Quyền lực Miền Nam
Tại sao vua Gia Long và Tả Quân Lê Văn Duyệt bị cào cào châu chấu nó tấn công? Vì vua Gia Long và Tả Quân Lê Văn Duyệt đại diện cho quyền lực chánh trị và kinh tế của Miền Nam chúng ta.
Muốn hạ nó thì đánh gục đầu nó, moi ông bà nó ra kết tội chửi cha nó! Miền Nam từ lâu trong lịch sử Việt Nam đã là một thế lực kinh tế và chánh trị riêng biệt.
Vua Gia Long dựa vô dân Miền Nam mà trung hưng, nhờ tiềm lực kinh tế và đại thần, binh lính Miền Nam mà lập ra vương triều Nguyễn. Rồi cũng từ những đạo quân này tiến ra Bắc Hà bình định xứ Bắc.
Quân Nam về Thăng Long là cái khó chịu nhứt của sĩ phu Bắc Hà.
Khi quyền lực chánh trị bị vuột mất khỏi Thăng Long và vô Huế, vô Sài Gòn Gia Định là cái nhục của những người theo tư tưởng "Anh Cả".
Trong một buổi lễ kỷ niệm 500 năm ngày sanh Chúa Tiên Nguyễn Hoàng mới đây với chủ đề "theo dấu chân người mở cõi" thấy một MC lên ngâm hai câu sau:
"Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long."
Xin thưa! không phù hợp hai câu thơ của ông Huỳnh Văn Nghệ này áp cho chúa Nguyễn Hoàng đặng! Chưa có dòng lịch sử nào kể rằng Chúa Tiên Nguyễn Hoàng ngoáy về thương nhớ Thăng Long.
Thăng Long chẳng coi chúa Nguyễn Hoàng ra cái gì đâu. Thực tế 9 chúa và 13 vua Nguyễn là vương triều đối nghịch với chánh trị Thăng Long khi họ dời quyền lực chánh trị vô Nam.
Năm 1802 khi cháu chúa Nguyễn Hoàng là vua Gia Long vô Thăng Long thì nhiều sĩ phu Bắc Hà coi vua Gia Long là kẻ thù.
Lịch sử Việt Nam ta có cuộc Trịnh, Nguyễn phân tranh rất nhiều giai thoại thú vị. Khi họ Nguyễn tạo ra xứ Đàng Trong ly khai vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài thì hiểu rằng người ở phía Nam đã muốn độc lập, và lịch sử là thực như vậy.
Tả Quân Tổng Trấn Lê Văn Duyệt cũng đại diện cho quyền lực chánh trị, kinh tế và bản sắc Miền Nam.
Có thể nói, Tả Quân Tổng Trấn Lê Văn Duyệt vì đại diện quyền lực Miền Nam mà có hai lần chịu "án" trong lịch sử, đó là sau khi ông mất với vua Minh Mạng và sau 1975 với "đồng bào ruột thịt".
Tả Quân Lê Văn Duyệt từng giữ chức Tổng Trấn Gia Định Thành 2 lần: từ 1812 đến 1815 (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (đời vua Minh Mạng).
Vì bất đồng cách trị quốc với vua Minh Mạng nên ông vua này để bụng với ông Duyệt nhưng do Lê Văn Duyệt có quyền uy lớn trong triều đình nên vua Minh Mạng không làm gì được. Nên hiểu ông Duyệt là thủ lãnh thế lực Nam Kỳ thời đó, phe Nam Kỳ giàu có, nạp thuế, góp lúa gạo nhiều nhứt cho Huế.
Ai làm ra của thì người đó phải có quyền.
Chờ sau khi Tả Quân Lê Văn Duyệt mất vào năm 1832 việc đầu tiên của vua Minh Mạng là phá hết thế lực, phe cánh của Tả Quân ở Gia Định và đặt quan cai trị trực tiếp.
Vua Minh Mạng triệt phiên bớt thế lực của Tả Quân, bỏ quy chế tự trị của Gia Định trấn, lập tỉnh trực thuộc Huế, áp dụng chánh sách thắt chặt kinh tế ở Nam Kỳ nên đã bị Nam Kỳ phản ứng chống đối.
Những cái này khi Tả Quân còn sống lại cho tự do.
Quan từ Huế vô, việc đầu tiên là khám tư dinh và truy xét tài sản của Lê Văn Duyệt, sau đó có những cử chỉ bất kính với người vừa mất.
Tổng đốc Nguyễn Văn Quế, bố chánh Bạch Xuân Nguyên và án sát Nguyễn Chương Đạt sai dựng lên một vụ án xử Lê Văn Duyệt.
Người Minh Hương, người Công giáo, điền chủ, quan lại Nam Kỳ bất bình.
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
“…vốn là người tham lam, tàn ác; nên khi đến làm Bố chính ở Phiên An, Bạch Xuân Nguyên nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước”
Khi tra án, Bạch Xuân Nguyên đã cho bắt vợ con và những thủ hạ thân tín của Tả Quân, trong số ấy có bà chánh thất Tả Quân Đỗ Thị Phận và Lê Văn Khôi.
Vua Minh Mạng ép nhà Tả Quân vô đường cùng. Và phe Gia Định đã phản ứng.
Lê Văn Khôi là người gốc Cao Bằng, là con nuôi Tả Quân đã bất bình chửi Bạch Xuân Nguyên:
"Ông là kẻ hậu sanh mà dám khinh mạn một bậc lão tướng công thần. Nếu như thượng công còn sống thì ông làm một tên lính hầu trà của ngài cũng không đáng. Nay ngài mới thất lộc mà ông dám kêu tên ngài ra nói xách mé như vậy. Coi chừng kẻo chúng tôi lấy đầu !"
Đêm 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (1833), ông Khôi cùng 27 lính hồi lương đột nhập dinh Bố Chánh giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên.
Quan Tổng đốc Nguyễn Văn Quế cũng bị giết.
Tới ngày 7 tháng 6 năm 1833, quân binh biến chiếm cả Nam Kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng, Huế rúng động. Dân Nam Kỳ ủng hộ vang trời.
Phe Lê Văn Khôi bao gồm: Dân điền chủ Nam Kỳ, Cố đạo, giáo dân Công giáo, người Tàu bốn bang –kể cả con cháu Mạc Cửu ở Hà Tiên, con cháu Thoại Ngọc Hầu, người Miên (Con trai ông Nguyễn Văn Tồn ở Trà Ôn), Tiểu vương Chàm ở trấn Thuận Thành (Bình Thuận), một số người dân tộc ở Tây Nguyên cũng có dính líu.
Chúng ta nên nhìn kỹ, cuộc nổi loạn Lê Văn Khôi bắt nguồn từ chính sách triệt phiên, cấm đạo và bế quan tỏa cảng của vua Minh Mạng.
Ở Nam Kỳ, nó là mâu thuẩn chánh trị giữa Nam Kỳ mà Tả Quân là thủ lãnh và triều đình Huế mà vua Minh Mạng là đại diện.
Cuộc binh biến thách thức vua Minh Mạng làm vua "quéo" trong hơn 2 năm từ 1833 tới 1835.
Và trong thế bị ép, Lê Văn Khôi làm binh biến, vua Minh Mạng sau đó dẹp được nhưng Huế cũng một phen xấc bấc xang bang và người ta đồn trong thời gian đó vua Minh Mạng sợ Lê Văn Khôi hành quân thốc ra đánh úp Huế nên đem vàng bạc chôn rất nhiều nơi ở Huế.
Sau khi chiếm thành Phiên An, chém 1.831 người chôn ở mả ngụy –mả biền tru. Vua Minh Mạng cho phá thành xây laị thành nhỏ.
Vua Minh Mạng đã san bằng mả của Tả Quân và lôi nguồn gốc thái giám của ông ra miệt thị.
Đến lúc Tả quân Lê Văn Duyệt mất đi, vua Minh Mạng mới tuyên án tội của Lê Văn Duyệt trên ngôi mộ của ông. Đây là một vết dơ của ông vua này.
Đừng bao giờ đọc lịch sử rồi nói triều đình lúc nào cũng đúng, nếu vua Minh Mạng biết bụng dạ dân Nam Kỳ, hiểu và chia sẻ quyền lợi rõ ràng thì đã không có cuộc binh biến Lê Văn Khôi.
Lê Văn Khôi xuất thân gốc Bắc, nhưng Tả Quân rất tin, làm lãnh tụ Nam Kỳ sau khi Tả Quân mất, người Nam Kỳ ủng hộ ông Khôi vì ông bảo vệ cho quyền lợi Nam Kỳ.
Hiểu là sau lưng Lê Văn Khôi là người Nam Kỳ, ông Khôi là một symbol.
Anh hùng không nệ xuất thân, anh là ai không cần biết, anh sống bảo vệ quyền lợi xứ này, rồi cũng chết vì xứ này, đó là một người đáng khen, con cháu sẽ vinh danh.
Trong lịch sử Việt Nam cận đại xuất hiện một Đào Duy Từ từ Thanh Hóa nửa đêm ôm bè chuối vô Nam mà thành quốc phụ Đàng Trong, một Đặng Trần Thường từ đất Bắc xa xôi vô Nam lập nghiệp.
Rồi xuất hiện cái tên Lê Văn Khôi vang danh, chứng tỏ một điều người Nam không câu nệ xuất thân, ai giành quyền lợi cho xứ này kêu anh bằng ông cố nội.
Các bạn mến!
Không cần lý lẽ, giải thích, tra sử chứng minh với cào cào châu chấu! Nó không hiểu đâu. Nó chỉ biết ăn, biết giữ cố chặt quyền lợi nó.
Miền Nam cũng như Huê Kỳ là một hợp chúng quốc tứ xứ, ai có khả năng, tôn trọng luật chơi, biết giữ đạo lý, biết giữ quyền lợi là cứ chơi.
Cái kiểu "Một người làm quan cả họ được nhờ", kéo bè cánh người Miền Nam không ưng bụng.
Lịch sử lưu dân Nam Kỳ quá trẻ, quá gần, không có nhiều quá khứ nhưng quá khứ huy hoàng. Bản chất dân Nam Kỳ đôn hậu mộc mạc. Tánh Nam Kỳ lửa rơm dễ nóng, dễ cháy. Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn.
Nhưng Nam Kỳ không có ngu.
Hà Nội không thể chấp nhận một con đường mang tên Alexandre de Rhodes nhưng lại có đường Mạc Đăng Dung thì cũng đã thể hiện suy nghĩ Nam Bắc khác nhau rồi.
Sử dạy cho chúng ta trước nhứt là kinh nghiệm vì lịch sử không chỉ có quá khứ, sử nối liền quá khứ với hiện tại và tạo ra nền tảng tương lai.
Việt Nam có lịch sự lặp lại.
Bạn nhìn quá khứ, cảm nhận hiện tại, hiểu hiện tại và hình dung ra tương lai, hết thảy nó đi theo một quy luật nhứt quán.
Lịch sử chánh trị Việt Nam xưa nay là lịch sử của biến động, chánh trị của binh đao, máu và nước mắt.
Nhứt là khi xuất hiện xứ Đàng Trong, xứ Nam Kỳ thì người Bắc hết còn vai trò “độc quyền” trong chánh trị nữa, sĩ phu Bắc Hà không thể khua môi múa mép nữa.
Xin ghi nhớ Trần Đại Định, Võ Tánh,Tả Quân Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy, Cha Cả Bá Đa Lộc, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản, Tôn Thọ Tường, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hui Bon Hoa, Quách Đàm....đã ghi dấu ấn ở đất này!
Đất Miền Nam là đất dân chủ, tự do, biết vị nhân tâm, hễ ai theo luật chơi thì cứ ở lại.
Vũ Tài Lục nói rằng: ”Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chánh trị” nên chúng ta phải siêng tìm sử.
Và thêm một câu nữa xin góp là: “Hãy đọc sử với tư cách của người tử tế.“
Lịch sử dân tộc này khá phức tạp, Nam Bắc vốn đã từng là hai quốc gia riêng và cách suy nghĩ cũng có nhiều khác biệt.
"Tinh hoa" gì mà "tụ lại", "dồn vào" khi mà văn hóa, cách sống, hát xướng, cấu trúc xóm làng, cúng tế lễ nghi Nam Bắc đều khác nhau?
Nội ẩm thực, ăn uống cũng khác nhau nữa.
Hãy nhớ, đoàn kết là sự tôn trọng, tử tế chứ không phải dạy đời và áp đặt.
Không bàn tới yêu hay ghét kiểu lý tính, không nói ý thức hệ, bỏ hết, cũng không làm “phản động”như người ta hay nói, cứ nhìn lịch sử thôi và so sánh, ai không dám nhìn là đã thua nặng.
Lịch sử rất công bằng, nếu cứ cố níu kéo, cứ phá, cứ làm nó nát bấy tất sẽ có sự trừng phạt, khi đó còn tàn khốc hơn trong thực tế .
Lịch sử đã cho người đọc sử thấy rõ ràng là xứ Bắc thời cuối nhà Lê trung hưng đã rất uể oải và không còn cái gì thì lấy đâu ra "tinh hoa" xuôi Nam. Khi mà Lê Chiêu Thống ôm Tàu về, khi mà một anh "sơn dã" người phía nam sông Gianh như Nguyễn Huệ vô Thăng Long, một anh buôn trầu như Nguyễn Nhạc nhìn vua tôi nhà Lê khinh khỉnh coi thường trước hình ảnh ông vua già tàn tạ Lê Hiển Tôn lê lết lấy hơi lên sắp chết.
Thiệt là dở khi cố đào mồ mả tìm cho ra huyết thống.
Để làm gì?
Mọi sự là con người thực tại, là đầu óc thực tại, nó không phải chỉ là quá khứ. Không ai cạp quá khứ ra ăn hoài để no bụng.
Thế giới văn minh luôn tuyên dương sự tôn trọng nhau, có tôn trọng mới hiểu biết được.
Đọc sử Việt bạn sẽ nhìn ra nhiều vấn đề, sử Việt biến động dữ dội, sử Việt sinh động, rất hay, nhưng tóm gọn thì cũng chỉ có bấy nhiêu quy luật thôi, rất đơn giản.
Vũ trụ là một dòng sông dài, cả một quá trình lịch sử cũng dài, con người qua bao khúc nhoi thăng trầm có đủ hết.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét