Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2025

FBK Nguyễn Chương-Mt: "BỒI" TÂY, "BỒI" HÁN - CHUNG MỘT GIUỘC!

Đọc, cấm cười (mà lỡ cười thì cười cho "đã", tùy hỉ):

"BỒI" TÂY, "BỒI" HÁN - CHUNG MỘT GIUỘC!

* Ở đây, đề cập tiếng Tây "bồi", và Hán "bồi" tức những kẻ "xác Nam hồn Hán"! Đặc điểm của "bồi" là thấy chữ gì lạ thì vội đi tìm chữ Hán để giải thích, không giải thích được thì tìm tiếng Tây - mà nhiều khi KHÔNG biết rằng đó là Quốc âm (Nam âm) của tiếng Việt (Yiệt)! 

Rất quen trong tiếng Việt, nhưng đối với "bồi" thì ... lạ!

/1/ Đây, nói ngay về .. “Ke”. 

1a) Hồi năm 1885, chuyến xe lửa nối Sài Gòn – Mỹ Tho lăn bánh, đánh dấu sự ra đời của ngành đường sắt VN (cũng là ĐẦU TIÊN trên toàn cõi Đông Dương).

Người Pháp gọi “le train”, người Việt ở Nam Kỳ chuyển ngữ là “XE LỬA”; người Pháp gọi “Quai de la gare”, người Việt chuyển ngữ là “SÂN GA”. 

Trước đó, vào năm 1876 người Pháp cất ở Cần Thơ, dọc bờ sông một nơi dành cho tàu thuyền – theo tiếng Pháp – gọi là “Quai de commerce”. 

“Quai”, ở đây được chuyển ngữ tiếng Việt là “BẾN”, sát nghĩa là “Bến thương mại” nhưng người Cần Thơ gọi là “Bến Hàng Dương” (vì dọc theo bến tàu này có trồng một hàng cây dương); đến thập niên 50, đặt tên là "Bến Ninh Kiều" còn gọi cho tới nay. 

“Quai” là một nơi chốn, không gian để dừng lại. 

“Quai” dành cho tàu thuyền, người Việt ở Nam Kỳ gọi là “BẾN” (bến tàu). Còn “Quai” dành cho xe lửa, người Việt gọi là “SÂN” (sân ga).

Cách nói uyển chuyển, linh động, hay ơi là hay!

1b) Nói nào ngay, có chữ phiên âm như "ga" (gare) trong "ga xe lửa", được dùng miết tới nay bởi mang đặc trưng kĩ thuật mà ở nước VN xưa kia không có. 

Còn "Quai”, phiên âm đọc thành “ke”? Ban đầu là phiên âm, nhưng rất lẹ làng để chuyển ngữ. Bởi ý thức về quốc âm của tiếng Việt, tự nhiên như hơi thở. 

Hồi nẳm, cũng nảy nòi những kẻ cứ ưng chêm tiếng Tây, "quai de la gare" đọc thành “Ke ga”. Một thứ tiếng “Tây bồi”, không hơn không kém.

Coi không giống con giáp nào hết, thành thử những kẻ ưng tiếng “bồi” bị lép vế. 

Người dân ở xứ Nam Kỳ đã gìn giữ được cách thức Việt hóa, là “SÂN ga”, là “BẾN tàu” (không “ke ga”, “ke com-mẹc” gì hết trơn)! 

1c) Ngoài Bắc, ban đầu có đường sắt là vào năm 1902 (tuyến Hà Nội - Hải Phòng), tức 17 năm sau Sài Gòn - Mỹ Tho. Mãi đến lúc này, Hà Nội mới biết đến cách gọi “Quai de la gare”. 

Những ai giữ căn tánh tiếng Việt, ở ngoải, cũng gọi "SÂN" (sân ga) chớ không dở hơi, nói tiếng "Tây  bồi" là..."ke" ("ke ga"). Tỉ như Nguyễn Bính, với bài thơ mang tựa là “Những bóng người trên SÂN GA”. 

/2/ Lại phải nhớ đến cách nói "ô tô", “săm”, “lốp”, "phanh"... 

Từ tiếng Pháp “chambre”, rồi phiên âm gọi “săm”;

Từ tiếng Pháp “envelope”, rồi phiên âm rút gọn thành “lốp". 

Từ tiếng Pháp "automobile", phiên âm rút gọn thành "ô tô". 

Từ tiếng Pháp "frein", phiên âm thành "phanh". 

Nam Kỳ, lúc trở thành xứ thuộc địa, tiếp nhận sự có mặt của người Pháp trong sinh hoạt xã hội, kinh tế, chính trị trước ngoài Bắc. 

Thuở ban đầu, lẽ thường là phiên âm nhưng đã nhanh chóng chuyển ngữ sang tiếng Việt: "ruột", "vỏ", "xe hơi", "thắng"; cũng vậy, chuyển ngữ "le train" thành "xe lửa"! 

2a) Hết thảy - "xe lửa", "xe hơi", "vỏ", "ruột", cũng như "sân", "bến" (từ "quai")... đều là tiếng thuần Việt, đều là Nam âm! 

(khi chưa dùng phổ biến chữ Quốc ngữ, hết thảy cách gọi vừa nêu đều ghi bằng chữ NÔM, bởi trong chữ Hán hoàn toàn KHÔNG có âm Hán-Việt nào đọc như vậy hết)

2b) Tôi nghe một số bạn nói với nhau người Nam ưng dùng phiên âm từ tiếng Pháp (!?). Coi đi, phải nói cho rõ: người Nam có ý thức về chuyển ngữ sang tiếng Việt rất đáng khen, nói vậy mới trúng! 

Coi đi, trừ "ga" (gare), còn lại  "xe lửa", "xe hơi", "vỏ", "ruột", "thắng", cũng như "sân", "bến"... đều là tiếng Việt, có "tiếng Tây" nào ở trỏng! 

Những kẻ mang đầu óc "bồi Tây" nói năng quàng xiên để lập lờ đánh lận con đen! Họ "bồi", rồi úp chụp mọi người là... cũng xài tiếng "bồi", cũng tâm địa "bồi" như họ. 

/3/ Ở ngoài Bắc, còn có bằng chứng là thập niên 30, 40, 50 cũng dùng tiếng Việt, là "xe hơi", "vỏ", "ruột"..., đâu ra đó! 

3a) Bỗng, không rõ năm nào, chuyển sang tiếng "Tây bồi", gọi "ô tô", "lốp", "săm"... Khó hiểu! 

Rồi, nói chuyện gần đây hơn, bỗng gọi "ke" (ke ga) mà không gọi "sân ga". Lại tiếng "Tây bồi" nữa. Thật khó hiểu! 

3b) Cũng sẽ không còn thấy "khó hiểu", khi nhận ra cái não trạng suy nghĩ bằng "tiếng Tây bồi" có dây mơ rễ má với "xác Việt hồn Hán", "xác Nam hồn Hán"!

Đều chung một giuộc, đều mang một "mẫu số chung", là KHÔNG QUÍ TRỌNG NAM ÂM (TIẾNG VIỆT), hễ có dịp là bày trò xuyên tạc, trục xuất!

Dựa theo chữ Hán, không thấy "BÔNG" (bông hoa), không thấy "VE" (ve chai), bèn phán trong tiếng Việt là không có, mà do... "kị húy", hoặc do mượn tiếng nước ngoài.

(Đâu dè, trong ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ, ghi rõ ràng "BÔNG", "VE" bằng chữ Nôm, đây thuộc về quốc âm bao đời của tiếng Việt)

Dựa theo chữ Hán, thấy "chiên" nghĩa là mùi hôi, rồi giải thích lếu láo, trong khi tiếng Việt - nơi chữ Nôm - "chiên" là một loại cừu, hiền lành!

Lấy chữ Hán làm... chuẩn, thấy "khuất tất" nghĩa là quì gối, rồi công kích người Việt dùng sai (!), trong khi tiếng Việt - nơi chữ Nôm - "khuất tất" nghĩa là mờ ám! 

TẠM THAY LỜI KẾT 

Tỉ như trời đất đang nổi cơn gió bụi làm cho chữ nghĩa mờ mịt, dù phải chịu đựng gió máy đủ thứ, xin hãy cùng nhau dặn lòng ghi nhớ, gìn giữ cách nói thuần Việt của người nước Nam! 

Đâu phải chỉ cho mình, mà còn cho con cháu về sau biết đàng mà nói cho đúng, viết cho trúng.

--------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét