sức trẻ con mang tính ru ngủ. Chúng ta không tính đến sự tích lũy nguồn lực tài chính tư bản, tích lũy nguồn lực quốc gia về công nghệ, đổi mới hành chính, nâng cấp chất lượng xã hội, vốn công nghệ, tư duy xã hội hóa công sở, chuyên môn hóa văn hóa công nghiệp, những thứ này GDP không thể phản ảnh hết (và Rùa em chưa tính chúng ta không thống kê minh bạch được tốc độ tăng trưởng thật sự so với lạm phát, không phải ai có tri thức cũng tin rằng Việt Nam tăng trưởng 7.5% trong 3 năm qua)

Thôi thì 1 đời người cũng có thế, để mặc kệ thì ngứa mắt, ngứa mồm, mà nói ra cũng không thay đổi được gì, thôi kệ đi, biết phải làm sao ???

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

tienphong.vn: NGƯỜI RỤC - HẬU DUỆ NGƯỜI VIỆT CỔ

 NGƯỜI RỤC - HẬU DUỆ NGƯỜI VIỆT CỔ: 

Người Rục - Hậu duệ của người Việt cổ giữa đại ngàn Quảng Bình

Cuối năm 1959, Bộ đội Biên phòng Cà Xèng đóng tại Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, trong một lần tuần tra đã phát hiện một nhóm “người rừng” nhút nhát, người không mảnh vải che thân, leo trèo vách đá, chuyền cành nhanh như thú hoang.

Sau nhiều tháng tiếp cận, những chiến sỹ Biên phòng đã vận động được họ rời hang đá về định cư ở thung lũng Rục Làn, thuộc xã Thượng Hóa. Và từ đây tộc người Rục được biết đến như là người em út trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đến đầu năm 2013, sau hơn 50 năm hòa nhập cộng đồng, tộc người Rục được quốc tế đưa vào danh sách 10 bộ lạc còn nhiều điều bí ẩn nhất thế giới.

Theo ông Đinh Thanh Dự, Nhà nghiên cứu văn hóa các tộc người ở Quảng Bình, gần hết một đời người bỏ công nghiên cứu nhiều tộc người trên địa bàn, nhưng với người Rục vẫn còn nhiều điều bí ẩn đối với bản thân ông và các nhà khoa học đã từng nghiên cứu về họ. Nay tuổi già, sức yếu không cho phép ông có những chuyến điền dã, nhưng ông vẫn luôn đau đáu về những gì còn dang dở với người Rục.

Ông Dự khẳng định, bản thân người Rục không có họ, không có tộc danh, là một tộc người chậm phát triển nên vẫn đậm nét người Việt cổ. Vì họ sinh sống ở những hang đá, mà theo phương ngữ “rục” có nghĩa là hang đá có nước chảy qua nên các tộc người khác gán ghép cho họ là người Rục. Qua nghiên cứu về nhân chủng học, ngôn ngữ của người Rục, các nhà khoa học đã ghép tộc người Rục vào nhóm dân tộc Chứt ở Quảng Bình cùng với Sách, Mày, Mã Liềng, A Rem...

Trước khi rời hang đá, người Rục có 109 người, sống tách biệt, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, gặp người lạ là trốn chạy. Cuộc sống người Rục hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Họ chỉ quen leo trèo cây, thoăn thoắt trên các triền núi cao ngất để săn bắt chim thú, hái lượm, đào củ ráy, củ mài. Không mặc quần áo, nam nữ đều búi tóc đằng sau, che mình bằng vỏ cây sui, khi màn đêm buông xuống, họ cùng nhau tìm đến hang đá trú ngụ và thường ngủ ngồi.

Sau hơn 50 năm rời hang đá, nhưng vợ chồng ông Cao Chơn và Cao Thị Bim (hơn 80 tuổi) vẫn giữ nguyên nếp sống nguyên thủy của mình. Mặc dù đã được Nhà nước xây nhà, cấp đất trồng trọt nhưng ông bà không ở nhà mà thường xuyên chuyền hang đá để ở. Hai vợ chồng già vẫn nếp cũ, ngày săn bắt hái lượm, tối về hang ngủ ngồi mặc cho con cháu, chính quyền vận động.

Trưởng bản Mò O Ồ Ồ, anh Cao Văn Đàn (39 tuổi) cho biết, không chỉ ông bà Cao Chơn mà gần 500 người Rục hiện nay thi thoảng vẫn nhớ hang đá. Mặc dù có nhà cửa, nhưng cứ đến mùa rẫy nhiều gia đình vẫn dắt díu nhau vào hang sinh sống có khi vài ba tháng mới về...

Người Rục và những bí ẩn chưa lời giải

Theo ông Đinh Thanh Dự, hiện trong cộng đồng người Rục vẫn còn tồn tại hai dạng phép thuật rất bí hiểm mà các tộc người khác không có, đó là: Thuật thổi thắt, thổi mở và thuật hấp hơi. Trong những lần điền dã, ông Dự đã từng chứng kiến sự linh nghiệm của hai phép thuật này, nhưng cố công nghiên cứu về nó thì không thể. Vì người Rục xem đó là sự linh thiêng, không thể tiết lộ cho người ngoài.

Về phong tục ngủ ngồi, Cao Văn Đàn nói mình thế hệ sinh ở nhà nên không rõ lắm, nhưng có lẽ do nền đá cứng nếu nằm thì đau lưng. Với lại, xưa người Rục nhút nhát nên ngồi để dễ cơ động (chạy trốn) khi gặp người lạ và những mối đe dọa khác.

Ông Dự cho biết: Thuật thổi thắt, thổi mở của người Rục là dùng bùa chú thổi vào người phụ nữ để sinh hoạt vợ chồng không có con (gọi là thổi thắt); còn khi cần có con cũng dùng bùa chú để thổi vào người phụ nữ (gọi là thổi mở). Ngoài ra, người Rục còn có thuật hấp hơi để tránh thú dữ. Mỗi khi vào rừng, người Rục chỉ cần đọc câu thần chú thì dù có hổ, báo, voi rừng cũng không dám đến gần để tấn công. Điều này qua thực tế, dù sống chốn thâm sơn cùng cốc, nhưng chưa ai ghi nhận người Rục bị mãnh thú tấn công.

Trưởng bản Mò O Ồ Ồ, Cao Văn Đàn cho biết, những phép thuật nói trên nay không còn phổ biến trong cộng đồng người Rục, nhưng những thầy Ràng (dạng thầy Mo) vẫn còn lưu giữ. Anh Đàn cùng hai chiến sĩ Biên phòng dẫn chúng tôi tới nhà một thầy Ràng có tên Cao Ống. Ông năm nay đã 80 tuổi, ốm yếu, không đi lại được nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Sau một hồi thuyết phục, ông cũng đồng ý diễn lại các động tác trong thuật thổi thắt thổi mở. Những dụng cụ để ngay góc nhà, thế nhưng không ai dám đến lấy, vì sợ.

Mãi sau ông Cao Ngọc Ên là em trai của thầy Ràng Cao Ống sang mới dám mang các dụng cụ ra và tự tay ông sắp xếp như một buổi lễ thổi thắt, thổi mở. Dụng cụ gồm: hai ống nứa, một dài (1m), một ngắn (0,5m), một phiến đá nhỉnh hơn hai bàn tay ghép lại, một cái bát đựng nước, một cái đựng hoa. Ông Ên nói, còn thiếu sáp ong làm nến, hương và sợi tóc, hoặc sợi chỉ để vào bát nước.

Thầy Ràng Cao Ống ngồi xổm trên giường, hai tay cầm hai ống nứa cà phần đầu nhọn vào phiến đá phát ra âm thanh trầm bổng. Cùng lúc, ông đọc thần chú có vần điệu như hát theo giai điệu từ hai ống nứa. Vừa đọc, ông vừa thổi hơi vào bát nước. Theo thông lệ, chừng 30 phút sẽ đưa bát nước có sợi tóc, hoặc sợi chỉ cho người phụ nữ muốn thắt không sinh nở uống và sẽ hiệu nghiệm.

Ông Cao Ống cho biết, thổi mở cũng ở dạng này, nhưng bài chú sẽ có nội dung khác. Ông còn có thể thổi chữa bệnh đứt tay, chân, chảy máu, rắn độc cắn... và mỗi dạng bệnh tật có những câu chú khác nhau. Ngoài thuật hấp hơi để tránh thú dữ cho riêng mình, ông có thể dùng phép thuật vẽ một vòng tròn cho nhiều người ngồi trong đó để chống lại thú dữ. Tuy nhiên, khi hỏi về nội dung các câu chú, và nhờ dịch sang tiếng phổ thông thì ông lắc đầu: “Đó là điều thiêng và tối kỵ của người Rục, không thể để người ngoài biết được”.

Theo: tienphong.vn