Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

"Qua" và "Bậu"

- Sưu tầm từ "Góc nhìn An Nam" -

"Qua" và "Bậu" đều là đại từ nhân xưng đặc trưng của miền Trung và miền Nam ngày xưa. Nhưng nó được dùng nhiều nhất là ở vùng đất phương Nam.

"Qua" là ngôi thứ nhất, nếu dùng riêng lẻ là từ xưng hô của người lớn tuổi với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi (là cô, chú, bác, anh, chị), nhưng khi dùng chung với "Bậu" thì nghĩa là anh, là cách xưng hô của chồng với vợ hoặc của người con trai với người yêu hoặc với người mà họ có ngỏ ý thương mến.

"Bậu" là ngôi thứ hai, là từ thân thương mà người con trai dùng để gọi vợ hay người yêu hay người con gái mà họ đem lòng thương mến.

"Bướm xa hoa, bướm dật, bướm dờ

Qua đây xa Bậu đêm ngày chờ trông."

Theo GS Lê Ngọc Trụ (1909-1979) gốc của từ "Qua" do chữ wá, hay đọc đúng hơn là u_á đọc theo giọng Triều Châu của chữ "ngã" tức là "tôi". Cũng có giả thiết khác rằng sự liên hệ từ "Qua" với tiếng Mường và tiếng Nhật nhưng có lẽ lối giải thích của GS Lê Ngọc Trụ dễ chấp nhận hơn bởi sự giản dị.

“Hôm qua Qua nói Qua qua mà Qua hổng qua

Hôm nay Qua nói Qua hổng qua mà Qua qua.”

Từ "Qua" được dùng rất nhiều trong các tác phẩm của Nhà văn Hồ Biểu Chánh (1884-1958) như: Thầy Chung trúng số, Tơ hồng vương vấn, Sống thác với tình, Ai làm được... và nhiều tác phẩm khác nữa.

Nếu "Qua" đã là từ Triều Châu thì "Bậu" cũng rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Nhà văn Bình Nguyên Lộc (1914-1987) có đưa ra gốc từ tiếng Mạ nhưng sau khi bàn luận với người Triều Châu, thì trong tiếng Triều Châu "pa_u" hay "pấu" (giọng đọc khác nhau tùy vùng) là vợ, một danh từ bình thường và khi ghép vào một chữ nữa mới phân rõ ngôi thứ như "cha pấu", "cha pa_u" (vợ tôi) "deo pa_u" (vợ yêu) như ta dùng Hán Việt "tệ phu, tệ nội, hiền phụ, hiền thê...” Người Việt chung sống với người Triều Châu đọc trại là "bậu" và "Bậu" trở thành đại từ ngôi thứ hai.

"Bậu có chồng chưa, Bậu thưa cho thiệt

Kẻo Qua lầm tội nghiệp cho Qua."

Dù với cách lý giải nào thì từ "Qua" và "Bậu" cũng đều là từ ngoại lai. Tuy nhiên, khi được Việt hóa, "Qua" và "Bậu" trở thành những từ ngữ độc đáo của tình cảm thương yêu đôi lứa thật súc tích.

"Bậu qua phà Rạch Miễu, Qua lẽo đẽo theo sau.”

Qua- Bậu tiêu biểu cho ngôn từ Việt hóa của miền đất phương Nam, trong đó bên cạnh tiếng Hoa còn phải kể tiếng Pháp, tiếng Miên... Từ ngữ Việt hóa gốc Hoa phần nhiều được sử dụng giới hạn ở miền đất phương Nam là vì điều kiện chung sống, hội nhập nơi đây. Mặc dù, số từ ngữ Việt hóa rất nhiều nhưng đi vào ca dao, văn chương phương Nam mạnh mẽ nhất có lẽ là hai từ "Qua" và "Bậu" (chiếm hơn phân nửa).

"Trách mẹ với cha chớ Qua không trách Bậu

Cha mẹ ham giàu gả Bậu đi xa.”

"Bậu có chồng như cá vô lờ,

Tương tư nhớ Bậu, dật dờ năm canh."

"Bậu về kẻo mẹ Bậu trông,

Kẻo con Bậu khóc, kẻo chồng Bậu ghen."

"Ví dầu tình Bậu muốn thôi

Bậu gieo tiếng dữ cho rời Bậu ra

Bậu ra Bậu lấy ông câu

Bậu câu cá bống chặt đầu kho tiêu.”

Nhà thơ Phạm Hải Đăng cũng sáng tác rất nhiều bài thơ có "Qua" và "Bậu" như:

BẼ BÀNG TÌNH QUA

Nói hoài Bậu hổng thèm nghe

Để Qua ấm ức đầy ghe đem dìa!

Vô tình trong buổi chiều kia

Bậu theo người khác, tình chia cách tình

Mình ên Qua đứng lặng thinh

Nhìn theo con nước lục bình trôi theo

Trách ên Qua kiếp bọt bèo

Sóng xô sóng đập, sóng leo mạn thuyền

Mé sông bến đợi mình ên

Bông Bần bông Mắm rơi lền trắng sông

Đường tình bạc bẽo long đong

Tình duyên dang dở đắng lòng Qua đau

Bậu ơi! còn có thương nhau

Cửa Vàm Qua đợi, trái sầu Qua mang

Sông năm bảy ngã đò ngang

Bậu không dìa nữa bẽ bàng tình Qua.

***

BẬU THÔI ĐƯA ĐÒ

Mưa chiều, Qua dõi mắt theo

Bến xưa tình cũ ai gieo câu thề

Bậu còn nhớ đến tình quê

Để Qua trông ngóng, khi về cô đơn

Bậu đi mưa gió dỗi hờn

Lòng Qua trĩu nặng như con đò chiều

Ngày nào tíu tít lời yêu

Tay Qua Bậu nắm nói điều mộng mơ

Sông Cửa Vàm thuở tình thơ

Qua thương Bậu nói: “mình chờ nhé Qua!"

Nào dè đâu, Bậu đã xa

Trầu cau chưa thắm, người ta lấy chồng

Đứng nhìn chim sáo sang sông

Để Qua lẻ bạn đau lòng Bậu ơi

Giờ đây, cách biệt phương trời

Quê nghèo miệt thứ, Bậu thôi đưa đò.

Ngày nay, "Qua" và "Bậu" đã trở thành dĩ vãng nhưng đối với những người con vùng đất phương Nam xưa, hai từ Qua - Bậu bình dị, chân quê này luôn gợi nhớ về một thời sơ khai với những tình cảm êm đềm, mộc mạc nhưng thấm đượm chân tình của những năm tháng cũ thân thương.

 Chuyện của Sơn

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

Hiệu Minh blog: Good Bye America - Chia tay nước Mỹ

 Good Bye America - Chia tay nước Mỹ

Thời thò lò mũi xanh, mình biết nước Mỹ qua ngọn đèn dầu hoa kỳ chuyên học bải đêm, chả hiểu có liên quan tới Hoa Kỳ hay không nhưng mình nghĩ bụng, Mỹ vớ vẩn quá, sao lại có ngọn đèn leo lét…vầy. Thế mà như định mệnh, mình lại đến nước có cái đèn này.

Chuyến bay Washington DC – Hà Nội qua ngả Seoul sau 24 tiếng đã hạ cánh. Cuối cùng thì lão Cua cũng chia tay nước Mỹ như một người Việt ăn rau muống. Y ra đi từ đồng chua nước mặn của đất Hoa Lư, đến Hoa Kỳ sang trọng và khi hưu cũng không khác kẻ nhà quê, cho dù y đi khắp nẻo “càng đi càng thấy mình nhỏ bé” như cái slogan của Hiệu Minh Blog.

Về hưu đã 10 năm như một cơn gió thoảng, kể ra cũng làm được khá việc, đi về quê nhiếu hơn, tìm lại những giá trị nền tảng của gia đình, làm album, làm phim về người cha nhân dịp 100 năm ngày sinh, hoàn thành cuốn sách “Nước Mỹ từ A đến Z”, tham gia vào chính phủ điện tử và chuyển đổi số, viết báo, dạy truyền thông, đi chơi và du lịch kha khá, có tổ ấm êm đềm.

Tháng 9-1995 lần đầu lão Cua đi Mỹ theo ngả Hồng Kong, 20 năm sau (1-2015) về hưu y bay qua Seoul về Hà Nội, lần này (9-2025) cũng vậy. Chả hiểu sao mình có cảm giác không quay lại nước Mỹ nữa, những chuyến đi với hàng triệu km milage chỉ còn là kỷ niệm.

Luck và Bin khi sang Mỹ mới 3 và 1,5 tuổi, giờ các con đã tốt nghiệp đại học, đã đi làm, Luck (Minh) ở Texas, Bin (Hiệu) đang học thêm thiết kế nội thất ở Ba Lan. Tháng 4/2025 mình sang Mỹ để dự lễ tốt nghiệp của Bin, coi như nhiệm vụ đã hoàn thành. Vẫn ở ngôi nhà cũ ở Arlington (VA) mấy tháng, biết bao buồn vui, cuối cùng các con đi hết, ngôi nhà mang tên cô hàng xóm, không có lý do gì để quay lại chốn xưa. Chia tay lần này có thể là mãi mãi.

Mình tới Mỹ khi Bill Clinton làm TT, sau đó là Bush con, tiếp theo Obama, Trump, Biden và lại Trump. Năm ngoái (10/2024) mình ở đó thì Trump và Harris đang ganh đua, lẽ ra ở thêm để xem vở kịch nhưng rồi tắc lưỡi, chả để làm gì.

Mình biết nước Mỹ thời Clinton trẻ trung, hào hoa, rồi Bush con cũng thế, sau đó là Obama, mỗi thời một khác nhưng đó là thời êm đềm của nước Mỹ, chưa thấy cảnh ra đường phải sợ cảnh sát. Xưa dạo chơi ở công viên, dân chúng gặp nhau hay hello thân thiện, cảm xúc của mình về nước Mỹ vẫn nguyên vẹn như xưa, yêu quí và đầy thương mến.

Nhưng gần đây đã khác. Ai cũng tư lự, cúi đầu, không cười, nhìn nhau dò xét. Có lần gặp một bác cầm poster trước Nhà Trắng viết rất thú vị “Hate won’t make US great”. Vài lần đi qua ngã tư đèn đỏ, chả hiểu sao người ta bấm còi inh ỏi, mà ở Mỹ, bấm còi nghĩa là chửi thầm đấy.

Không hiểu do ai đó sai, do phải đợi người đi bộ, hay nhìn thấy mình đầu đen, mũi tẹt. Sự phân biệt chủng tộc, ghét bỏ người nhập cư, da trắng thượng đẳng…có thể thấy được trên phố kèm theo sự uất hận. 

Hôm đi ZOO ở Washington DC, một nhóm nhỏ thanh niên trẻ cỡ tuổi Bin Luck đi vượt qua và nhổ phì bọt vào trước mặt mình. Người bạn đi cùng ngạc nhiên vô cùng, sao người Mỹ bất lịch sự thế. Bạn từng đọc “Nước Mỹ từ A đến Z” nên thích xứ sở này. Nhưng những gì chứng kiến trên phố thì nước Mỹ không phải là nước Mỹ nữa. Một thăm dò gần đây của CNN cho biết, dường như những gì tốt đẹp của nước Mỹ đã qua rồi.

Vấn đề nhập cư, visa du lịch, visa làm việc, đối đầu giữa giá trị truyền thống và giá trị đương đại, cắt viện trợ, xóa bỏ Bộ GD, giải tán USAID, tariff, súng đạn, bắn giết vô cớ, những mâu thuẫn đang âm ỷ trong lòng nước Mỹ. Nhổ nước bọt vào mặt du khách là một ví dụ nhỏ nhưng chứa đựng sự xung đột lớn, đợi có dịp là bùng phát. Chưa biết Hoa Kỳ sẽ đi về đâu.

Thời mình viết blog cũng lo về VN sẽ bị phiền toái do đề cập những vấn đề chính trị, nhân quyền, tự do ngôn luận. Nhưng suốt mấy tháng bên Virginia mình không viết gì về Mỹ cũng do lý do trên. Chính quyền hiện nay không chấp nhận ai nói xấu TT hay chính phủ, visa bị hủy, bị bắt, bị trục xuất nếu viết linh tinh trên mạng XH. 

Truyền thông được cho là quyền tự do ngôn luận cao quí nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ cũng đang phải gọt chân cho vừa giầy, tự kiểm duyệt. Các trường đại học thuộc Ivy League như Harvard, Columbia, Princeton… cũng lao đao vì học thuật, đài VOA bị cắt sóng, ICE, vệ binh quốc gia…làm cho du khách cảm giác bất an.

Một thời giá trị Mỹ “tự do, dân chủ, nhân quyền” được rao giảng khắp thế giới nhưng bây giờ thì ít ai tin. Một thời tôi phải đắn đo khi viết về VN nhưng giờ đây lại đắn đo gấp bội khi viết về Mỹ. Một sự chuyển dịch lạ lùng.

Nhớ thời khi vào cửa khẩu Mỹ thì phía dành cho khách du lịch đông như kiến, bên công dân Mỹ cũng đông nhưng thủ tục nhanh chóng, giờ đây khách ít hơn, thay vì vui đến nước Mỹ, vẻ mặt ai cũng lo âu.

Những nơi đông du khách xưa như bảo tàng Smithsonian, National Mall, New York, Boston…giờ thấy ít dần, hầu hết là khách Mỹ, một sự thay đổi đáng ngạc nhiên.

14 năm trước (2011) tôi từng nghe Jeffrey Sachs, từng là giáo sư KT trẻ nhất ở Havard, tác giả của hai cuốn bán chạy nhất của New York Times là “The End of Poverty” và “Common Wealth”, được tạp chí Times cho trong danh sách 100 người ảnh hưởng đến thế giới năm 2004 và 2005, khi ông tới WB nói chuyện về cuốn sách “The Price of Civilization – Cái giá của văn minh”.

Jeffrey lo rằng suy thoái trong kinh tế làm cho Hoa Kỳ đi xuống, và sức mạnh chính trị và văn hóa đang đứng trước hiểm họa. Người ta bắt đầu đặt câu hỏi về chủ nghĩa tư bản có đang giãy chết?

Thống kê thời đó cho thấy 1% dân số là người giầu ở Mỹ đã chiếm tới 25% GDP, và chỉ 0,01% cũng đã chiếm tới 5% GDP. Như vậy sự chênh lệch giầu nghèo là rất lớn.

Kinh tế Mỹ khủng hoảng là do phẩm hạnh công dân của những nhà chính trị và kinh tế cao cấp có chiều hướng đi xuống. Hệ thống pháp luật, xã hội tiêu dùng, và kể cả bầu cử tự do dân chủ cũng không đủ nếu như người giầu (1% hay 0,01%) kia không hành xử một cách đàng hoàng, trung thực, có tấm lòng đối với xã hội và nói xa hơn là cả thế giới.

Như vậy nền tảng đạo đức lung lay đã làm cho nền kinh tế khủng hoảng. Nếu không tìm ra cách chữa chạy kịp thời thì Hoa Kỳ khó mà giữ được vị trí siêu cường, có khi thành ngọn đèn hoa kỳ leo lét thuở nào.

Cái giá của nền văn minh không rẻ. Để đạt được điều đó, người Mỹ cần phải là những công dân tốt: đóng thuế đàng hoàng, suy ngẫm sâu sắc những đòi hỏi của xã hội, thận trọng hướng dẫn thế hệ trẻ và nhân tâm chính là keo gắn kết xã hội lại với nhau.

Quả thật, sau 15 năm, những gì Jeffrey Sachs dự đoán về sự suy đồi của nước Mỹ đã đúng. Người ta từng nuốt từng lời của TT Hoa Kỳ, của các chính khách từ đất nước tự do. Nhưng bây giờ thì hơi khó tìm được sự đồng cảm toàn cầu.

30 năm trước mình tới cửa khẩu ở Los Angeles (California), cô biên phòng hỏi mình, anh sang Mỹ để làm gì, mình luôn có câu trả lời. Nhưng giờ thì các con trưởng thành, đã bay đi tìm tổ ấm, nếu có ai hỏi, có đi Mỹ nữa không thì mình không tìm được lý do chính đáng. 

Good Bye America. 

Bài và ảnh HM.

FBK. Ý. Như Vạn Sự: NHỮNG ĐỊA DANH MANG ÂM VỰC TIẾNG CHAMPA TRÊN LÃNH THỔ TRUNG PHẦN VN

NHỮNG ĐỊA DANH MANG ÂM VỰC TIẾNG CHAMPA TRÊN LÃNH THỔ TRUNG PHẦN VN 

Là một người đam mê Văn Hóa Champa (Chiêm Thành) trong người cũng mang 1/8 dòng máu Chăm vì bà Ngoại của PND là một người Chăm lai Việt (Cha Việt, mẹ Chăm). Nên đã có nhiều cơ may sở hữu các tài liệu cổ của đất nước người Hời. PND cũng đã viết một quyển sách nhỏ về những thứ liên quan đến Văn Hóa Chăm như rất tiếc không được xuất bản vì lý do mà nhà xuất bản đưa ra là:

“THỜI ĐẠI NGÀY NAY, KHÔNG ĐƯỢC KHƠI DẬY LỊCH SỬ CHIÊM THÀNH" 

Giờ này khi đã chính thức là một nhà nghiên cứu Văn Hóa thì PND danh chánh ngôn thuận hơn để viết về văn hóa. Không xuất bản cũng được thì để lại cho con cháu sau này làm tài sản văn hóa.

Hôm nay xin trích một chương nhỏ trong quyển sách về cách di chỉ tên gọi cũ của các địa điểm Trung phần VN ngày nay:

- ĐÀ NẴNG. Là biến dạng của từ Chăm DAKNAN. thì chữ dak có nghĩa là nước (Chăm cổ), nan hay nưn (tức lanưng) là rộng. Địa danh Daknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông (cửa sông Hàn bây giờ). Người Việt phiên âm ra thành Đà Nẵng. DAKNAN của Chăm người Trung Hoa gốc Hải Nam đọc là TOUNAN, do đó vào thời Pháp thuộc người Pháp phiên âm thành Tourane.

- KHÁNH HÒA: Vốn được phiên âm từ tên của Tiểu Quốc Kauthara. Một tiểu quốc hùng mạnh thế kỷ 14 trong hình thái liên tộc Champa.

- NHA TRANG. Thành phố thuộc xứ Kauthara cũ, người Chăm thường gọi là La Trang (La là nước, Trang là đan chéo) hàm ý chỉ nơi có hai luồn nước chảy đan chéo nhau. Danh từ Ia Trang được phiên âm ra thành Nha Trang ngày nay. Cũng có một nhận định khác là chữ Trang (trong Ia trang) có nghĩa là lau, sậy. Và từ Ia Trang dùng để chỉ vùng sông nước có nhiều lau sậy.

- PHAN RANG Là thủ đô của Vương Quốc Chàm cổ tên là PANDURANGA. Phiên âm sang tiếng Việt là Phan Rang.

- PHAN RÍ. Là thủ phủ của vùng đất phong của lãnh chúa Pin To Lo (Tân Đà La) thuộc tộc Cây Cau (Clan de l’Arequire) phía nam nước Chiêm Thành hay xung đột với Tộc cây Dừa (Clan du Cocotier) vùng đất Phú Yên ngày nay. Tiếng Chăm của Vùng đất Lãnh Chúa Pin To Lo là PARIK.  Người Việt phiên âm thành Phan Rí.

- PHAN THIẾT. Tiếng Chăm là Panthit có nghĩa là Vùng đất cực nam của Chiêm Thành. Người Việt phiên âm thành Phan Thiết.

- TU BÔNG. Vùng đất phía nam đèo Cả (phiên âm từ chữ Kau) có tên là Tưh Bboh có nghĩa là Đồng Vàng. Sau này người Việt đọc nhại thành Tuy Bông rồi dần dần thành Tu Bông.

- TUY HÒA: Thành phố thuộc tỉnh Phú Yên thời Chiêm Thành có tên là Tưh Bhal có nghĩa là Tháp Vàng. Sau này đọc dần thành Tuy Hòa.

- SÔNG ĐÀ RẰNG. Đó là con sông chảy qua phía nam Thành phố Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên. Từ Đà Rằng mang âm Chăm và có nguồn gốc từ chữ Dairios (tên của con sông này trước kia). Chính từ này lại được phiên âm từ chữ Dak Riong, có nghĩa là sông sâu trắc trở. Dần dần đọc chữ DakRiong thành Đà Rằng.

- ĐẬP ĐỒNG CAM. Đập Đồng Cam tọa lạc tại Phú Yên, nơi có đồng ruộng lúa nước lớn nhất miền Trung. Đập này xưa kia chắc chắn mang tên Chăm nhưng nay không ai còn nhớ nữa. Người Việt đặt tên đập này là Đập Đồng Chàm. Nhưng thời Pháp thuộc họ đọc Champa thành Campa (vì âm h câm) nên dần đổi Đập Đồng Cam.

- CÙ LAO CHÀM. Đó là một hòn đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nam. Trước đây, cù lao này là nơi cư trú của các dân chài Chăm (tức Chàm) và dĩ nhiên mang tên Chăm. Kaulau Cham. Trong đó Kaulau là nghĩ là Đảo. Về sau, qua biến đổi của lịch sử, người Chăm đã di tản đi nhiều nơi (có lẽ đông nhất là Hải Nam của Trung Quốc) và người Việt gọi địa danh này là Cù lao Chàm, nghĩa là cù lao của người Chăm cư trú trước đây.

- HÒA LAI: là một địa danh ở bắc Ninh Thuận thường được gọi là Ba Tháp, thuộc xã Tân Hải, huyện Ninh Hải. Trên quốc lộ số 1, du khách bắt gặp hai ngọn tháp Chăm cổ kính tọa lạc phía đông con đường, cách ranh giới Khánh Hòa – Ninh Thuận khoảng 8 km (ngọn thứ ba đã bị đổ nát từ lâu). Nơi đây chính là HÒA LAI. Xưa kia địa danh này mang tên là BHAL LAI Chính từ Bhal Lai này đã được phiên âm thành Hòa Lai.

- LAGI: tức là vùng huyện Hàm Tân bây giờ (thuộc tỉnh Bình Thuận), xưa kia là đất Nưgar LADIK của xứ Panduranga cũ (đọc là La-tik theo âm Chăm). Danh từ LADIK được phiên âm thành La Gi ngày nay.

- THỊ NẠI  Dọc theo duyên hải miền Trung Việt Nam, chúng ta tìm thấy nhiều địa danh mang tên Thị Nại như Đầm Thị Nại ở gần thành Quy Nhơn. 

Xưa kia, người Chăm sinh sống dọc bờ biển, bờ đầm thường làm nghề đánh cá. Mỗi buổi sáng hay buổi chiều đều có các thuyền đánh cá tấp vào một vài nơi nhất định (nơi có những cư dân đông đúc) để bán cá. Do đó, về lâu về dài, những nơi này hình thành những “chợ nhỏ”, chủ yếu là để bán cá tươi cho người địa phương và các dân buôn.

“Chợ nhỏ” đó tên Chăm là darak naih (darak là chợ, naih là nhỏ), đọc là “tàrạk neh”. Người Việt dịch chữ darak là Thị, còn chữ naih lại ngỡ là danh từ riêng. Từ Darak là chợ tiếng Hán có nghĩa là Thị. Và đọc dần thành Thị Nại.

- CHÀ RANG. Vùng núi ở phía nam xã An Hiệp quê hương PND một hang động cổ mang tên là Chà Rang. Thời Chiêm Thành có tên là Cơk Ranga. Từ Chà hay Trà trong tiếng Chăm là Cơk có nghĩa ngọn núi, Ranga có nghĩa là vùng đất. Rồi phiên âm dần đọc thành Chà Rang.

- CAM RANH. Tên chăm của vùng đất này là Cham-Nrahn rồi người Pháp phiên âm thành Cam-Ran đọc dần dần thành Cam Ranh. Theo nghĩa cũ là “Mảnh vườn của người Chăm”

- QUÁN CAU. Đây cũng là địa danh nơi PND được sinh ra nên bị gọi là dân Quán Cau. Có rất nhiều sự giải thích về tên gọi này là vùng đất trồng nhiều Cau nên được gọi là vậy. Như thật sự không phải vậy khi lật quyển Sử Chăm do Bà Ngoại để lại thì Vùng đất này vốn có tên chăm là Urang Kaulau (Urang là người, Kaulau: là cù lao) chỉ những người sống nghề chài lưới ven đầm. Cụ Lương Văn Chánhh vào tiếp quản đặt tên Phú Yên (tên tiếng Chăm là Aiaru) nghĩa là vùng đất trù phú và yên bình. Và từ Urang Kaulau đọc trại thành Quán Cau.

- LA HAI: Là một thị trấn vùng núi của Phú Yên, tiếng Chăm được viết là La-naih có nghĩa là Vùng nước Nhỏ. Người Việt đọc phiên âm thành La Hai.

Và còn nhiều địa danh khác nữa như Đại Lãnh, Vạn Giã, Ô Loan, Phú Túc, Phú Bổn, Sông Trà Khúc, La Ngà, Đa Nhim, Cù Mông, Cà Ná, Trà Cú, Cam Lộ … đều xuất phát từ tên gốc là tiếng Chiêm Thành.

TRT

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2025

FBK. Nguyễn Chương-Mt: Kỳ 2: ĐÀNG TRONG là một "ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ"

Kỳ 2: ĐÀNG TRONG là một "ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ"

Đây nhấn mạnh một dữ kiện mà rất nhiều người không biết đến, khi phân đôi Đàng Trong và Đàng Ngoài:  

- Đàng Ngoài trở lại khớp với biên cương lãnh thổ "TĨNH HẢI QUÂN" (thời Ngô Quyền, đây là tên gọi do Tàu đặt ra, và Ngô Quyền chưa đổi sang tên khác). 

- ĐÀNG TRONG (từ Quảng Bình trở vô, theo dòng thời gian sau đó đã mở rộng tới tận Cà Mau) là một không gian lãnh thổ KHÔNG DÍNH DÁNG GÌ ĐẾN & HOÀN TOÀN KHÁC với "Tĩnh Hải quân".

Mời đọc kỳ 1 https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1289158441518133, để tỏ tường.  

&1&

Nhiều người đọc sử vội vàng nên tưởng rằng công trạng khẩn hoang ở Nam Kỳ là do các luồng di dân người Việt từ miền Bắc vào (?).

Hãy coi cho kỹ lưỡng:

Năm 1600, trong đoàn di dân theo chân chúa Nguyễn Hoàng bấy giờ CHỦ YẾU là dân ở xứ Thanh. xứ Nghệ (phía bắc miền Trung) (ngoài ra còn có một phần di dân từ đồng bằng sông Hồng). 

NHƯNG đến năm 1627 xảy ra chiến tranh Đàng Trong / Đàng Ngoài, chánh thức định cõi, chấm dứt các luồng di dân từ phía bắc vô Nam.

Chỉ có 27 năm ban đầu, trong dòng thời gian dài 200 năm của Đàng Trong (1600-1800, trước khi hợp nhứt cùng lúc hai Đàng), là có mặt di dân từ ngoài Bắc mà thôi. Mà trong 27 năm ban đầu ấy, Đàng Trong – chú ý - là chưa hề mở cõi tới đất phương Nam (sau này gọi là Nam Kỳ vào thời vua Minh Mạng / từ năm 1945 VNDCCH gọi là Nam Bộ).

Quí bạn hãy tưởng tượng: vào năm 1600 trong luồng di dân ngoài Bắc vô Đàng Trong, lúc đó có "những đứa bé mới sinh ra ngoài Bắc" được bồng bế. Đến quãng thời gian 1697

-1698 mới khởi lập những đoàn di dân vô Nam Kỳ thì "những đứa bé sinh ra ngoài Bắc" lúc này cũng đã già háp (79-80 tuổi) hoặc đã qua đời rồi đa.

CHỈ CÓ NHỮNG THẾ HỆ SANH RA và LỚN LÊN tại ĐÀNG TRONG đổ công đổ sức ĐỊNH CÕI tại miền châu thổ.

Nếu "kiên quyết quán triệt" di dân người Bắc đổ mồ hôi xây dựng Nam Kỳ (xin chú ý: thời điểm là vào cuối thế kỷ 17 - bước qua thế kỷ 18) thì có khác nào khẳng định do ...  các vong hồn người miền Bắc đội mồ sống dậy rồi bay chấp chới vô Nam, hóa phép dựng cõi? Nghĩ kỹ đi, "ảo" hết sức!

Và tiếp đó là gần một thế kỷ rưỡi ròng rã định cõi Nam Kỳ, đa số luồng di dân vô Nam đều SANH RA và LỚN LÊN tại Ngũ Quảng ở miền Trung - gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên - Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngoài ra còn có di dân xuất xứ từ Bình Định, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận. 

* Nói chút về Quảng Bình: tỉnh này thuộc miền Trung về địa lý tự nhiên chớ miền Bắc nào vô đây? Mặt khác, Quảng Bình lại thuộc về NAM HÀ, tức MIỀN NAM về mặt phân giới địa lý chính trị lúc bấy giờ (MIỀN NAM tức Đàng Trong / MIỀN BẮC tức Đàng Ngoài). 

&2&

Không thể nào nhắm mắt trước một thực tế lịch sử hiển nhiên, đó là: công lao đổ mồ hôi sôi nước mắt của rất nhiều thế hệ SANH RA & LỚN LÊN tại Đàng Trong để gầy dựng Nam Kỳ nói riêng và Đàng Trong nói chung! 

Phải biết ghi ơn cho đúng mức, cho thực kỹ lưỡng. 

Đàng Trong, so với Đàng Ngoài (trong khoảng gần hai thế kỷ định cõi), miền nào phồn thịnh hơn? Miền nào đẩy mạnh tiến trình giao thương với quốc tế nhiều hơn? Miền nào thoát khỏi não trạng "Hán hóa" tốt hơn? 

(chỉ MÃI SAU NÀY, SAU THỜI ĐỊNH CÕI ĐÃ XA, sau khi hợp nhứt sơn hà mới xuất hiện những luồng di cư từ miền châu thổ ngoài Bắc vô Nam để làm ăn)

----------------------------------------------------------------------

Hình ảnh (trên): Đền thờ Thái miếu 9 đời Chúa Nguyễn tại Huế; 

Hình ảnh (dưới): Cảnh quan ở Nam Kỳ.



FBK. Nguyễn Chương-Mt:Kỳ 1: ĐÀNG TRONG là một "ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ":

Kỳ 1: ĐÀNG TRONG là một "ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ":

MỘT KHÔNG GIAN NƯỚC NAM, MỘT SỨC SỐNG MỚI !

I/ TĨNH HẢI QUÂN - CHIÊM THÀNH - ĐẾ QUỐC CAO MIÊN  

1) Sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, năm 938, lập nên Nhà Ngô, cương vực lãnh thổ về phía nam là "xứ Nghệ" - Nghệ An, Hà Tĩnh - mà biên giới được dựa theo ngọn núi Hoành Sơn (đèo Ngang). 

Bước qua đèo Ngang là lãnh thổ của một quốc gia KHÁC. 

Lúc bấy giờ nhà Ngô chưa đặt tên nước (qua thời Đinh kế tiếp mới đặt tên nước Cồ Việt), toàn bộ lãnh thổ vẫn còn gọi là "TĨNH HẢI QUÂN" 靜 海 軍 - đây là tên gọi dưới thời Tàu đô hộ (nhà Nam Hán) đặt ra.

("quân" 軍 là một đơn vị hành chánh lãnh thổ, dựa theo cách tổ chức quân sự mà phân giới, đừng lộn với "quận" 郡)

2) Vào thời điểm năm 938, bên kia đèo Ngang là quốc gia nào? 

Hết thảy các tỉnh từ Quảng Bình cho tới Bình Thuận (gọi theo tên sau này cho dễ hình dung) đều thuộc về lãnh thổ của VƯƠNG QUỐC CAMPANAGARA (chuyển ngữ qua chữ Hán ghi như ri: 占城 , "CHIÊM THÀNH"). Lúc bấy giờ, ở Chiêm Thành do nhà vua Indravarman III cai quản.

3) Còn miền châu thổ Đồng Nai - Cửu Long, thời xưa lắc, thuộc quốc gia nào? 

Vào thời điểm năm 938 (Ngô Quyền dựng nghiệp), bấy giờ vùng phương Nam này thuộc lãnh thổ của ĐẾ QUỐC KHMER (chuyển ngữ Hán tự là 高 棉, "CAO MIÊN"), còn gọi là Đế quốc Angkor. Bấy giờ do nhà vua Jayavarman V cai trị. 

Ủa, sao nói vùng này là "Thủy Chân Lạp" thuộc Vương quốc Chân Lạp? Chân Lạp là âm Việt đọc cho hai chữ Hán như sau 真 臘, từ "Chenla" mà thành. Vương quốc Chân Lạp tồn tại từ năm 627 đến năm 802, sau đó đổi tên là "Đế quốc Cao Miên" (Khmer Empire).

Nói nào ngay thì cũng vẫn lãnh thổ do người Khmer cai quản, nhưng tên gọi của quốc gia thì đổi (từ "Chenla" thành "Khmer", "Chân Lạp" thành "Cao Miên"), chúng ta quen gọi "Chân Lạp" cũng không sai (nhưng nếu ưa chuộng tính chính xác lịch sử thì thời điểm nào nên gọi đúng tên tồn tại vào lúc đó). 

[Nguyên ủy lãnh thổ phương Nam, xa xưa hơn nữa, thuộc Vương quốc Phù Nam (xuất hiện vào thế kỷ thứ 1) mang tính chất văn hóa Nam đảo, giao thương nhiều với Java, Indonesia, Malaysia... Chân Lạp của người Khmer đã từng là "chư hầu" của Phù Nam; nhưng vào thế kỷ thứ 7, Chân Lạp bật ngược trở lại mà "xóa sổ" Phù Nam luôn.]

II/ ĐÀNG NGOÀI - ĐÀNG TRONG: 

Dưới đời Lý, Trần, Hậu Lê có sự mở rộng lãnh thổ, vượt qua Đèo Ngang, tiệm tiến theo hướng Nam .... Và rồi, xảy ra sự định cõi Đàng Trong và Đàng Ngoài vào cuối thế kỷ 16 - đầu thế kỷ 17. 

Rất bất ngờ, rất kỳ lạ! Hai Đàng không phân ranh tại Quảng Trị, hay tại Huế... - mà trở lại ĐỊNH CÕI trùng khớp với sự định cõi từ thời Ngô Quyền (năm 938) với "Tĩnh Hải Quân", chỉ đến Hà Tĩnh là dứt! 

Đàng Ngoài là vậy, cũng Hà Tĩnh trở thành vùng biên cương. 

(nói cho thực đúng, là có xê xích chút ít thôi: thay vì phân đôi tại đèo Ngang thì phân đôi nơi sông Gianh chỉ cách đèo Ngang khoảng 30km, phần lớn Quảng Bình thuộc Đàng Trong) 

* Thấy gì? 

- Lãnh thổ Đàng Ngoài cũng là lãnh thổ "TĨNH HẢI QUÂN" (tên gọi do bên Tàu đặt ra mà thời Ngô Quyền vẫn giữ, chưa đổi tên khác).  

- ĐÀNG TRONG (từ Quảng Bình trở vô, theo dòng thời gian sau đó đã mở rộng tới tận Cà Mau), như vậy, hoàn toàn là một không gian lãnh thổ KHÔNG DÍNH DÁNG GÌ ĐẾN & KHÁC với "Tĩnh Hải quân"! 

"Thiên thư định phận" như vậy, để chi? 

Từ đây, dẫn đến sự khác biệt trong mô thức phát triển văn hóa & kinh tế của ĐÀNG TRONG: 

Nhờ vào sự tiếp biến với văn hóa của cư dân bản địa (người Chàm, người Khmer, một số sắc tộc từ Phù Nam còn định cư tại đây...) / tiếp nhận kinh nghiệm hàng hải rất giỏi của người Chàm / và rồi kinh nghiệm thương mại từ người Minh hương.v..v... mà ĐÀNG TRONG sở hữu một nội lực đa dạng. 

* Mời đọc Kỳ 2: https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1293346071099370

--------------------------------------------------------

Ghi chú: 

Ban đầu, lúc chúa Nguyễn Hoàng khởi lập Đàng Trong, bấy giờ biên cương phía nam giáp với Vương quốc PANDURANGA, bao gồm (nói theo tên sau này cho dễ hình dung) Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. 

Còn "Thủy Chân Lạp"? Không còn đế quốc Khmer nữa (suy tàn) mà đã chuyển sang "Thời kỳ hậu Angkor" gồm các triều đại: Chaktomuk => Longvek => Srey Santhor => triều đại Oudong.  

Lúc chúa Nguyễn khởi lập Đàng Trong, bấy giờ xứ Chùa Tháp đã bước vào TRIỀU ĐẠI OUDONG (kinh đô Oudong nằm ở Phsar Daek, nay thuộc tỉnh Kandal).  

----------------------------------------------------------------

Hình ảnh: Bản đồ TĨNH HẢI QUÂN thời Ngô Quyền (năm 983); 

Bản đồ năm 1611, giai đoạn đầu của ĐÀNG TRONG (chúa Nguyễn) / ĐÀNG NGOÀI (chúa Trịnh, vua Lê).


Nguyễn Thế Tuyền: TOÀN CẦU HÓA – CON DAO HAI LƯỠI?

Trần Nam Anh: Bài viết của nhà giáo Nguyễn Thế Tuyền rất chi tiết và logic, cho thấy toàn cầu hóa đúng là một “con dao hai lưỡi”. Nó giúp thế giới kết nối, tạo ra sự phát triển vượt bậc về kinh tế, khoa học, công nghệ, nhưng đồng thời cũng đặt phương Tây vào thế tự ràng buộc và phụ thuộc vào những đối tác mà họ từng nghĩ sẽ “tự thay đổi”.

Theo mình, điểm mấu chốt là toàn cầu hóa không chỉ thuần túy là vấn đề kinh tế, mà còn là câu chuyện về thể chế, văn hóa và chiến lược. Phương Tây đã quá tin rằng kinh tế thị trường sẽ kéo theo tự do chính trị, trong khi thực tế ở Trung Quốc và Nga lại cho thấy ngược lại: họ tận dụng kinh tế để củng cố quyền lực chính trị.

Thế giới ngày nay không thể quay lưng với toàn cầu hóa, nhưng cần một cách tiếp cận tỉnh táo và thực dụng hơn. Thay vì “trao toàn bộ công nghệ” để đổi lấy thị trường, các nước phát triển cần đặt ra giới hạn rõ ràng, đa dạng hóa chuỗi cung ứng và chú trọng cân bằng giữa lợi ích ngắn hạn với an ninh lâu dài.

Nói cách khác, bài học là: Toàn cầu hóa cần sự khôn ngoan và cảnh giác, nếu không sẽ biến thành cái bẫy do chính mình dựng nên.

👉 Dưới đây là toàn bộ bài viết của nhà giáo Nguyễn Thế Tuyền ( Fb Tuyen Nguyen)-từ Berlin.

——————

TOÀN CẦU HÓA – CON DAO HAI LƯỠI?

Nghiên cứu lịch sử để người ta biết những gì đã xảy ra trong quá khứ và từ đó rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai.

Từ gần một chục năm nay, tôi có linh cảm quá trình toàn cầu hóa ít nhiều phương tây đã phạm sai lầm chiến lược để dẫn đến tình trạng ngày nay. Trước hết xin ôn lại sơ lược lịch sử dẫn đến quá trình toàn cầu hóa sau khi chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước.

Chủ nghĩa phát xít ra đời cách đây một thế kỷ, đứng đầu là Đức quốc xã. Đó là một chủ nghĩa cực kỳ nguy hiểm cho loài người vì nó tiêu diệt mọi hình thức dân chủ, tôn chủ nghĩa dân tộc và dùng vũ lực chiến tranh để mong cai trị cả thế giới. Phần lớn các nước trên thế giới đều thống nhất là phải xóa sổ tư tưởng này để loại trừ hiểm họa cho nhân loại. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bằng việc phát xít Đức tấn công Ba-Lan tháng 9 năm 1939 đã làm bùng nổ cuộc đại chiến khốc liệt trên lục địa châu Âu. 

Dù khác nhau về quan điểm và mục đích xây dựng xã hội, các nước vẫn tạm thời bắt tay nhau, tạo thành đồng minh tiêu diệt phát xít. Liên minh này gồm Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ hình thành khi Hitler điên cuồng muốn thôn tính cả châu Âu. 

Thế nhưng, sau khi chế độ phát xít bị tiêu diệt, sự rạn nứt trong quan hệ Mỹ- Xô  ngày càng rõ rệt. Mặc dù thế, tổng thống Mỹ hồi đó là Roosevelt vẫn muốn thực hiện một chính sách ONE-WORLD-POLITIC, cụ thể là trong tương lai những tranh chấp giữa các quốc gia phải được giải quyết bằng con đường đàm phán, từ bỏ hoàn toàn vũ lực, trong đó Liên hiệp quốc đóng vai trò trung tâm. 

Nhưng Liên Xô muốn bành trướng ảnh hưởng của mình nên đã lập lên hàng loạt các nước vệ tinh cùng thể chế, gọi là phe XHCN. Ngoài ra, Liên Xô còn nhắm mục tiêu lôi kéo Thổ Nhĩ Kỳ và Hy lạp vào phe mình. Trước tình hình ấy, Mỹ phải thay đổi thái độ và „Bức màn sắt“ chia dọc châu Âu (lời của thủ tướng Anh Churchill) xuất hiện. Phía đông bức màn sắt này gồm các nước: Liên-Xô, Ba-Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Rumani, Bulgari. Còn sát phía tây bức màn sắt là Phần-Lan, Tây Đức, Áo, Hy-Lạp. Nam-Tư cũng nằm bên phía tây đường biên này nhưng là nước không theo phe nào.

Có bức màn sắt, người ta không thể biết những gì xảy ra ở bên kia, hai bên luôn đề phòng nhau, sẵn sàng đặt ngón tay vào cò súng. Đó là dấu chấm hết cho chính sách ONE-WORLD-POLITIC để chuyển sang chính sách CONTAINMENT- POLITIC nhằm cản sự bành trướng của Liên-Xô. Từ đó lý thuyết hai hệ thống đối đầu ra đời (Chiến tranh lạnh giữa Khối XHCN do Liên Xô đứng đầu và TBCN do Mỹ đứng đầu) 

Mỹ muốn giúp đồng minh ở Tây Âu để họ đủ mạnh có thể đương đầu với Liên-Xô nên đã đổ tiền vào các nước bên sườn tây của “Bức màn sắt” mong vực các nền kinh tế của họ đã kiệt quệ vì chiến tranh (bắt đầu từ năm 1947). Tiền và hàng từ Mỹ đổ về và dựa trên chính sách kinh tế thị trường tự do, các nước phương tây hồi phục nhanh chóng rồi phồn vinh, trong khi sự phát triển ở Đông Âu ì ạch vì vận hành theo chính sách kinh tế kế hoạch. 

Sau hai chục năm có “bức màn sắt”, tình hình không hề dịu đi mà mâu thuẫn còn lên cao hơn. Trước tình hình đó, một số chính trị gia Tây Âu, trong đó nổi bật nhất là Thủ tướng Đức Willy Brandt, có ý tưởng phải thay đổi chiến lược: Cải thiện các mối quan hệ thông qua thân thiện (1970). Chính phủ của ông đã ký hàng loạt hiệp ước hợp tác kinh tế với CHDC Đức, Ba-Lan, Hung-ga-ri, Liên – Xô. Sự hợp tác ấy mang lại lợi ích cho cả hai bên và dần dần dân chúng không còn nhìn nhau như kẻ thù nguy hiểm nữa. Bức màn sắt thưa dần, người dân hai bên đã hiểu một chút về nhau và biết được sự phát triển xã hội của bên kia. 

Mọi cố gắng của nền kinh tế XHCN dần dần cũng đụng tới giới hạn, không thể phát huy tiềm năng và tài nguyên của đất nước một cách tối ưu. Cuối những năm 70, tình hình ở một số nước bắt đầu căng thẳng như ở Ba-Lan, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri. 

Đặc biệt người dân CHDC Đức biết khá rõ những người bà con của họ ở bên kia biên giới sống ra sao, vì họ cùng một dân tộc. Chính vì thế, phong trào phản đối ở đây mạnh nhất dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường Berlin tháng 11 năm 1989. Khoảng một năm sau đó, hàng loạt các nước Đông Âu nổi dậy, không chấp nhận chế độ ở nước họ và muốn xây dựng nhà nước đa nguyên đa đảng, tự do dân chủ theo mô hình phương tây. Chiến tranh lạnh kết thúc!

Phương tây đã nghĩ rằng, thể chế dân chủ đã chiến thắng trên phạm vi toàn cầu. Trên thế giới chỉ còn tồn tại vài nước vẫn theo CNCS. Người dân ở các nước phương tây vốn đã giàu có nên nhu cầu tiêu thụ hàng hóa không còn cao như  trước đây nữa. Các hãng phương tây muốn bán hàng cho các nước nghèo khác. Một thị trường mênh mông, đặc biệt là thị trường Trung Quốc với 1,4 tỷ người cuốn hút họ. 

Thế rồi họ nhận ra, tại sao mình không sản xuất ở ngay trên đất nước họ và tận dụng công nhân rẻ mạt để lợi nhuận cao hơn. Toàn cầu hóa về kinh tế ra đời từ đó. 

Ta có thể hiểu nôm na khái niệm “Toàn cầu hóa” như thế này: Một mặt hàng được thiết kế ở CHLB Đức nhưng mua nguyên liệu ở Ukraine rồi đưa sang Trung Quốc sản xuất. Hàng hóa từ đó bán cho dân Trung Quốc và các nước xung quanh, vừa chi phí rẻ, vừa có lợi nhuận rất cao. Đó là thời kỳ hoàng kim của các hãng công nghiệp Tây Âu. 

Các ông chủ hãng ở Tây Âu nói với các nước tiếp nhận đầu tư rằng: Chúng tôi sẽ sản xuất ra những máy mọc tinh vi, thuốc men cao cấp, còn các anh sản xuất hàng tiêu dùng rồi chúng tôi mua lại của các anh. Chúng tôi bỏ tiền xây dựng hãng xưởng ở đất nước các anh và tạo công ăn việc làm cho dân chúng, đóng thuế cho chính phủ các anh. Hai bên gật gù, hoàn toàn đồng ý thỏa thuận.

Khoảng chục năm đầu tiên, các hãng công nghiệp châu Âu thu lợi nhuận rất tốt. Họ sẵn sàng để cho dân nước họ thất nghiệp và mang việc làm đến tặng dân các nước họ đầu tư, vì giá công nhân ở châu Âu rất đắt (Ví dụ, mới chỉ công may một chiếc áo sơ mi ở Đức ít nhất cũng phải 7 Euro, trong khi ở Trung Quốc kể cả tiền vải và công may chỉ có 5 Euro mà chất lượng tương đương). Thất nghiệp ở Mỹ và châu Âu tăng mạnh dẫn đến bất ổn xã hội, chủ nghĩa dân túy có đất phát triển và biến Trung Quốc trở  thành xưởng sản xuất hàng tiêu dùng cho cả thế giới.

Sau khoảng chục năm, giới lãnh đạo Trung Quốc cho là thời điểm họ mong chờ đã đến. Họ ra điều kiện cho các hãng phương tây: Các anh đầu tư vào đất nước này, chúng tôi rất hoan nghênh. Chúng tôi sẽ giảm thuế cho các anh, cho các anh thuê đất rất rẻ và cho phép các anh tiếp cận những thị trường mênh mông khác, không giới hạn. Chúng tôi chỉ yêu cầu một điều kiện. Đó là, các anh phải để lại công nghệ sản xuất cho chúng tôi, phải đào tạo nhân viên của chúng tôi thành những chuyên gia. Chấm hết!

Điều đó có nghĩa là, bao nhiêu bí mật nhà nghề do nghiên cứu hàng trăm năm qua, bây giờ phải tuôn ra hết. Đồng ý ký hay không đây? Mình không ký thì thằng khác nó lại nhảy vào mà thị trường thì béo bở, hốt bạc. Vả lại nhiệm kỳ mình làm Manager chỉ có vài năm thôi, phải tranh thủ chứ vì đằng nào vốn liếng của mình đã nằm chết ở đây rồi. Thế là sau vài đêm mất ngủ, họ nhắm mắt nghiến răng ký!

Trung Quốc chỉ chờ có thế. Họ dùng toàn bộ trí tuệ để thu Know- How của những nước văn minh bằng nhiều con đường, kể cả gián điệp kinh tế nhan nhản. 

Có những khi họ mua hai hoặc ba cái máy hiện đại hoàn toàn giống nhau. Một cỗ máy họ tháo ra nghiên cứu từng con ốc, viên bi rồi cho sản xuất lại những bộ phận ấy để copy hoàn toàn thành một chiếc máy mới. 

Hồi đó Trung Quốc ký với Đức làm đường sắt cao tốc 400 km/h. Họ nói, trước hết thử nghiệm từ sân bay quốc tế về trung tâm thành phố Thượng Hải 50 km, sau đó sẽ mở rộng ra toàn đất nước. Thủ tướng Đức Gehardt Schröder và thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ hân hoan cụng ly sâm banh trên đoạn đường sắt mới khánh thành. Nhưng đó là đoạn đường duy nhất Đức làm, sau đó TQ tự làm và bắt chước công nghệ Đức một cách tài tình!

Với việc đẩy mạnh toàn cầu hóa, phương tây tin rằng, một mặt kiếm lời, mặt khác sẽ biến thể chế của những nước này dần dần “tự do hóa” và hội nhập vào trật tự như ý họ muốn. Nhưng họ đã lầm. Chỉ trong vòng hơn 20 năm, từ một đất nước lạc hậu, Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế và công nghệ, thách thức vai trò của phương tây, trong khi họ vẫn giữ thể chế độc tài. 

Phương tây đã tự tạo ra sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng từ Trung Quốc như thuốc men, hàng tiêu dùng, đất hiếm. Họ đã tạo điều kiện để đối thủ vươn lên, mô hình xã hội tự do của phương tây bây giờ kém tính hấp dẫn hơn trước.

Có lẽ vì sự thành công trong chiến lược “Cải tổ thông qua thân thiện” của những năm 70 thế kỷ trước nên phương tây chủ quan ứng dụng cho các nước có nền văn hóa khác họ nhiều. Họ ít nghiên cứu về bản chất con người TQ và ngây thơ dễ tin nên nhiều trường hợp rơi vào tình trạng “nuôi ong tay áo”. Đối với Nga cũng thế. Bản chất của chính phủ Nga thể hiện rất rõ từ năm 2014 khi họ ngang nhiên thôn tính bán đảo Krim của Ukraine, nhưng phương tây chỉ phản đối lấy lệ. Phương tây chỉ nhìn lợi ích kinh tế và nguồn năng lượng rẻ từ Nga, bây giờ giật mình thì đã hơi muộn.

Nói tóm lại, quá trình toàn cầu hóa là quá trình phát triển tất yếu, nhưng phương tây chủ quan, ít nhiều thật thà khờ khạo và bây giờ phải trả giá đắt. Hy vọng đây là bài học xương máu để họ đánh giá các đối tác chiến lược trong tương lai. Tôi giật mình khi nghe thấy một chính trị gia cao cấp Đức phát biểu: “Từ trước đến nay chế độ độc tài chỉ có thể phồn thịnh một thời gian ngắn. Nhưng có thể bây giờ sẽ khác!”. 

Nguyễn Thế Tuyền

FBK. Rùa Tiên Sinh: Chúng ta không hề chống lại bất kỳ điều gì giúp Tổ Quốc mình thịnh vượng, hùng cường

Nếu những người đã theo dõi Facebook của em thì các cụ cũng biết. Chúng ta không hề chống lại bất kỳ điều gì giúp Tổ Quốc mình thịnh vượng, hùng cường.

Bản thân em hay tham vấn với nhiều người cũng có chức vị, tạm gọi là cấp khá cao, nhưng mình nói là 1 chuyện, còn các cốp có nghe và làm được không lại là chuyện khác. Rùa em trăn trở với những khó khăn của Việt Nam, những đường hướng sai lầm và nhưng thách thức thời đại mà chúng ta càng ngày càng phải đối mặt 1 cách quyết liệt.

Chúng ta không nhận mình là tri thức mới, nhưng chúng ta là công dân Việt Nam, chúng ta quan tâm đến vận thế quốc gia, lo lắng cho đất nước này đi trên những chặng đường dài chông gai để cải cách.

Thời đại mới, chúng ta không nên ảo tưởng về những sự ổn định giả tạo, xã hội chúng ta không biểu tình, không bạo động, nhưng xã hội đang trải qua những cảm giác bức xúc nhất, chúng ta mệt mỏi không? Cực kỳ mệt mỏi và ngột ngạt trong 1 xã hội ổn định và thịnh vượng giả tạo.

Tụi phương tây đã thất vọng với ta rồi nên bắt đầu trả đũa kinh tế, đang dùng kinh tế để bóp chúng ta, có vẻ tụi nó không cho chúng ta đứng theo kiểu 7-3 hay 4-6 mà là rõ quan điểm không khôn lỏi mập mờ nữa… khi Cô gái đẹp đã “mất trinh” thì một là làm vợ 2 là làm đĩ chứ không còn ỏng ẹo kiếm quà nữa rồi, đừng tỏ ra khôn lỏi kiểu tay phải nhận quà tay trái sờ cu thằng khác.

Trong nhiều bài phân tích địa chính trị của Việt Nam, em nói rằng Việt Nam có vị trí chiến lược quan trong trong khu vực, nhưng chúng ta không phải chốt chặn của các siêu cường, đừng ảo tưởng, chúng ta quan trọng trong khu vực địa lý, nhưng chúng ta cũng đang đối mặt với nhiều thách thức ở mọi phía từ phía bắc, phía đông, phía tây và hướng đông nam, kỳ thực , chúng ta đang bị bao vây, chúng ta không có khả năng vươn ra ngoài, chúng ta cực kỳ dễ tổn thương về mặt an ninh quốc phòng và an ninh kinh tế.

Chúng ta đã lựa chọn sai trong 15 năm từ 1985, chúng ta bỏ lỡ những thời điểm quan trọng nhất ở ASEAN, chúng ta ngạo nghễ với GDP sánh ngang hàng hoặc thua kém 1 chút với Thái Lan, Malaysia, Indonesia nhưng đó là những thống kê hết sức trẻ con mang tính ru ngủ. Chúng ta không tính đến sự tích lũy nguồn lực tài chính tư bản, tích lũy nguồn lực quốc gia về công nghệ, đổi mới hành chính, nâng cấp chất lượng xã hội, vốn công nghệ, tư duy xã hội hóa công sở, chuyên môn hóa văn hóa công nghiệp, những thứ này GDP không thể phản ảnh hết (và Rùa em chưa tính chúng ta không thống kê minh bạch được tốc độ tăng trưởng thật sự so với lạm phát, không phải ai có tri thức cũng tin rằng Việt Nam tăng trưởng 7.5% trong 3 năm qua)

Thôi thì 1 đời người cũng có thế, để mặc kệ thì ngứa mắt, ngứa mồm, mà nói ra cũng không thay đổi được gì, thôi kệ đi, biết phải làm sao ???

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

tienphong.vn: NGƯỜI RỤC - HẬU DUỆ NGƯỜI VIỆT CỔ

 NGƯỜI RỤC - HẬU DUỆ NGƯỜI VIỆT CỔ: 

Người Rục - Hậu duệ của người Việt cổ giữa đại ngàn Quảng Bình

Cuối năm 1959, Bộ đội Biên phòng Cà Xèng đóng tại Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, trong một lần tuần tra đã phát hiện một nhóm “người rừng” nhút nhát, người không mảnh vải che thân, leo trèo vách đá, chuyền cành nhanh như thú hoang.

Sau nhiều tháng tiếp cận, những chiến sỹ Biên phòng đã vận động được họ rời hang đá về định cư ở thung lũng Rục Làn, thuộc xã Thượng Hóa. Và từ đây tộc người Rục được biết đến như là người em út trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đến đầu năm 2013, sau hơn 50 năm hòa nhập cộng đồng, tộc người Rục được quốc tế đưa vào danh sách 10 bộ lạc còn nhiều điều bí ẩn nhất thế giới.

Theo ông Đinh Thanh Dự, Nhà nghiên cứu văn hóa các tộc người ở Quảng Bình, gần hết một đời người bỏ công nghiên cứu nhiều tộc người trên địa bàn, nhưng với người Rục vẫn còn nhiều điều bí ẩn đối với bản thân ông và các nhà khoa học đã từng nghiên cứu về họ. Nay tuổi già, sức yếu không cho phép ông có những chuyến điền dã, nhưng ông vẫn luôn đau đáu về những gì còn dang dở với người Rục.

Ông Dự khẳng định, bản thân người Rục không có họ, không có tộc danh, là một tộc người chậm phát triển nên vẫn đậm nét người Việt cổ. Vì họ sinh sống ở những hang đá, mà theo phương ngữ “rục” có nghĩa là hang đá có nước chảy qua nên các tộc người khác gán ghép cho họ là người Rục. Qua nghiên cứu về nhân chủng học, ngôn ngữ của người Rục, các nhà khoa học đã ghép tộc người Rục vào nhóm dân tộc Chứt ở Quảng Bình cùng với Sách, Mày, Mã Liềng, A Rem...

Trước khi rời hang đá, người Rục có 109 người, sống tách biệt, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, gặp người lạ là trốn chạy. Cuộc sống người Rục hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Họ chỉ quen leo trèo cây, thoăn thoắt trên các triền núi cao ngất để săn bắt chim thú, hái lượm, đào củ ráy, củ mài. Không mặc quần áo, nam nữ đều búi tóc đằng sau, che mình bằng vỏ cây sui, khi màn đêm buông xuống, họ cùng nhau tìm đến hang đá trú ngụ và thường ngủ ngồi.

Sau hơn 50 năm rời hang đá, nhưng vợ chồng ông Cao Chơn và Cao Thị Bim (hơn 80 tuổi) vẫn giữ nguyên nếp sống nguyên thủy của mình. Mặc dù đã được Nhà nước xây nhà, cấp đất trồng trọt nhưng ông bà không ở nhà mà thường xuyên chuyền hang đá để ở. Hai vợ chồng già vẫn nếp cũ, ngày săn bắt hái lượm, tối về hang ngủ ngồi mặc cho con cháu, chính quyền vận động.

Trưởng bản Mò O Ồ Ồ, anh Cao Văn Đàn (39 tuổi) cho biết, không chỉ ông bà Cao Chơn mà gần 500 người Rục hiện nay thi thoảng vẫn nhớ hang đá. Mặc dù có nhà cửa, nhưng cứ đến mùa rẫy nhiều gia đình vẫn dắt díu nhau vào hang sinh sống có khi vài ba tháng mới về...

Người Rục và những bí ẩn chưa lời giải

Theo ông Đinh Thanh Dự, hiện trong cộng đồng người Rục vẫn còn tồn tại hai dạng phép thuật rất bí hiểm mà các tộc người khác không có, đó là: Thuật thổi thắt, thổi mở và thuật hấp hơi. Trong những lần điền dã, ông Dự đã từng chứng kiến sự linh nghiệm của hai phép thuật này, nhưng cố công nghiên cứu về nó thì không thể. Vì người Rục xem đó là sự linh thiêng, không thể tiết lộ cho người ngoài.

Về phong tục ngủ ngồi, Cao Văn Đàn nói mình thế hệ sinh ở nhà nên không rõ lắm, nhưng có lẽ do nền đá cứng nếu nằm thì đau lưng. Với lại, xưa người Rục nhút nhát nên ngồi để dễ cơ động (chạy trốn) khi gặp người lạ và những mối đe dọa khác.

Ông Dự cho biết: Thuật thổi thắt, thổi mở của người Rục là dùng bùa chú thổi vào người phụ nữ để sinh hoạt vợ chồng không có con (gọi là thổi thắt); còn khi cần có con cũng dùng bùa chú để thổi vào người phụ nữ (gọi là thổi mở). Ngoài ra, người Rục còn có thuật hấp hơi để tránh thú dữ. Mỗi khi vào rừng, người Rục chỉ cần đọc câu thần chú thì dù có hổ, báo, voi rừng cũng không dám đến gần để tấn công. Điều này qua thực tế, dù sống chốn thâm sơn cùng cốc, nhưng chưa ai ghi nhận người Rục bị mãnh thú tấn công.

Trưởng bản Mò O Ồ Ồ, Cao Văn Đàn cho biết, những phép thuật nói trên nay không còn phổ biến trong cộng đồng người Rục, nhưng những thầy Ràng (dạng thầy Mo) vẫn còn lưu giữ. Anh Đàn cùng hai chiến sĩ Biên phòng dẫn chúng tôi tới nhà một thầy Ràng có tên Cao Ống. Ông năm nay đã 80 tuổi, ốm yếu, không đi lại được nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Sau một hồi thuyết phục, ông cũng đồng ý diễn lại các động tác trong thuật thổi thắt thổi mở. Những dụng cụ để ngay góc nhà, thế nhưng không ai dám đến lấy, vì sợ.

Mãi sau ông Cao Ngọc Ên là em trai của thầy Ràng Cao Ống sang mới dám mang các dụng cụ ra và tự tay ông sắp xếp như một buổi lễ thổi thắt, thổi mở. Dụng cụ gồm: hai ống nứa, một dài (1m), một ngắn (0,5m), một phiến đá nhỉnh hơn hai bàn tay ghép lại, một cái bát đựng nước, một cái đựng hoa. Ông Ên nói, còn thiếu sáp ong làm nến, hương và sợi tóc, hoặc sợi chỉ để vào bát nước.

Thầy Ràng Cao Ống ngồi xổm trên giường, hai tay cầm hai ống nứa cà phần đầu nhọn vào phiến đá phát ra âm thanh trầm bổng. Cùng lúc, ông đọc thần chú có vần điệu như hát theo giai điệu từ hai ống nứa. Vừa đọc, ông vừa thổi hơi vào bát nước. Theo thông lệ, chừng 30 phút sẽ đưa bát nước có sợi tóc, hoặc sợi chỉ cho người phụ nữ muốn thắt không sinh nở uống và sẽ hiệu nghiệm.

Ông Cao Ống cho biết, thổi mở cũng ở dạng này, nhưng bài chú sẽ có nội dung khác. Ông còn có thể thổi chữa bệnh đứt tay, chân, chảy máu, rắn độc cắn... và mỗi dạng bệnh tật có những câu chú khác nhau. Ngoài thuật hấp hơi để tránh thú dữ cho riêng mình, ông có thể dùng phép thuật vẽ một vòng tròn cho nhiều người ngồi trong đó để chống lại thú dữ. Tuy nhiên, khi hỏi về nội dung các câu chú, và nhờ dịch sang tiếng phổ thông thì ông lắc đầu: “Đó là điều thiêng và tối kỵ của người Rục, không thể để người ngoài biết được”.

Theo: tienphong.vn



KS. Mai Triệu Quang: Hiện tượng mặt đường lồi lõm, xô dồn, hư hỏng...

 Khi tham gia giao thông trên các trục đường có nhiều xe nặng chạy, tại các vị trí xe dừng chờ trước đèn tín hiệu, chúng ta sẽ thường thấy hiện tượng mặt đường lồi lõm, xô dồn, hư hỏng...trong khi đoạn đường trước đó,cũng do dùng một Nhà thầu thi công với cùng thời gian khai thác lại vẫn bằng phẳng. Cùng phân tích và thảo luận tại sao xảy ra hiện tượng này.

Vị trí đặc biệt của các điểm hư hỏng sớm nằm ở đoạn xe thay đổi vận tốc (giảm tốc độ và dừng lại trước đèn đỏ, và khởi động chạy khi có đèn xanh). Mặc dù lưu lượng xe như nhau và cả đoạn đường do một Nhà thầu thảm trong cùng ngày công tác, nhưng hư hỏng xuất hiện trước trong đoạn xe chạy chậm và thay đổi tốc độ. Trong điều kiện này, lực cắt từ tải trọng bánh xe xuất hiện trong các lớp bê tông nhựa lớn hơn nhiều so với các đoạn thông thường khác, làm phát sinh biến dạng dẻo trong các lớp bê tông nhựa và gây ra hiện tượng lún vệt bánh xe sớm hơn các đoạn khác. Việc này thực ra đã xảy ra từ lâu trên thế giới, và cách đây gần 20 năm đã có thể quan sát thấy ở các Dự án nâng cấp quốc lộ đầu tiên ở Việt Nam. Tuy nhiên ở thời điểm đó lưu lượng và tải trọng xe cũng nhỏ nên việc lún vệt bánh xe không phát triển nhanh như hiện nay, với lượng xe quá tải rất lớn và chưa được ki ểm soát thì hư hỏng phát triển rất nhanh, gây bức xúc cho xã hội và cũng làm mang tiếng cho anh em làm nghề Cầu đường chân chính.

Với lực cắt rất lớn từ tải trọng xe lên BTN tại các vị trí có điều kiện khai thác đặc biệt như trên, có thể nói việc áp dụng kết cấu mặt đường tại các vị trí đèn tín hiệu và vòng xuyến trên các trục đường có xe nặng chạy giống y như trên các đoạn trước đó là không còn phù hợp và lún vệt bánh xe hoặc hư hỏng mặt đường dạng xô dồn trước thời hạn tính toán chắc chắn sẽ xảy ra, nhanh hay chậm tùy vào lưu lượng xe và tải trọng thực tế. Do vậy trong điều kiện vẫn chưa thể có biện pháp kiểm soát tải trọng xe hữu hiệu như ở các nước phát triển, cần đưa ra kết cấu mặt đường đặc biệt ngay từ bước thiết kế hoặc gia cường kết cấu mặt đường tại các điểm này (trước đây việc này đã xảy ra ở đoạn đường vào các trạm thu phí trên Quốc lộ và hiện nay hầu như đã được thay bằng mặt đường bê tông xi măng). Tuy nhiên với diện tích không lớn thì kết cấu bê tông xi măng có giá thành khá cao và thời gian thi công lâu, các hư hỏng trên mặt đường BTXM nếu xảy ra khó sửa chữa. Do vậy việc nghiên cứu áp dụng kết cấu tối ưu hơn và cần có các Chỉ dẫn kỹ thuật để cởi trói cho các Đơn vị Tư vấn Thiết kế khi đưa ra kết cấu mặt đường đặc biệt cho các vị trí như thế này là cần thiết.

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

FBK. Kim Van Chinh: THEO DẤU CHÂN NGƯỜI CHĂM CHẠY TRỐN KHI THẤT THỦ

THEO DẤU CHÂN NGƯỜI CHĂM CHẠY TRỐN KHI THẤT THỦ

- Kim Văn Chính -

1. Khi tôi len lỏi vào các làng người Chăm còn sót lại ở Ninh Thuận và Bình Thuận (cũ), tôi cứ thắc mắc về một dân tộc lớn cũng một chín một mười với người Việt, có quốc gia Chăm Pa tồn tại suốt nhiều thế kỷ đã từng đánh ra tận Thăng Long vua Đại Việt phải chạy trốn, từng xây dựng nên những đến đài, cung điện nguy nga có giá trị cao về nghệ thuật và khoa học… Chả lẽ dân tộc đó giờ chỉ còn 1 nhúm người hiền lành, chất phác, lao động chân tay là chính??? 

Hay là họ đã chạy đi đâu? 

Câu hỏi người Chăm đã đi đâu khi bị người Việt thôn tính đất nước của họ là câu hỏi hay và chưa có lời đáp thỏa đáng.

2. Sau này, khi tìm hiểu thêm về văn hóa các vùng miền, nhiều “vùng miền” ngay tại Hà Nội như các khu dân cư Thạch Thất, Ba Vì, và nhiều làng ở xứ Đoài bao gồm cả các làng ngay cạnh Hà Nội như Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh, Phú Thượng và một số làng nghề trên Vĩnh Phúc, Bắc Ninh… tôi thấy rõ là người Chăm được các vua quan Đại Việt đồng hóa rất khéo: vừa bổ sung được lực lượng nhân lực, vừa sử dụng được các nghề của người Chăm giỏi hơn người Việt như nghề dệt, nghề mộc, nghề xây, nghề gốm, nghề làm đá ong xây nhà… 

Đồng hóa khéo đến mức sau đôi trăm năm là không ai con nhớ đến tổ tiên của mình là Chăm Pa nữa... tất cả đã biến thành bộ phận người Việt.

3. Nhưng có một bộ phận ưu tú rất lớn của người Chăm họ đã chạy trốn. 

Con đường họ chạy qua Tây Nguyên rừng rú (không hợp với văn hóa sông nước và canh tác đất trồng của họ).

Họ chạy vượt qua Tây Nguyên, qua vùng rừng rậm Đông Bắc CamPuchia thì gặp sông Mekong đất đai trù phú và dân cư thưa thớt và cũng là ranh giới đụng với người Khmer vốn cũng là kẻ thù truyền kiếp của họ. Đúng là trời còn thương họ. 

Họ định cư vùng dọc sông Mekong – mảnh đất sau được gọi và đến bây giờ vẫn gọi là Kong Pong Chàm (bến sông của người Chàm - Chăm) 

4. Khổ nỗi, những con người Chăm di cư đó thuộc dòng ưu tú của dân tộc Chăm và họ cũng chết ở cái đặc điểm ưu tú đó .

Vì ưu tú mà họ rất giỏi nhiều mặt, trong đó có chuyện làm chính trị - tham gia và can thiệp khá sâu vào nền chính trị của Đế quốc Khmer – Đế quốc kẻ thù không đội trời chung của Đế quốc Chăm Pa xưa.

Lúc gặp thời thì họ có thế mạnh như diều gặp gió, nhưng Campuchia (Khmer) họ lúc thế này lúc thế kia và thay đổi vua xoành xoạch. Khi ông vua khác lên ngôi, họ quy cho người Chăm góp phần làm loạn họ và cuộc tàn sát người Chăm bởi người Khmer con kinh khủng hơn cả người Việt đã tàn sát họ trên quê hương Đồ Bàn… 

(Hồi trước 1975 tôi bộ đội ở Campuchia chỉ huy có dặn tôi khi đi công tác lẻ không được ngủ lại ở làng bản người Chăm vì họ có thể sẽ chặt đầu bộ đội) 

5. Người Chăm lại phải chạy một lần nữa. Lần này họ chạy dọc sông Mekong xuống hạ lưu… 

Trời không thương họ nữa…

Chạy hết đất của người Khmer thì họ lại gặp kẻ kỳ phùng địch thủ là người Việt ở vùng biên giới nay là Châu Đốc – Tân Châu – Hồng Ngự và đó là lý do tại sao vùng đó rất nhiều người Chăm như vậy – người Chăm vùng đó thông minh, mặt mũi sáng sủa hơn Chăm Ninh Thuận rất nhiều… 

Nhiều nhóm chạy tiếp ra nước ngoài (Malaysia, Indonesia, Thái Lan).

Cụ Nguyễn Văn Thoại đã sử dụng họ phục vụ luôn cho sự nghiệp đào kênh Vĩnh Tế - lợi cả đôi đường. 

(Các ảnh tác giả chụp dọc theo sông Mekong, nơi có các cộng đồng Chăm định cư)































Thứ Tư, 24 tháng 9, 2025

Dương Hào Nam : LỐI VÀO ĐỊA NGỤC - P2

LỐI VÀO ĐỊA NGỤC - P2

Dương Hào Nam ✍️ 

…..

Ở một nơi nào đó, giữa những toà nhà đóng kín ở Campuchia, Philippines hay Myanmar, có những người Việt trẻ đang ngồi trong căn phòng không cửa sổ, tay gõ bàn phím, miệng nói những lời dối trá qua điện thoại. Họ đang gọi đến một người Việt khác – một đồng bào vô danh nào đó – để thực hiện một cuộc lừa đảo. Không phải vì họ xấu xa. Mà vì nếu họ không làm thế, họ sẽ bị đánh, bị chích điện, bị bỏ đói, bị bán đi... thậm chí là mất cả mạng sống.

Đó không phải là cảnh trong một bộ phim kinh dị viễn tưởng. Đó là sự thật, đang diễn ra hằng ngày, ngoài rìa của thế giới văn minh này. Và đau đớn thay – người Việt đang bị biến thành công cụ để lừa chính người Việt, trong một guồng máy tội phạm mà người nước ngoài điều khiển và hưởng lợi.

Một bi kịch đa tầng: nạn nhân, hung thủ, và món hàng

PHẦN 1: “CHÓ ĐẨY” VÀ NHỮNG CON “LỢN NON”

“Tôi mất ba tháng để vào được bên trong. Một tuần để học cách im lặng. Ba mươi giây để thấy mình có thể trở thành ‘hàng’ bất cứ lúc nào.”

Không có biển tên. Không có đường đi chính thức. Chúng tôi rẽ qua ba lần trạm gác, không một viên cảnh sát nào hiện diện. Chiếc xe tải hiệu Hino cũ kỹ, chở hàng cứu trợ in dấu hiệu Hội Chữ thập đỏ giả, lắc lư trên đoạn đường đất đỏ, tiến về phía Bắc Myanmar – nơi bản đồ Google chỉ còn lại khoảng trắng.

Người địa phương gọi nó là “con tàu”. Không phải vì nó nổi trên nước, mà vì nó trôi nổi giữa lằn ranh của sự sống và cái chết. 

Tại đây, giữa rừng già và những bãi rác công nghiệp, một cơ sở y tế di động được dựng lên. Không giấy phép. Không camera. Không nhân quyền.

Bên trong, người ta mổ nội tạng người như mổ lợn, mọi việc diễn ra hết sức bình yên, như một khu chợ chuyên giết mổ súc sinh nào đó.

Họ gọi những nạn nhân này là “lợn con” – trẻ, khoẻ, dễ vỗ béo. Đủ loại: trẻ vị thành niên bị lừa qua ứng dụng tuyển dụng, người nhập cư bị gài bẫy, dân cờ bạc thua trắng tay bị bán trừ nợ, bạn bè tin tưởng nhau bị bán đứng... 

Còn “chó đẩy” – là để gọi những đội hình di động. Canh gác, áp tải, dọn dẹp, đôi khi là kết liễu nếu ai đó tỉnh lại giữa ca mổ. 

Họ không cần biết tên nạn nhân. Họ chỉ biết giá của một quả thận là bao nhiêu trên thị trường chợ đen Quảng Châu.

Tôi đã ăn cơm cùng họ. Ngủ cạnh họ. Và từng sáng, mở mắt ra, không biết liệu hôm nay mình sẽ cầm bút – hay bị trói ngược hai tay trên một bàn phẫu nào đó.

Không có chuông báo động. Không có loa gọi cấp cứu. Ở đây, mọi thứ vận hành bằng ký hiệu tay và ánh mắt. Không ai nói to. Không ai cười. Chỉ có tiếng máy phát điện nổ phành phạch và mùi thuốc sát trùng trộn với mùi mồ hôi người.

Tàu y tế là tên gọi mỹ miều. Thực chất, nó là dãy container ghép nối, sơn trắng loang lổ, dựng giữa bãi đất trống nơi tín hiệu điện thoại chập chờn. Mỗi container là một "khoa" khác nhau: tiền phẫu, phẫu thuật, hậu phẫu (thường chỉ là phòng lạnh). Có cả "phòng lưu kho", nơi họ giữ những “lợn con” chưa đến lượt. Họ cho nạn nhân uống thuốc ngủ mỗi ngày, tiêm tĩnh mạch và chất ổn định huyết áp – không phải để cứu, mà để duy trì tình trạng nội tạng đạt chuẩn cho đến lúc đem lên bàn mổ.

Tôi được sắp xếp làm trợ lý y tế, danh xưng nội bộ gọi là “găng tay”. Nhiệm vụ: lau máu, ghi chép, giữ miệng. Những bác sĩ ở đây không phải là người không có bằng. Trái lại, nhiều người từng làm việc trong các bệnh viện lớn ở Trung Quốc, Thái Lan, thậm chí có cả một bác sĩ Việt từng công tác ở Phnom Penh. Họ đều có điểm chung: biến mất khỏi hệ thống y tế chính thống vì lý do nào đó – sai phạm, trốn nợ, mất giấy phép, buông thuốc giả, nhận hối lộ, trốn truy nã... Và nơi này là "phao cứu sinh" của họ.

Một “ca tốt” thường diễn ra trong 17 phút. Nếu thuận lợi, các bộ phận như: thận, gan, và đôi mắt đều còn nguyên vẹn. Nếu trục trặc – có thể là phản ứng thuốc, ngừng tim, hoặc nạn nhân tỉnh dậy giữa chừng– thì chuyển thẳng qua "thùng lạnh".

Tôi nhớ một cậu bé, người Kachin, độ chừng 14 tuổi. Bị dụ rằng sẽ đưa qua Thái làm phục vụ nhà hàng. Khi tỉnh dậy trong container, em chỉ hỏi một câu: "Mẹ cháu có đi cùng không?" 

Không ai trả lời. Ba ngày sau, tên em biến mất khỏi danh sách. Nhưng con dao mổ vẫn còn nhuốm máu trẻ con.

Không ai ở đây hỏi nhau đến từ đâu. Nhưng ai cũng biết mình sẽ đi về đâu. Hoặc là rời đi bằng chân. Hoặc là được đưa ra bằng cáng, không bao giờ mở mắt trở lại.

NHỮNG “GIAO DỊCH” XUYÊN BIÊN GIỚI

Nội tạng không tự nhiên mà xuất hiện ở thị trường Quảng Châu, hay Thẩm Quyến. Chúng được “xuất khẩu” – lặng lẽ, trơn tru, và cực kỳ chính xác.

Một quả thận loại 1 – nghĩa là tươi, người hiến còn sống cho đến phút cuối – có thể được bán với giá 60.000 đến 80.000 USD một quả, thời điểm như hiện nay có lẽ đã lên đến hàng triệu đô la. 

Gan thì chia theo phân thùy, phổi thì tùy thuộc vào chỉ số oxy hóa. Mắt, tụy, da – những phần ít được chú ý – đôi khi cũng mang lại giá trị không ngờ.

Nhưng điều khiến tôi không thể quên, là cách mọi giao dịch đều diễn ra giống như buôn hàng điện tử.

Mỗi bộ phận được đóng gói trong hộp y tế, niêm phong chân không, kèm mã QR và tem chống giả của các tổ chức viện trợ quốc tế. Một số thậm chí còn được dán nhãn “mẫu xét nghiệm sinh học”. Chúng được vận chuyển qua biên giới bằng xe cứu thương giả, máy bay dân dụng, và cả… drone.

Mạng lưới trung gian chia làm ba lớp:

“Nội cẩu” – những kẻ chuyên săn lùng người sống, từ game thủ nghiện game bị dụ sang "làm job", đến dân tị nạn, lao động mất giấy tờ…

“Trung gian lạnh” –  những tổ chức đều có những vỏ bọc pháp lý, như: công ty vận chuyển y tế, tổ chức từ thiện, hoặc phòng khám ngoại vi, lực lượng nhân đạo, hội chữ thập đỏ vv&vv.

“Đơn vị đặt hàng” là những bệnh viện ngầm ở các thành phố lớn, thậm chí có nơi là khoa ghép tạng trong các cơ sở hợp pháp, nhưng “làm thêm” ngoài giờ. Những ông trùm bà chúa, tiền, với họ chưa bao giờ là vấn đề, họ cần sống.

Tôi từng thấy một chuyến hàng được chuyển đi chỉ trong vòng 7 tiếng sau khi ca mổ kết thúc. Người nhận là một doanh nhân Malaysia cần ghép gan gấp. Toàn bộ hồ sơ bệnh án đã được làm giả trước 48 giờ. Bệnh nhân không biết – hoặc không muốn biết – gan đó đến từ một thiếu niên 17 tuổi người Lào, bị bán sau một trận thua bạc.

Một bác sĩ từng nói với tôi, khi đang lau kính:

-“Cậu biết không? Cái ghê tởm nhất không phải là mổ sống người ta… mà là biết họ sắp chết, nhưng vẫn phải giữ cho họ sống thật khỏe – cho đến khi đúng giờ.”

Ở đây, tử thần không đến bằng lưỡi hái. Hắn mặc blouse trắng và dùng bút ký tên vào những đơn hàng.

……

LỜI THÌ THẦM CỦA “CHÓ ĐẨY”

Tôi gọi hắn là Thauk – nghĩa là “mỏng manh” trong tiếng Shan. Hắn không mỏng manh. Trái lại, cao hơn mét tám, xăm kín hai tay, và từng bóp cổ ít nhất ba nạn nhân bỏ trốn, theo như lời kể lại từ “phòng hậu phẫu”. 

Nhưng có một điều khiến tôi chú ý: hắn hay nhìn lên trần mỗi khi nghe tiếng la hét từ container số 3 – nơi có bàn mổ chính.

Tối hôm đó, tôi thấy hắn ngồi một mình cạnh thùng phát điện, hút thuốc cuộn bằng giấy báo. Khi tôi đến gần, hắn nói một câu tiếng Việt lơ lớ:

“Tao từng làm bảo vệ ở Hải Phòng. Không giết ai. Chỉ giữ cửa.”

Chúng tôi ngồi cạnh nhau một lúc lâu. Rồi hắn kể.

“Lần đầu tao ‘đẩy’ một đứa là thằng bé Miến Điện, giống như em trai tao. Tao giữ nó nằm im. Bác sĩ đâm mũi tiêm vào cổ, mà nó vẫn mở mắt. Khóc không ra tiếng. Tối đó tao ói cả máu.”

Tôi hỏi, sao không bỏ trốn.

Hắn nhìn tôi như nhìn một thằng ngu.

“Trốn đi đâu? Mỗi người tao từng giữ, từng giao, là một móc xích. Tao mà đi, tụi nó sẽ kéo tao về. Không bằng cách này thì cách khác.”

Rồi hắn nói câu cuối:

“Nhưng tao có giữ lại một cuốn sổ. Tên, tuổi, ngày mổ. Tao biết chỗ giấu. Nếu tao chết, mày phải đem nó ra.”

Lúc ấy, tôi tưởng hắn nói đùa. Nhưng hai ngày sau, container số 6 phát cháy.

Không ai tìm thấy xác Thauk. Người ta nói hắn ngủ quên, chết ngạt. Người khác bảo hắn bị “xử” vì muốn nghỉ tay.

Tôi biết, có một điều chắc chắn: ai giữ sự thật, sẽ bị sự thật nuốt chửng.

….

Ba ngày sau vụ cháy, tôi nhận được một gói giấy gói bằng bạt dầu, nhét dưới nệm ngủ của tôi. Không có ai nhìn thấy. Không ai hỏi. Bên trong là một cuốn sổ da, đã cũ và ám mùi formalin.

Bìa trong chỉ có một dòng viết nguệch ngoạc bằng bút bi xanh:

“Nếu mày đọc được cái này, thì tao không còn nữa.”

Thauk.

Cuốn sổ không dài. Khoảng bảy mươi trang, mỗi trang ghi một dòng: mã số, giới tính, tuổi ước đoán, ngày "thu hoạch", và ký hiệu lạ – giống mã QR viết tay, mà sau này tôi mới biết là dạng mã hóa tuyến đường vận chuyển.

Có những dòng tên không kèm tuổi. Chỉ ghi:

F — 14 — mắt / gan / da

M — 23 — thận trái / phổi phải

M — ? — phá hàng / thiêu

Những dòng sau cùng có đánh dấu đỏ. Một trong số đó là mã: VN-019-GIA-THANH. Tôi đứng sững. “Gia Thanh” là tên một ngôi làng ở sát biên giới Lào – nơi có ba người phụ nữ Việt mất tích năm ngoái, sau khi qua biên để làm việc cho một công ty du lịch giả mạo.

Tôi nhớ lời Thauk:

“Nếu tao chết, mày phải đem nó ra.”

Nhưng “đem ra” bằng cách nào? Tôi không có mạng. Không có đồng minh. Ở đây, ai cũng có thể là mắt xích. Ai cũng có thể báo cáo.

Tôi giấu cuốn sổ vào lòng gối, khâu lại. Mỗi đêm, tôi bắt đầu bí mật chép lại vào các bao thuốc, giấy vệ sinh, bất cứ gì có thể đưa ra ngoài khi tôi “đi giao thuốc” vào thị trấn gần nhất.

Một buổi sáng, khi tôi đang đứng đợi xe tải giao hàng, một người đàn ông mặc áo khoác cao cổ ghé tai tôi:

“Cẩn thận. Có người biết mày giữ gì.”

Tôi chưa kịp hỏi ai thì hắn đã biến vào đám đông.

Đêm hôm đó, tôi bị chuyển công tác – không lời báo trước. Từ trợ lý y tế sang tổ “vệ sinh xác”. Chỉ có một lý do: ai đó muốn tôi biến mất khỏi hệ thống hành chính.

Và tôi hiểu: từ giờ trở đi, tôi không còn là “găng tay”. Tôi là một "lợn con" đang chờ đến lượt.

Ở tổ “vệ sinh xác”, thời gian trôi qua không tính bằng giờ – mà tính bằng mùi. Mùi máu cũ thấm vào khẩu trang. Mùi hóa chất sát trùng quyện trong từng nếp áo. Mùi người chết – vừa quen, vừa không bao giờ quen được.

Tôi bị cắt liên lạc hoàn toàn với “phòng chính”. Không được đi thị trấn. Không được ra khỏi khu vực container số 5. Mỗi sáng, tôi phải dọn một đến hai thi thể, chuẩn bị cho “lò hủy” hoạt động vào rạng sáng hôm sau. Có người nói đùa gọi nơi này là “trạm cuối”.

Tôi biết, nếu không hành động, sớm muộn gì tôi cũng sẽ nằm lại đây – với tên mã, không mặt mũi, không câu chuyện.

Lần cuối tôi được ra ngoài, là ba hôm trước đó, khi cùng một y sĩ đưa mẫu máu vào thị trấn để “kiểm nghiệm chéo”. Tôi nhớ rõ: phòng thí nghiệm nằm trong một tiệm thuốc tây – nơi có wifi công cộng yếu ớt, phát sóng từ quán café bên cạnh.

Kế hoạch hình thành.

Đêm đó, tôi moi cuốn sổ từ trong gối, chép lại ba trang có mã người Việt, rồi xé mảnh giấy bọc trong bao thuốc. Tôi nhét nó vào một chiếc lọ mẫu máu – giả làm phần gửi đi kiểm tra. Sáng hôm sau, khi đi cùng y sĩ, tôi giả vờ nôn để xin vào tiệm thuốc trước. Trong 17 giây ngắn ngủi, tôi mở wifi, truy cập địa chỉ Gmail giả định mà tôi đã tạo từ năm ngoái – dùng tên thật duy nhất tôi dám giữ: của mẹ tôi.

Gửi: pham…58@gmail.com

Chủ đề: KHẨN

Nội dung:

"Nếu ai đọc được, đây không phải là thư rác. Tôi đang ở biên giới Shan – Myanmar. Tổ chức buôn nội tạng người. Dưới đây là mã xác nhận nạn nhân. Xin báo giới. Xin gửi đến các tổ chức nhân quyền.

Không cần cứu tôi. Chỉ cần cứu người kế tiếp."

Tôi nhấn gửi. Wifi chập chờn. Không báo “thành công”. Nhưng cũng không báo lỗi. 50-50 – như mỗi ca mổ.

Tối đó, khi về lại trạm, tôi thấy container số 1 sáng đèn. Lạ. Thường giờ đó đã tắt. Một người đàn ông lạ mặt, đeo kính, mặc sơ mi trắng sạch sẽ bước ra, nói gì đó với đám “chó đẩy” bằng tiếng Trung. Một trong số họ quay lại nhìn tôi.

Tôi cúi mặt xuống. Biết rằng: hoặc tín hiệu đã ra ngoài – và tôi sẽ chết. Hoặc tín hiệu chưa đến đâu – và tôi phải làm thêm một điều nữa để đẩy nó đi xa hơn.

……..

Không có còi báo động. Không có tiếng bước chân. Chỉ một chiếc túi trùm đầu và một cú đập gọn vào gáy.

Tôi tỉnh dậy trong một căn phòng trắng, trắng đến chói mắt – trắng như không có ký ức, trắng như thể mọi điều tôi từng biết đều đã bị tẩy sạch.

Trên bàn là một ly nước, và một chiếc đồng hồ đã chết pin. Một cái ghế kim loại lạnh như đá. Và đối diện tôi, là người đàn ông mặc sơ mi trắng mà tôi đã thấy đêm qua. Hắn không có tên. Chỉ có một nụ cười không mang biểu cảm.

"Anh là ai?" – hắn hỏi. Không chờ trả lời, hắn mở một tập hồ sơ mỏng.

"Tốt nghiệp báo chí, Hà Nội. Mất tích tại Chiang Rai, Thái Lan, tháng 11 năm ngoái. Vào đây với thân phận giả – trợ lý y tế. Mạnh miệng thật."

Tôi không trả lời. Hắn không cần. Hắn chỉ cần tôi biết rằng hắn biết tất cả.

"Anh đã gửi tín hiệu. Chúng tôi không ngu đến mức không có người kiểm soát wifi quán cà phê đó."

Hắn đẩy chiếc điện thoại vào tay tôi. Mở sẵn một tấm ảnh: hình tôi, cúi đầu, tay cầm điện thoại, chụp từ camera góc phố. Dưới là dòng chữ: “XÁC NHẬN: ĐÃ GỬI.”

Tôi gục đầu. Không phải vì hối hận. Mà vì biết mình vừa vượt qua một lằn ranh mà không thể quay lại được .

"Anh nghĩ mình là người hùng? Muốn phơi bày? Được thôi."

"Nhưng anh có nghĩ, mỗi cái tên trong cuốn sổ đó đều có người trả tiền để được sống? Và có cả trẻ em trong đó không? . Còn có những ông bố đang hấp hối vì suy thận. Những người mẹ đơn thân chờ gan. Và họ không hỏi gan đến từ đâu. Họ chỉ cần sống." Anh hiểu chứ?

Tôi bật cười. Một kiểu cười khô khan, méo mó.

"Và còn cần bao nhiêu người chết nữa chỉ để họ được sống?"

Hắn không đáp. Hắn chỉ đứng lên, rút trong túi ra một vật nhỏ – là cuốn sổ của Thauk. Bìa da đã ướt, vết máu loang mờ dòng chữ.

"Anh nghĩ chỉ có mình anh thông minh? Thauk chết không vì phản bội. Mà vì anh ta quá tin tưởng người khác."

Tôi nghe rõ từng chữ, như búa tạ gõ lên tim. Tôi đã bị theo dõi từ lúc đầu. Có lẽ ngay cả việc tôi được “sắp xếp” vào tổ vệ sinh cũng là một phép thử. Một ván cờ đã an bài, và tôi chỉ là quân tốt tưởng rằng mình biết luật.

Hắn tiến đến gần, thì thầm:

"Tôi cho anh một lựa chọn."

"Một: biến mất, như chưa từng tồn tại. Chúng tôi có cách khiến cái xác của anh trôi xuống sông Mekong và được tìm thấy với hồ sơ giả – chết đuối khi đi câu cá. Gia đình sẽ nhận tro cốt, được an ủi rằng anh đã ngủ yên."

"Hai: hợp tác. Ghi chép, biên tập lại tất cả, làm thành hồ sơ nội bộ. Không công khai. Chỉ lưu trữ cho… mục đích ‘điều chỉnh’. Chúng tôi cần người viết như anh. Có năng lực. Có sự dấn thân."

Tôi nhìn hắn.

"Nếu tôi chọn ba?"

Hắn nhướng mày.

"Ba?"

"Tôi sống. Anh chết."

Tôi lật bàn, ly nước văng vào mặt hắn. Hắn ngã, va đầu vào cạnh bàn. Không bất tỉnh, nhưng đủ để tôi đạp cửa bỏ chạy.

Tiếng còi hú vang lên. Lần đầu tiên, tôi thấy nơi này thật sự có báo động.

Và tôi biết – đây là lúc hoặc chạy, hoặc chết.

Tôi lao ra hành lang, chân trần, đầu vẫn còn váng vì trận đập trước đó. Còi hú đỏ nhấp nháy trên trần như mắt cú – mỗi chớp sáng là một lần tôi cảm giác bị phát hiện.

Không có bản đồ. Không có chìa khóa. Không đồng minh.

Chỉ có bản năng.

Dãy hành lang chia làm ba nhánh. Một nhánh dẫn xuống tầng hầm – không thể. Một nhánh có hai lính gác đang chạy tới – cũng không thể. Tôi chọn lối còn lại: lối chứa vật tư y tế. Cửa khép hờ, đèn mờ vàng. Tôi lao vào, đẩy giá inox, tạo tiếng đổ lớn – một mồi nhử.

Tiếng chân lính rẽ hướng.

Tôi trườn qua một lỗ thông gió phía sau – không phải loại dùng để chui người, nhưng tôi từng giảm 6 ký trong trại, ăn cháo và mì gói suốt ba tháng. Mọi cái đói đều có ích lúc này.

Ống thông dẫn tôi ra một khoảng trống phía sau container số 2. Tôi nhận ra khu vực này – là nơi thiêu xác. Không ai đứng canh, vì chẳng ai nghĩ có cái xác nào còn đủ nguyên vẹn để trốn về từ lò đốt.

Tôi lần theo vệt xăng cũ, bò sát dưới các ống dẫn, mùi thịt cháy cũ vẫn còn ám trong không khí – làm tôi buồn nôn nhưng không dám thở mạnh.

Phía xa, Cổng Số 0 – cánh cổng chỉ mở khi có xe tiếp tế đi vào từ đường rừng. Tôi từng nghe Thauk nói:

“Muốn đi mà không ai biết? Cổng số 0. Nhưng nó không có đường. Chỉ có rắn, mìn, và rừng thưa kéo dài bảy cây số.”

Tôi không biết dùng bản đồ. Nhưng tôi biết cách băng rừng. Tôi từng theo các đội cứu hộ tự do dọc biên giới Thái – từng ngủ dưới hốc đá cả đêm chỉ để ghi âm một cuộc giao dịch ma túy.

Lần này, không phải ma túy. Mà là mạng người.

Tôi đến sát cổng. Khóa cơ học. Ổ gỉ sét, nhưng vẫn hoạt động. Tôi tìm được một thanh kim loại từ khung xe rỉ gần đó – cố nạy. Một phút. Hai phút.

Tách. Khóa bật.

Ngay lúc đó – một viên đạn sượt ngang tường.

Có người phát hiện. Không nói. Không hét. Nhưng bắn không do dự.

Tôi không quay đầu. Tôi chạy. Đôi chân đạp lên lá mục, gai rừng, đá sắc. Mỗi bước chạy là một lần thở máu. Mắt mờ, tim dội vào tai như trống. Phía sau có tiếng người, nhưng bị rừng nuốt chửng.

Tôi không biết đã chạy bao lâu. Chỉ nhớ lúc gục xuống – là khi thấy ánh đèn vàng nhấp nháy trên một cột tre, dấu hiệu của nhóm cứu hộ biên giới Lào.

Lúc đó, tôi không khóc vì mừng. Chỉ nghĩ: Mình chưa chết. Nghĩa là còn kịp nói ra.

……

Sau ba ngày được cứu, tôi được giấu trong một trại y tế ở vùng núi biên giới Lào – nơi không có tên, chỉ có mật danh: “P-7.” Tại đây, tôi gặp những người mà tôi không biết là đang trốn khỏi địa ngục hay đang mang nó theo trong người.

Một trong số đó là A Neng – cô gái người Lisu, chưa đến 20 tuổi, sống sót sau khi bị “thu hoạch hụt”. Thận cô không tương thích với người mua cuối cùng, nên bị trả về – trong tình trạng thiếu một quả thận và mất giọng.

Cô giao tiếp bằng cử động tay và ánh mắt – ánh mắt không còn phản xạ sợ hãi. Chỉ trống rỗng.

Bác sĩ ở trại kể, cô từng là một trong số “lợn sinh phẩm” – loại hàng được giữ sống lâu dài, di chuyển theo nhu cầu từng bộ phận. Những người như cô không có tên trong sổ tử. Không được tính là “đã chết”. Chỉ là hàng tạm thời dừng sử dụng.

Tôi bắt đầu lục lại cuốn sổ của Thauk – lúc này đã được sao chụp và mã hóa. Có những mục ký hiệu đặc biệt mà tôi từng bỏ qua:

LS-5/12-TB – Lợn sinh phẩm, cấp 5, 12 bộ phận còn khả dụng, tình trạng: tạm bảo quản

KZ-DNR – Khách “không muốn biết nguồn gốc”

RER-B02 – Đơn hoàn trả vì sai mẫu gen (lý do: “máu xấu, mùi lạ”)

Họ chê máu người. Họ trả hàng vì mùi cơ thể.

Con người, từ lúc nào, đã biến thành một món hàng có hạn sử dụng, có điều kiện bảo hành?

Có một trang đặc biệt tôi không bao giờ quên:

F — 16 — sống — mắt / buồng trứng / da mặt

Tình trạng: chờ gỡ dần – theo tiến trình 3 tháng

Người mua cuối cùng: Private bidder | UAE

“Gỡ dần” là cách nói nội bộ cho phương pháp giữ “hàng còn tỉnh”, để tươi tối đa trong từng lần thu hoạch. Buồng trứng trước. Sau đó là mắt. Sau cùng, là lớp da mặt – cắt sạch, đóng gói, chuyển qua máy đông mềm.

Tôi nôn khan. Nhưng không còn gì để nôn.

Một đêm, bác sĩ trại gọi tôi ra ngoài lán. Anh lặng lẽ đưa tôi một bản fax cũ từ một máy truyền tín hiệu vệ tinh. Là bản tin rò rỉ từ Bangkok – có một đoạn ghi âm đã được tung ra mạng, chứa tiếng của tôi nói khi gửi thư qua wifi quán cà phê.

“Tôi đang ở biên giới Shan – Myanmar. Tổ chức buôn nội tạng.

Không cần cứu tôi.

Chỉ cần cứu người kế tiếp.”

Đoạn ghi âm kéo theo chuỗi điều tra, nhưng chỉ ở mức tin đồn. Không bằng chứng. Không danh tính. Không ai biết tôi là ai – cũng không ai biết tôi đang còn sống.

Và những container y tế vẫn tiếp tục lăn bánh.

Tôi hiểu rằng: cái chết không xảy ra sau một nhát dao. Nó bắt đầu từ lúc ta bị gọi bằng mã số. Từ lúc đôi mắt ta được cân đo bằng gram. Từ lúc ai đó bên kia màn hình chấp nhận thanh toán bằng tiền điện tử, và chọn vào Click - “mua ngay”.

…..

Tôi từng nghĩ cái chết là điểm kết thúc. Nhưng ở vùng tam giác đó – chết chỉ là trạng thái chuyển tiếp.

Khi còn ở tổ "tiền kiểm", công việc của tôi là đo nồng độ máu, áp suất tim, chức năng gan của những “đối tượng mới nhập”. Không ai gọi họ là bệnh nhân. Không ai gọi họ là người. Chỉ có ba từ: “hàng vào kho.”

Một buổi sáng mưa, tôi được lệnh hỗ trợ trong “ca kiểm tra nhanh”. Một cô gái người Kinh, khoảng 17 tuổi, được đẩy vào – tóc cắt ngắn, mặc áo thun lấm lem bùn đất. Tôi được giao việc giữ tay cô trong lúc bác sĩ chính – người họ gọi là “Dao số 2” – kiểm tra vùng bụng.

Tay cô lạnh như nước giếng.

“Gan mềm. Có sẹo cũ – không lấy.”

“Thận phải tốt. Lọc tạm.”

“Tách tử cung sau.”

Không ai hỏi cô có đồng ý không?.  Không ai giải thích với cô điều gì. Cô cũng không khóc. Chỉ nhìn lên trần – nơi có vết máu đã khô, nứt theo đường ống điện.

Tôi buông tay khi thấy kim tiêm số 18 được đẩy vào cổ tay cô, không gây mê. Chỉ là morphine liều thấp, vừa đủ để không cắn lưỡi, nhưng vẫn tỉnh để thở.

Tôi nôn trong chậu inox khi Dao số 2 cắt xuống phần bụng. Lúc tôi ngẩng lên, cô đã không còn mắt. Đôi mắt ấy được đặt trong một chiếc hộp lạnh, nhỏ, màu xanh, dán mã vạch của một khách “đặt trước.”

Họ nói, mắt là hàng dễ hỏng, cần lấy đầu tiên.

Có những ca tôi không buồn nhớ tên. Vì không ai có tên để nhớ.

Một cậu bé người Lào, 14 tuổi, mồ côi, nhập viện vì “chấn thương chân.” Sau đó được mổ lấy tủy sống, bởi khách cần tủy “tuổi chưa dậy thì.”

Một phụ nữ mang thai tháng thứ 6 – chồng cô bán cô với giá tương đương 2 chiếc xe máy. 

Gan cô bị tổn thương vì lao phổi, nhưng bào thai thì khỏe. Họ tách bào thai – không để nuôi. Mà để lấy cuống rốn, gửi về phòng lab tại Kunming.

Tôi từng hỏi một người trong tổ kiểm định mẫu sinh học – anh tên là Ye, người Vân Nam, từng học y một năm. Anh nói câu này:

“Ở đây, y học là con dao hai lưỡi. Nhưng cả hai lưỡi đều dùng để cắt người.”

Tôi hiểu. Không có cứu chữa. Không có phục hồi. Chỉ có thu hoạch. Cái chết ở đây không diễn ra ngay lập tức. Nó là một tiến trình có kế hoạch.

Khi thân xác đã cạn giá trị, họ được đưa về tổ “vệ sinh xác” – nơi tôi từng dọn những thi thể không còn hình dạng:

Mất toàn bộ mô mềm ở mặt

Không có vú, môi, tóc

Cổ họng cắt mở để hút khí quản

Đầu gối bị rút khớp để lấy tủy

Bộ phận sinh dục biến mất như chưa từng tồn tại

Tôi nhớ rõ một người. Cô ấy còn đeo dây chuyền – có mặt Phật bằng bạc. Tôi giữ lại sợi dây đó trong túi áo suốt 3 tháng sau, như một cách để nhớ rằng: ngay cả thánh thần cũng phải im lặng ở đây.

Trong đêm, tôi thường mơ thấy tiếng kéo inox chạm vào xương. Tiếng khò khè của ai đó cố thở, dù phổi đã bị rút ra một phần. Mắt mở trừng trừng, miệng há nhưng không thể la hét.

Tôi tỉnh dậy, mồ hôi đẫm lưng. Nhưng cái làm tôi lạnh sống lưng hơn cả, không phải là ký ức.

Mà là ý nghĩ: mình đã không làm gì lúc đó. Mình chỉ đứng nhìn. Ghi chép. Và rửa tay.

….

Tôi từng nghĩ trại nội tạng ở vùng Shan là đỉnh cao của tội ác. Nhưng hóa ra, nó chỉ là một cái rễ nhỏ trong một cây nấm khổng lồ mọc dưới đất – nơi mọi thứ đều có giá, và không gì là bất hợp pháp, nếu đủ tiền để chuyển tội ác đó qua biên giới, nó sẽ lặp tức chuyển hoá thành dạng sống khác kèm lòng biết ơn.

Từ trại y tế P-7, tôi được một tổ chức nhân đạo Thụy Sĩ giúp chuyển qua biên giới Lào – Médecins Sans Drapeaux, “Bác sĩ Không Quốc Tịch” – nghe rất giống tổ chức nổi tiếng MSF. Nhưng logo thiếu một nét. Và trong bản sơ yếu lý lịch giả mà tôi được “hướng dẫn” viết lại, họ yêu cầu tôi xóa mọi dữ liệu liên quan đến Trung Quốc, Thái Lan, và Myanmar.

Một đêm, tôi lẻn vào phòng thiết bị của họ để gửi tin ra ngoài. Và tôi phát hiện một thứ: bản đồ đường di chuyển nội tạng theo từng khu vực sinh học.

Gan, tụy và phổi từ trại Shan chuyển bằng container đông lạnh qua biên giới Trung Quốc – điểm nhận: phòng thí nghiệm Yunnan Biogenics, có giấy phép hợp tác y tế quốc tế.

Thận được chia làm hai luồng: một đi đường bộ qua Lào về Bangkok, một khác theo nhóm “Hồ sơ nhân đạo” lên thẳng máy bay viện trợ đến Dubai.

Da, giác mạc, buồng trứng và xương sụn trẻ vị thành niên – hàng “nhạy cảm” – được xử lý tại phòng lab nổi trên sông Mekong, nơi treo cờ Lào và sử dụng thuyền viện trợ giả dạng.

Tôi đọc được tài liệu nội bộ đánh dấu ba cấp độ rủi ro:

Màu xanh lá: hàng đã xử lý, vô danh, không thể truy nguồn.

Màu cam: hàng “gỡ dần” – cần theo dõi sống sót, dễ phát sinh chứng cứ.

Màu đỏ: hàng bị lộ danh tính – cần tiêu hủy và dựng tai nạn.

Tên tôi được đánh dấu màu đỏ. Tôi không còn là người. Tôi đã là bằng chứng.

Một tuần sau, tôi gặp Lucas Bern, người phụ trách y tế vùng Đông Nam Á của tổ chức viện trợ kia. Anh có bằng bác sĩ tại Geneva, từng làm việc cho WHO. Nhưng khi tôi hỏi về các bản đồ vận chuyển kia, anh chỉ mỉm cười:

“Cậu có biết máu người giá bao nhiêu không?”

“Tùy nơi. Ở Zurich, máu A+ giá 180 franc. Ở Bắc Myanmar, nếu máu đó đi từ tay một đứa bé khỏe mạnh – có thể lên đến 15.000 USD, nếu đi theo đường phù hợp.”

“Và điều kỳ lạ là: người chết chẳng cần tiền. Người sống thì không dám từ chối.”

Tôi hỏi anh có từng tham gia mổ không. Anh chỉ đưa tay xoa cổ – có một hình xăm mờ sau gáy: chữ cái E27 – mã của một trại thí nghiệm sinh học tại biên giới TQ – Myanmar.

Tôi hiểu. Ở cấp độ này, không còn ai là vô tội.

Hồ sơ tôi chụp lén được hơn 130 tài liệu – chứng từ viện trợ giả, các danh sách máu hiến không rõ nguồn, hợp đồng mua bán giữa các bệnh viện tư quốc tế và nhóm “đối tác” Đông Dương. Có cả thư cảm ơn từ các “trung tâm điều phối hiến tạng toàn cầu”, ghi rõ:

“Chúng tôi trân trọng nhận lấy đóng góp từ các bạn, các bạn đã giúp hơn 300 bệnh nhân toàn cầu được sống tiếp, nhờ nguồn sinh học đặc biệt. Xin giữ kênh liên lạc mã hóa để tiếp tục đồng bộ dữ liệu hiến tặng.”

“Hiến tặng.” Từ đó giờ đây nghe như một trò mỉa mai, chua chát.

Tôi bắt đầu viết lại mọi thứ. Không còn là bài báo. Mà là hồ sơ kết án.

Kết án những bác sĩ cầm dao nhưng không cứu người.

Kết án những tổ chức từ thiện làm vỏ bọc cho máu trẻ con.

Kết án cả những người im lặng – chỉ cần thở và nhìn đi chỗ khác.

Bởi vì trong hệ thống này, không ai thật sự vô can. Chỉ là chưa đến lượt mà thôi.

……

Vài ngày sau, có một người phụ nữ được đưa đến trại.

Cô đến trại vào lúc 4 giờ sáng. Tóc búi gọn, đeo kính trắng, mặc áo khoác nylon dính bụi đỏ biên giới. Không ai biết cô đến từ đâu. Cũng không ai hỏi. Chỉ có tôi – người được chọn làm người “kiểm định thông tin” cho các ca nhập mới.

Tên cô là Ngô Mai, 27 tuổi. Trước từng là bác sĩ nội trú tại Bệnh viện số 2 Quảng Châu.

Cô bước vào lán, ngồi thẳng, mắt nhìn tôi không tránh né:

“Tôi không đến để được cứu. Tôi đến để kể nốt phần còn lại.”

Tôi hỏi:

“Cô từng tham gia trực tiếp mổ?”

Cô gật đầu. Không chần chừ.

“Ca đầu tiên, tôi chỉ đứng ghi chép. Ca thứ hai, tôi giữ gan. Ca thứ ba, tôi khâu vết mổ sau khi rút hai quả thận của một người còn thở.”

Tôi im lặng. Bởi vì trong mắt cô, tôi thấy không phải tội lỗi – mà là lòng kiệt sức.

Mai kể về Dự án PULSE – một hệ thống quốc tế chuyên hợp pháp hóa nội tạng phi pháp thông qua “quy trình chuẩn hóa sinh học.”

Quy trình này gồm 4 bước:

Tạo hồ sơ giả cho người hiến – thường dùng danh tính trẻ em mồ côi đã chết, hoặc người già không có thân nhân.

Đưa nội tạng qua chu trình xử lý gene nhẹ – xóa một số dấu vết DNA, khiến gần như không thể truy nguyên.

Gửi đi qua các tuyến máu nhân đạo – viện trợ, cứu trợ thiên tai, “hiến tặng khẩn cấp.”

Tiêm một lượng micro-antigen mới vào cơ thể người nhận – để “hòa hợp sinh học”, che đi sự khác biệt nguồn gốc.

“Đó không còn là cấy ghép. Đó là rửa tội bằng công nghệ.”

Mai thở dài.

“Tôi từng nghĩ mình đang cứu người. Cho đến khi một cậu bé người Myanmar – 12 tuổi – hỏi tôi trước khi gây mê: ‘Nếu cháu chết, bác sĩ có nhớ tên cháu không?’

Tôi không trả lời được. Tôi chỉ biết lúc ấy, dao trong tay tôi chệch sang trái một chút. Cậu bé bị xuất huyết, chết ngay trên bàn.”

Cô bắt đầu thu thập hồ sơ. Không vì lương tâm. Mà vì ám ảnh.

“Mỗi lần tôi khâu xong một cái xác, tôi lại mơ thấy họ đi tìm lại thứ đã mất trên thân thể mình; gan, phổi, mắt, tim, thận… mọi thứ. Nhưng trong mơ, tôi không thấy gương mặt họ. Chỉ thấy tay họ dính đầy máu, chìa về phía tôi.”

Mai có thứ tôi chưa từng thấy: video nội soi từ các ca mổ. Không che mặt. Không tắt âm thanh.

Tôi xem đoạn đầu tiên – một đứa trẻ bị cố định tay chân, mắt mở trừng, miệng há không âm. Lưỡi dao lướt qua bụng, máu trào ra như dòng nước bị chặn lâu ngày. Cô đứng cạnh – tay run, nhưng không dừng.

“Đó là tôi. Và đó là lý do tôi không muốn sống như thế này nữa.”

Mai đưa tôi một ổ cứng. “Toàn bộ thông tin mã hóa ở đây. Có tên, có tuyến đường, có cả tên thật của những người đứng sau – từ lãnh đạo viện nghiên cứu, đến cố vấn quân sự Trung – Mi – Lào.”

Tôi hỏi:

“Cô đưa tôi, rồi sao? Trốn cùng tôi à?”

Mai lắc đầu.

“Tôi không chạy. Tôi chỉ muốn có người sống để kể lại. Nếu tôi chạy, tôi chỉ là kẻ trốn tội. Nếu tôi ở lại, ít nhất tôi còn chuộc lại được phần nào bản chất con người.”

Tôi không thể ngăn cô quay về. Ba ngày sau, tôi nghe tin một nữ bác sĩ bị chết do tai nạn xe, xác cháy không nhận dạng được. Không hồ sơ. Không dấu vết.

…….