Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2025

Lê Nguyễn: MINH XÁC MỘT LẦN CUỐI VỀ TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH ĐỊA PHƯƠNG CỦA MIỀN NAM TRƯỚC THÁNG 4.1975

MINH XÁC MỘT LẦN CUỐI VỀ TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH ĐỊA PHƯƠNG CỦA MIỀN NAM TRƯỚC THÁNG 4.1975

      Trong những ngày qua, trên diễn đàn của mình, khi bàn về danh xưng, tổ chức của chính quyền địa phương miền Nam trước và sau tháng 4.1975, nhiều bạn chưa ra đời hay chưa trưởng thành sau 4.1975 đã có nhiều hiểu nhầm và lẫn lộn giữa các danh xưng, khái niệm đan xen nhau, chủ yếu vì họ đã “in trí” về tổ chức hành chánh hiện nay trên cả nước. 

     Vì thế, về mặt kiến thức và học thuật, mình nghĩ là sẽ không vô ích khi xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát những điểm sau đây:

1) *Trong tổ chức hành chánh hiện nay, “Thành phố” là một tổ chức hành chánh chính thức, có tên gọi, có bộ máy hoạt động, có ngân sách riêng. Song, lại có nhiều dạng thành phố khác nhau: thành phố trực thuộc trung ương (như TPHCM, Hà Nội, Huế ...), thành phố trực thuộc tỉnh, thậm chí có “thành phố thuộc thành phố” như thành phố Thủ Đức thuộc TPHCM. 

* Tại miền Nam trước 4.1975, thành phố chỉ là cách nói cửa miệng của mọi người, ví dụ như “tôi đi thành phố Sài Gòn”, “tôi tới thành phố Biên Hòa”, “tôi về thành phố Mỹ Tho”... Trong các văn bàn chính thức thời đó như công văn, sắc lệnh, nghị định, quyết định, thông tư ..., không hề có tổ chức hành chánh nào gọi là “Thành phố”, mà cả miền Nam chỉ một “Đô thành” ở Sài Gòn và các “Tỉnh”, “Thị xã” ở các địa phương. Bộ máy cao nhất ở Sài Gòn là Tòa Đô chánh (nay là UBND/TPHCM), ở các tỉnh là Tòa Hành chánh tỉnh (nay là UBND tỉnh), ở cấp Thị xã là “Tòa Thị chánh”. Người đứng đầu Tòa Đô chánh là Đô trưởng, đứng đầu Tỉnh là Tỉnh trưởng. Đô trưởng Sài Gòn được nhiều người biết, thời Đệ nhất CH là Đốc phủ sứ Nguyễn Phú Hải, thời Đệ nhị CH là Đại tá Y sĩ Văn Văn Của.

2) * Sau tháng 4.1975, ở TPHCM, các địa phương vây quanh trung tâm thành phố gọi là “Quận”, bên ngoài khu vực này gọi là “Huyện”, ở các tỉnh cũng là "Huyện"  (nay tổ chức Quận Huyện không còn nữa).

* Ở miền Nam trước 4.1975, không có danh xưng “Huyện”, chỉ có “Quận” thuộc Đô thành Sài Gòn hay các Tỉnh, Thị xã

3) * Ở miền Nam trước 1975, từ “Thị xã” có hai cách sử dụng và hai cách hiểu khác nhau:

a) Cách nói phổ biến trong sách báo hay từ cửa miệng của người dân, để chỉ chung những khu vực đông dân cư, kinh tế tương đối phát triển.

b) Thị xã là một tổ chức hành chánh ngang với Tỉnh, do Tổng thống ban hành sắc lệnh thành lập, có bộ máy nhân sự riêng, ngân sách riêng.

Trong thời gian này, toàn miền Nam có các Tỉnh/Thị xã (theo cách hiểu thứ 2) hoạt động song hành nhau sau đây:

- Tỉnh Kiên Giang/Thị xã Rạch Giá - Tỉnh Phong Dinh/Thị xã Cần Thơ - Tỉnh Định Tường/Thị xã Mỹ Tho -Tỉnh Phước Tuy/Thị xã Vũng Tàu -Tỉnh Khánh Hòa/Thị xã Nha Trang – Tỉnh Tuyên Đức/Thị xã Đà Lạt – Tỉnh Bình Định/Thị xã Qui Nhơn - Tỉnh Quảng Nam/Thị xã Đà Nẵng - Tỉnh Thừa Thiên/Thị xã Huế.

Nhiều tỉnh lớn như Biên Hòa, Long An ... vẫn không có Thị xã

4) Thời Đệ nhị CH, trụ sở hành chánh của Thị xã gọi là Tòa Thị chánh. Hai tổ chức Tỉnh và Thị xã hoạt động song hành, độc lập nhau, cùng có bộ máy nhân sự riêng, ngân sách riêng, cùng trực thuộc trung ương. Về nhân sự, chỉ có Tỉnh trưởng kiêm Thị trưởng, tỉnh có Phó Tỉnh trưởng và các Trưởng Ty Sở riêng, Thị xã có Phó Thị trưởng và các Trưởng Ty Sở riêng.

Thời đó, nhiều sách báo gọi bừa những nơi thị tứ, tương đối đông dân là “thị xã” song không phải là thị xã theo đúng nghĩa chính thức của chúng.

Ranh giới hành chánh giữa Tỉnh và Thị xã được xác định rõ ràng trong sắc lệnh thành lập Thị xã, nhìn vào bản đồ, sẽ thấy Thị xã là một khu vực nằm lọt thỏm ở trung tâm tỉnh, bao quanh bởi các quận của tỉnh. Cũng tương tự như thế, Đô thành Sài Gòn, nằm lọt trong lòng của tỉnh Gia Định 

5) cũng như Tỉnh có các đơn vị trực thuộc là “Quận”, Thị xã cũng có các quận trực thuộc, chỉ trừ một ngoại lệ duy nhất: Thị xã Đà Lạt không có “Quận” mà chỉ có cấp "Phường"

6) Tỉnh lỵ là danh từ chung chỉ bất cứ nơi nào có Tòa Hành chánh tỉnh và các Ty Sở bao quanh, ví dụ: tỉnh lỵ Gia Định, tỉnh lỵ Biên Hòa, tỉnh lỵ Định Tường .... Tỉnh lỵ không có tên riêng và không bao giờ ở xa Tòa Hành chánh tỉnh đến 5 km. Vì vậy trước 1975, tỉnh lỵ Quảng Nam đặt ở Tam Kỳ, không có chuyện ở Hội An.

7) Thời Đệ nhất CH, hầu hết các quận nằm tại tỉnh lỵ cùng có tên là “Quận Châu Thành”. Sang thời Đệ nhị CH, chính quyền trung ương cho dời tất cả các quận châu thành ra xa tỉnh lỵ 5 km, biến chúng thành một “tiền đồn” để bảo vệ an ninh gần cho tỉnh lỵ. 

VIII) Những minh xác trên xuất phát từ trí nhớ còn minh mẫn của một người từng có 10 năm làm công tác hành chánh ở các địa phương trước 4.1975, mọi thắc mắc sẽ xin tiếp tục trả lời, mọi phản bác, xin trưng dẫn tài liệu chính thức, không nên nói suông.

Lê Nguyễn

23.11.2025

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét