Mĩ - Việt, từ thù địch đến bắt tay…
Đúng dịp 80 năm Quốc khánh, Việt Nam trao tặng Cuba số tiền 385 tỷ đồng trước sự chứng kiến của TBT Tô Lâm và Chủ tịch Cuba Miguel Diaz-Canel Bermudez. Đây là nghĩa cử của VN khi trở nên khá giả vẫn không quên ân tình từ thuở hàn vi. Hơn 5 chục năm về trước, Fidel, lãnh tụ Cuba lúc đó đã nói: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình!” và có những giúp đỡ thiết thực cho VN.
Tội nghiệp Cuba, nằm ở trung tâm Caribe, gần Mỹ Latinh, Bắc Mỹ, có vị trí chiến lược khiến nhiều nước thèm rỏ dãi. Là cửa ngõ giữa Đại Tây Dương và khu vực Trung – Nam Mỹ, thuận lợi cho giao thương hàng hải và du lịch. Đất đai phì nhiêu, mưa nắng thuận hòa, tài nguyên thiên nhiên không chỉ có niken, coban mà còn cả dầu mỏ, khí đốt ngoài khơi có thể tạo nguồn thu quan trọng ấy mà để dân tình thiếu thốn, đói rách mấy chục năm qua…
Anh bạn đang là sỹ quan cao cấp quân đội chen vào: không hẳn thế anh à. Cái chính là tại Mỹ cấm vận Cuba. Mỹ không muốn cho Cuba phát triển mới đến nông nổi ấy…
Ô hay, số phận của quốc gia, của dân tộc mình sao lại có thể đổ lỗi cho một ai đó. Mỹ từng cấm vận VN, thậm chí là ghét cay gét đắng chỉ vì qua cuộc đấu súng mấy chục năm, Mỹ thua nên cay lắm. VN lại chứng tỏ máu anh hùng khi đem quân sang Cam để rồi Mỹ hô hào cả các nước đồng minh tuyệt giao, muốn xúc đổ đi.
Ấy vậy mà Việt- Mỹ vẫn bình thường hóa để rồi nay trở thành thân thiện, thành đối tác chiến lược toàn diện. Có thể nói, chính sách “ngoại giao cây tre” đã góp phần đưa VN rũ bùn đứng dậy rồi tỏa sáng như hôm nay.
Để giúp các bạn hiểu thêm về một số góc khuất của lịch sử, xin được kể lại câu chuyện của ông Bùi Kiến Thành, chuyên gia kinh tế người Mỹ gốc Việt. Người đã tham dự vào quá trình làm tan chảy khối băng trong quan hệ Việt- Mỹ. Chuyện của ông kể khá dài. Các bạn kiên nhẫn đọc và ngẫm nhé!
Phan Thế Hải
Dò dẫm tìm ra khe hẹp để kết nối!
Năm 1992 trở lại Mĩ, Bùi Kiến Thành tiếp tục liên lạc với một số chính khách liên quan đến tình hình quan hệ giữa hai quốc gia. Ông gửi thư cho Thượng nghị sĩ Donald W. Riegle Jr.; Thượng nghị sĩ George J. Mitchell - lãnh đạo Khối Đa số Thượng viện Mĩ; Thượng nghị sĩ Robert Dole - Lãnh đạo Khối Thiểu số Thượng viện Mĩ; Thượng nghị sĩ Richard Lugar - thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mĩ; Rep. Stephen J. Solarz - Chủ tịch Ủy ban châu Á - Thái Bình Dương của Hạ viện Quốc hội Mĩ...
Trong thư phản hồi, Mitchell gợi ý Bùi Kiến Thành liên hệ trực tiếp với Claiborne Pell - Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mĩ. Ngày 24/1/1992, Bùi Kiến Thành viết thư cho Pell, nội dung có đoạn:
“Lãnh đạo của Việt Nam yêu cầu tôi giúp truyền đạt tới Quốc hội và Chính phủ Hoa Kì mong muốn mãnh liệt của họ đối với một mối quan hệ thân mật và gần gũi.
Những thay đổi cơ bản đang được tiến hành và sự hợp tác của Hoa Kì là cực kì quan trọng. Việc chuyển đổi từ chủ nghĩa Mác xít sang một chế độ dân chủ dựa trên “chính phủ của luật pháp” đòi hỏi sự tư vấn của chuyên gia.
Nhìn vào tương lai lâu dài, lãnh đạo của Việt Nam cho rằng vị thế đồng minh với Mĩ sẽ cấu thành một yếu tố bình ổn hóa ở châu Á. Sức nặng của Trung Quốc và sức mạnh tài chính của Nhật là những mối bận tâm thường trực của các nước châu Á nhỏ bé hơn. Mối quan hệ chặt chẽ với Mĩ được nhìn nhận là đảm bảo hơn.
Xem xét những phát triển gần đây ở châu Á và những lợi ích quốc gia của Mĩ ở khía cạnh sức mạnh ở Thái Bình Dương, và xét đến tiềm năng cũng như vị trí địa lí của Việt Nam, một mối quan hệ hợp tác và đồng minh mới giữa hai nước đòi hỏi một sự xem xét kĩ lưỡng của lãnh đạo cả hai bên.”
Thông qua sứ quán Việt Nam tại Pháp, Bùi Kiến Thành gửi cho Thứ trưởng Bộ Nội vụ Lê Minh Hương và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phan Hiền một bản Đề nghị Đổi Mới. Bản đánh máy dài chín trang đề ngày 25/2/1992. Bản đề nghị phân tích tầm quan trọng và thiết yếu của việc thiết lập quan hệ ngoại giao chiến lược với Mĩ, đồng thời đưa ra một số những gợi ý cụ thể, cả về mặt kinh tế và ngoại giao, để thúc đẩy xúc tiến bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Bên cạnh đó, ông nhấn mạnh vai trò của cộng đồng Việt kiều đối với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước. Ông viết:
“… đối với Việt Kiều, tâm lý và mục đích việc đầu tư có thể không dựa trên những sự tính toán lạnh lùng lợi hại như người nước ngoài. Không nói đến những chương trình đầu tư lớn, chỉ đề cập đến những hoạt động kinh doanh nhỏ, Việt Kiều có thể đầu tư hoặc giúp đỡ thân nhân những số vốn từ 1.000 đến 10.000 đô la… Chính những con số nhỏ này mới có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm đáp ứng cho nhu cầu phát triển… Vì liên hệ gia đình, với sự tin tưởng nơi chương trình đổi mới thật sự, Việt kiều sẽ là một nguồn vốn đầu tư đặc biệt có thể huy động ngay và không bị chi phối bởi những lý do làm nản chí người tư bản nước ngoài.”
Trong khi đó, ông vẫn báo cáo tình hình với Nguyễn Cao Vân và các lãnh đạo Việt Nam. Cuối tháng năm, đầu tháng sáu năm 1992, Bùi Kiến Thành đã soạn và gửi cho Chính phủ Việt Nam một loạt tài liệu quan trọng.
Vấn đề Lobby ở Mĩ!
Đây là một dịch vụ hoàn toàn hợp pháp, được quy định bởi những chế tài rõ rệt. Phần đông những người làm dịch vụ này là cựu công chức cao cấp, cựu dân biểu, nghị sĩ, thống đốc tiểu bang, những luật sư lỗi lạc có nhiều mối liên hệ với công quyền.
Hầu hết các quốc gia có sứ quán tại Washington đều có một tổ chức Lobby để tác động đến dư luận quần chúng cũng như tạo sức ép với các cấp lãnh đạo.
Hiện nay Lobby Do Thái có sức mạnh lớn nhất. Qua ảnh hưởng Lobby này, Mĩ viện trợ biếu không cho Do Thái mỗi năm ba tỉ đô la suốt từ nhiều thập niên nay. So với số đầu người Do Thái lúc đó khoảng hơn ba triệu dân, trung bình mỗi người Do Thái được viện trợ mỗi năm một số tiền rất lớn, mặc dầu ngân sách Mĩ đang bị thâm hụt trầm trọng, phải cắt bỏ nhiều chương trình quan trọng trong nội địa nước Mĩ. Khi Liên Xô tan rã, Do Thái còn gây sức ép buộc Mĩ phải bảo đảm cho Israel vay 10 tỉ đô la để định cư cho 200.000 người Do Thái di tản từ các nước thuộc Liên Xô cũ (...)
Phương tiện này rất hữu hiệu mà Việt Nam cần suy nghĩ vận dụng để hỗ trợ cho công tác ngoại giao, hiệp thương, bảo vệ và phát huy chủ quyền.
Quỹ Cấm vận đặt ra vấn đề Mĩ và Việt Nam trả lại những tài sản đang giữ của nhau. Vấn đề Luật sư cố vấn nêu lên sự cần thiết nắm vững công pháp quốc tế khi Việt Nam hiệp thương với nước ngoài. Vấn đề quan hệ với các tập đoàn kinh tế lớn của Mĩ và việc giải tỏa cấm vận đề xuất một số phương hướng khai thác thị trường Mĩ. Một tài liệu khác là Tìm hiểu và tận dụng khả năng của Hoa Kì để Việt Nam phát triển và bảo vệ chủ quyền.
Bùi Kiến Thành giữ liên lạc với phó Vụ trưởng Vụ Mĩ châu Nguyễn Xuân Phong và Thứ trưởng Lê Mai của Bộ Ngoại giao. Lê Mai là người trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ Việt - Mĩ. Nhằm bình thường hóa quan hệ hai nước, một vấn đề then chốt mà phái bộ Mĩ tại Bangkok đặt ra là cần xử lý khối tài sản của Việt Nam bị Mĩ tịch thu và tài sản của Mĩ bị Việt Nam tịch thu. Chưa tìm được hướng đi, Lê Mai nhờ Bùi Kiến Thành thu thập thông tin dữ liệu xem hai bên còn giữ của nhau những gì. Ông Thành liên hệ với Bộ Ngoại giao Mĩ, được Bradshaw, người phụ trách về Việt Nam trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (East Asia Pacific - EAP), giới thiệu cho luật sư Lawrence Serra ở San Diego, California. Ở Mĩ, một số vấn đề Bộ Ngoại giao không giải quyết mà có những văn phòng luật sư được Chính phủ trao trách nhiệm xử lí.
Ông Thành tới gặp trực tiếp Serra. Ảnh đem hết tài liệu cho mình xem. Sau khi chiến tranh kết thúc, Chính phủ Mĩ đưa ra Quốc hội một nghị định để tất cả những người Mĩ có tài sản bị mất mát, bị tịch thu ở Việt Nam trước 30/4/1975 làm tờ khai, cơ quan Foreign Assets Claims của Bộ Tài chính Mĩ được thành lập để theo dõi, triển khai, giám định tất cả những tài liệu khai báo. Chính phủ Mĩ tổng hợp lại, đại diện cho những người đó đi thương lượng với Việt Nam. Ông xem danh sách khai báo theo thứ tự A, B, C, bên kia là giá trị tài sản. Họ khai ra mấy trăm cái nhưng chỉ khoảng hơn chín mươi cái được phê duyệt thôi. Nó có những số tiền khác nhau, 1.000 đô, 2.000 đô, mấy chục nghìn đô… Qua anh Serra, cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1992 ông mời một số luật sư có năng lực qua Việt Nam phỏng vấn và nhận nhiệm vụ giải quyết.
90% tài sản được xét duyệt nằm trong năm, sáu anh dầu khí lớn, cộng với khoảng 67 triệu đô la của Chính phủ Mĩ cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời Nguyễn Văn Thiệu vay để nhập khẩu hàng nông sản về bán, tính trượt giá đến thời điểm đó là hơn 200 triệu đô la. Giải quyết được mấy khoản lớn đó là xong thôi. Mĩ cũng đưa ra danh sách tài sản của Việt Nam mà họ tịch thu, ví dụ như villa đại sứ quán của chính quyền miền Nam Việt Nam ở Mĩ, rồi bao nhiêu tài sản vàng, đô la Ngân hàng Trung ương Mĩ giữ từ thời Ngân hàng Quốc gia Việt Nam gửi qua, thông tin rất chi tiết. Sau khi xem xét và định giá thì số tài sản ấy cũng xấp xỉ 300 triệu đô la. Số nợ- có của hai bên tương đương nhau.
Chính phủ Hà Nội nói rằng, chúng tôi không có lí do gì trả tiền Mĩ thay cho ngụy quyền. Mĩ hỏi lại, bây giờ nhà villa của sứ quán Việt Nam Cộng hòa bên Washington thì các ông có lấy không? Vàng và đô la của họ gửi bên Ngân hàng Trung ương Mĩ ông có lấy không? Tài sản của người ta thì lấy mà cái người ta thiếu nợ thì ông không chịu trả là sao? Tài sản của Hà Nội bị Mĩ tịch thu không có là bao. Ông Thành đề nghị với Chính phủ Việt Nam nên giải quyết cho xong, họ đề nghị thế nào thì mình nên chấp nhận.
Ông Thành nói với bên Mĩ rằng, phía Mĩ có đòi thì Việt Nam cũng không có để trả đâu, xây dựng nền ngoại giao quan trọng hơn chuyện tranh cãi số tiền đó. Phía Mĩ nói, chúng tôi không thể ra Quốc hội Mĩ nói các ông không nhận được, các ông cứ nhận đi, chúng tôi không đòi đâu, chúng tôi sẽ để số tiền đó lại để tài trợ phát triển văn hóa của Việt Nam, ví dụ đưa những người Việt Nam qua Mĩ du học...
Tương kế tựu kế! (相計就計)
Thời gian này khi trở về Việt Nam, Bùi Kiến Thành được sắp xếp gặp Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Hai người ngồi trò chuyện ở căn nhà gần cổng vào vườn cây Phủ Chủ tịch phía đường Hoàng Hoa Thám. Có lúc thêm một hai anh ngồi nghe, chẳng hạn Nguyễn Ngọc Trân, Trưởng Ban Việt kiều Trung ương; Vũ Đức Đam, rất trẻ, thư kí cho ông Kiệt khi ấy; hay là anh Nguyễn Thiệu, thành viên Ban Tiền tệ...
Ông Kiệt nói, mình đang gặp khó khăn vì một công ty Mĩ tên là Crestone kí hợp đồng với Chính phủ Trung Quốc để khai thác các lô dầu khí 133, 134 và 135 trên hải phận biển Đông Việt Nam. Cùng một lúc Việt Nam phải đương đầu với hai cường quốc. Ông Thành nói, Việt Nam không dùng quân lực được thì phải dùng luật pháp.
Ông Kiệt bảo ông Thành qua Bộ Ngoại giao xin cuốn Sách Trắng do Lê Văn Lựu viết, nghiên cứu chủ quyền Việt Nam trên thềm lục địa. Nhưng đây chỉ là tài liệu do Việt Nam nghiên cứu, chứ không đủ cơ sở luật pháp quốc tế để đem ra nói chuyện. Mình cũng muốn đưa ra tòa án quốc tế để xử Trung Quốc và Mĩ vi phạm lãnh thổ nhưng nếu muốn đưa ra tòa án quốc tế thì cần có cả sự chấp nhận của bên bị, nên không đưa ra được tòa án quốc tế.
Ông Thành mới nói với ông Kiệt, tại sao mình không “tương kế tựu kế”, thuê một công ty luật hàng đầu của Mĩ nghiên cứu cơ sở pháp lí cho mình?
Ông Kiệt xử lý rất khéo léo, ổng nói anh Nguyễn Xuân Phong viết một tài liệu về lập trường của Chính phủ Việt Nam đối với vấn đề tìm người Mĩ mất tích, để ông Thành mang sang gặp Bộ Ngoại giao Mĩ. Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ tối đa cho Chính phủ Mĩ tìm người Mĩ mất tích trên tinh thần nhân đạo, không phải chính trị, cũng không phải là sự nhượng bộ.
Trở về Mĩ, ông Thành nói: “Đây là tài liệu chính thức của Bộ Ngoại giao Việt Nam nhưng vì chưa có quan hệ ngoại giao để chuyển cho các anh nên họ nhờ tôi chuyển.” Đó là sự giới thiệu ông Thành với Chính phủ Mĩ rằng mình làm việc có sự ủy quyền thật sự. Sau khi họ cảm ơn ông Thành mới nhân tiện trình bày vấn đề Chính phủ Việt Nam muốn giải quyết xung đột biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Họ ngạc nhiên lắm, trợn mắt không tin vào tai mình: “Ông nói gì? Nói lại được không?” Mình nói lại rồi họ bảo: “Thú vị! Lần đầu tiên tôi nghe thấy Chính phủ Hà Nội muốn giải quyết xung đột, tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế.” Ông Thành nói: “Nhưng chúng tôi cần nghiên cứu nghiêm túc cơ sở pháp lí về chủ quyền của mình trên thềm lục địa biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Để làm việc này, Chính phủ Việt Nam muốn kí hợp đồng thuê một công ty luật của Mĩ, nhưng Việt Nam đang bị Mĩ cấm vận nên không làm được.”
Vấn đề ở chỗ, để Việt Nam thuê được công ty luật của Mĩ thì Mĩ phải giải tỏa một phần cấm vận. Bộ Ngoại giao Mĩ tỏ ý ủng hộ, nhưng cái đó Bộ Ngoại giao không quyết được mà phải hỏi ý kiến Tổng thống. Bộ Ngoại giao Mĩ đánh giá cao một số việc Việt Nam đã giúp như mời Hun Sen ngồi vào bàn họp hay tìm kiếm người Mĩ mất tích, nên họ làm tờ trình qua bên Nhà Trắng, không lâu sau họ cho biết Tổng thống đồng ý.
Tiếp đó, Bùi Kiến Thành đề nghị Bộ Ngoại giao Mĩ giới thiệu một văn phòng luật sư để giúp Việt Nam thì Bộ Ngoại Giao Mĩ trả lời rằng họ không được phép chỉ định đích danh một văn phòng luật sư nào vì như vậy không công bằng đối với các văn phòng khác. Ông bèn đề nghị họ giới thiệu cho một số văn phòng luật hàng đầu của Mĩ. Bộ Ngoại giao Mĩ cung cấp cho phía Việt Nam một danh sách các công ty Luật bao gồm:
Baker and McKenzie
Sullivan & Cromwell
Covington & Burling
Morgan, Lewis & Bockius
Steptoe & Johnson
Whitman & Ransom
Kaplan
Russin & Vecchi…
Từ danh sách này, Bùi Kiến Thành chọn ra ba công ty mời sang Việt Nam phỏng vấn. Phụ trách phỏng vấn là Hà Huy Thông, người của Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao. Công ty được kí hợp đồng là Covington & Burling. Chính công ty này đã xin nới lỏng cấm vận cho Việt Nam, và vấn đề này được các bên thỏa thuận trước. Việt Nam cử hai chuyên gia Ban Biên giới Chính phủ là Vụ phó Trần Công Trục và luật sư Huỳnh Minh Chính qua Mĩ phối hợp nghiên cứu, tham khảo, tập hợp thông tin.
Ngày nay sỏi đá, cũng cần có nhau!
Đó là một câu hát trong ca khúc “Gọi tên bốn mùa” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Trịnh dùng hình ảnh sỏi đá – những vật vô tri, cứng rắn – để nhấn mạnh rằng trong cuộc đời, ngay cả những gì tưởng như vô tình, xa cách nhất cũng cần có sự gắn bó, nương tựa. Huống chi giữa Mỹ và Việt Nam vốn có duyên nợ với nhau qua mấy chục năm chiến tranh tàn khốc. Chiến tranh Việt Nam đã để lại một ám ảnh rất sâu nặng đối với nước Mỹ. Thế nên ở Mỹ mới có chuyện “Vietnam Syndrome”, hội chứng VN.
Ngay lần đầu về Hà Nội, theo đề nghị của Bộ Ngoại giao Mĩ, ông Thành đã tới gặp phái bộ tìm người Mĩ mất tích xem có thể giúp họ như thế nào. Trưởng đoàn của phái bộ là Đại tá Donovan. Trong cuộc họp còn có Đại tá Robert De State, người của Trung ương Tình báo Bộ Quốc phòng Mĩ (Defense Intelligence Agency - DIA), từng làm việc trong Nam và rất thạo tiếng Việt. Ảnh nói: “Chúng tôi biết rằng trong Bảo tàng Quân đội Việt Nam có hàng nghìn tài liệu người ta ghi chép đầy đủ về những người Mĩ bị bắt và máy bay bị rớt. Nếu có được những tài liệu đó thì chúng tôi sẽ biết được tọa độ chỗ nào chỗ nào, máy bay rớt ở đâu... Có tài liệu thì sẽ tìm được người mất ở xung quanh chỗ đó. Nhưng chúng tôi không được truy nhập. Các anh có cách nào giúp được không?
Hồ sơ về người Mĩ mất tích tại Việt Nam là tài liệu tối mật được cất trong Bảo tàng Quân đội, không phải ai cũng có quyền lấy ra xem. Cân nhắc mãi rồi cuối cùng người ta cũng có được sáng kiến. Cách xử lí là Bộ Quốc phòng Việt Nam thuê một anh phóng viên Mĩ viết lịch sử chiến tranh và quân đội Việt Nam qua các thời kì. Anh đó nhận nhiệm vụ của Quân đội Việt Nam nên trở thành người của Chính phủ Việt Nam, của quân đội Việt Nam, có thể truy xuất các tài liệu cần thiết. Ảnh xem rồi báo cáo lại cho Chính phủ Việt Nam biết rằng có tìm được những tài liệu có ích cho việc Chính phủ Việt Nam giúp Chính phủ Mĩ có thông tin tìm người Mĩ mất tích trên quan điểm nhân đạo như đã bày tỏ.
Trung tâm tìm kiếm người Mĩ mất tích xin phép scan hơn 4.000 tài liệu dưới sự giám sát của Việt Nam. Văn phòng Trung tâm nằm ở khu Quần Ngựa bây giờ. Một hôm, Donovan mời ông Thành tới văn phòng. Các cơ quan bên Mĩ đang nóng ruột như ngồi trên đống lửa, cứ điện qua điện lại. Đó là thời điểm lịch sử để Mĩ xác nhận giải tỏa một phần cấm vận cho Việt Nam. Tổng thống Bush đang họp bên Hawaii.
Ông Thành ngồi đó nghe cuộc đàm thoại giữa đại tá Donovan và trợ lí của Tổng thống Bush. “Thế nào? Anh chắc chắn có tất cả những tài liệu đó ở trong hộp chưa?” “Chúng tôi đã có đủ.” “Anh chắc chắn không? Anh chịu trách nhiệm đó nha!” “Vâng, thưa ngài.” Bên này, Donovan xác nhận tài liệu đã được chuyển thì lập tức Bush đồng ý giải tỏa một phần cấm vận cho Việt Nam. Tiếp đó là tính cách làm sao đưa những tài liệu mật đã scan qua hải quan sân bay về Mĩ.
Ông Thành điện cho anh Nguyễn Xuân Phong của Bộ Ngoại giao. Anh Lê Mai, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao mới xin ý kiến ông Võ Văn Kiệt. Cuối cùng họ dàn xếp anh Nguyễn Xuân Phong - Vụ phó Vụ châu Mĩ, người đặc trách theo dõi chương trình tìm kiếm người Mĩ mất tích tại Việt Nam, cùng đi với sĩ quan Mĩ, hộ tống tài liệu ra sân bay, tới tận máy bay quân sự Mĩ để chuyển về Mĩ. Sau đó, việc tìm kiếm người Mĩ mất tích tiến triển rất nhanh. Qua đó, Mĩ thấy được thiện chí của Việt Nam. Những tài liệu được scan đặt trong chiếc hộp đó đã tháo gỡ được nhiều vấn đề hệ trọng, trong đó có Hợp đồng nguyên tắc với AIG ở Đình Vũ. Việc nới lỏng cấm vận cho phép các công ty Mĩ được quyền kí hợp đồng nguyên tắc với Việt Nam, nhưng phải đợi đến sau khi giải tỏa cấm vận hoàn toàn mới được thực hiện.
Ngày 11/6/1993, Bùi Kiến Thành nhờ Đại sứ Việt Nam tại Pháp là Trịnh Ngọc Thái chuyển cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt lá thư với tiêu đề “Dầu khí và vấn đề quan hệ với Hoa Kì” nhân chuyến viếng thăm Pháp của Võ Văn Kiệt, trong đó có đoạn:
Vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1992, ông Thành có tổ chức đưa một phái đoàn luật sư Mĩ về làm việc với Bộ Ngoại giao để nghiên cứu giải quyết vấn đề tài sản cấm vận, giải tỏa những tài khoản của Việt Nam bị Mĩ phong tỏa, bảo vệ biên giới biển trên thềm lục địa. Đồng thời nghiên cứu một loạt các chương trình kinh tế lớn, hạ tầng cơ sở, và nhất là dầu khí.
Ngày 14/12/1992, Tổng thống Bush ban hành quyết định nới rộng lệnh cấm vận, cho phép các công ty Mĩ kí hợp đồng với Việt Nam. Người phát ngôn của Nhà Trắng cho biết bước đầu này sẽ dẫn đến nhiều bước khác nhau nữa khi Tổng thống Bush rời chức vụ, và chờ đợi phản ứng tích cực bên phía Việt Nam.
Ngày 24/12/1992, Việt Nam kí tắt cho công ty Úc BHP trúng thầu khu Đại Hùng. Phía Mĩ đánh giá việc này như một tín hiệu tiêu cực. Đáng lí ra Tổng thống Bush còn đi thêm nhiều bước nữa nhưng cánh cửa Tổng thống Bush vừa hé mở dường như đã bị Việt Nam vô tình đóng sầm lại.
Vấn đề dầu khí có một tiềm năng chiến lược lớn trong chính sách ngoại giao và quốc phòng của Mĩ. Việc Hoa Kì gửi quân tham chiến ở vùng Vịnh không chỉ vì tự do, dân chủ, nhân quyền mà vì nguồn dầu khí của Trung Đông. Bề ngoài Hoa Kì tỏ ra thờ ơ đối với khả năng dầu khí Việt Nam, là để trấn an Trung Quốc, nhưng kì thật Mĩ đánh giá rất cao nguồn dầu khí có tính chất chiến lược trên thềm lục địa Việt Nam. Trong cuộc tranh chấp kinh tế toàn cầu hiện nay, vấn đề nguyên liệu chiến lược là then chốt. Chiến tranh Nhật - Mĩ trong Đệ nhị thế chiến cũng khởi sự bằng vấn đề nguyên liệu cho kĩ nghệ Nhật.
Cũng vì lẽ đó cho nên Mĩ đã ngấm ngầm cho phép Covington & Burling, văn phòng luật sư đầu ngành về luật biên giới biển sang làm việc với Bộ Ngoại giao Việt Nam để củng cố lập trường pháp lí của Việt Nam trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc. Trong hành động này Mĩ đã kín đáo báo hiệu cho Việt Nam là Mĩ đã đi bước đầu để giúp cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên thềm lục địa, một bước rất quan trọng về chiến lược của Mĩ trong khu vực.
Trong khi Mĩ cộng tác bảo vệ cho cả thềm lục địa của Việt Nam, Mĩ rất ngạc nhiên trước phản ứng của Việt Nam xem nhẹ bước giải tỏa từng phần cấm vận ngày 14 tháng 12 năm 1992 và kí hợp đồng cho công ty Úc BHP được trúng thầu khai thác khu mỏ Đại Hùng.
Cơ chế Hợp chủng quốc Hoa Kì buộc chính quyền Mĩ có bổn phận bảo vệ quyền lợi của các công ty xí nghiệp và công dân Mĩ trên mọi địa bàn, nếu Việt Nam khéo tổ chức quan hệ kinh tế với Mĩ, nhất là về dầu khí, chính phủ Mĩ sẽ có căn cứ pháp lí để hỗ trợ cho Việt Nam bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng cho biết phía Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc đối thoại với phía Mĩ.
Nhân tố Israel!
Mấy anh bên Bộ Ngoại giao hỏi mình là tại sao phía Mĩ khó thế, cứ tới nói chuyện lưng chừng rồi bỏ về không nói chuyện nữa, không có cách nào cả. Ông Thành mới đem vấn đề đó hỏi Bộ Ngoại giao Mĩ, thì bên đó mới nói, anh về nhắn giùm Chính phủ Việt Nam rằng tại sao khi ra Liên Hợp Quốc bất kì vấn đề gì liên quan đến Palestine và Israel thì Việt Nam cũng đều bỏ phiếu cho Palestine và chống Israel. Chúng tôi biết rằng ông thân thiện với Palestine, họ ủng hộ ông trong thời kì kháng chiến nhưng bây giờ thời kì đó qua rồi, muốn mở quan hệ với Mĩ thì các ông phải xem có chìa khóa nào mà mở nó.
Vì Mĩ có 5% dân số là người Do Thái nhưng 5% dân số đó lại nắm trong tay 90% tài chính, 90% các cơ quan truyền thông lớn. Không một ông tổng thống Mĩ nào có thể đắc cử nếu cộng đồng Do Thái quyết liệt chống đối. Không bỏ phiếu cho Israel tức là kẻ thù của Do Thái. Cộng đồng Do Thái chưa bật đèn xanh thì Chính phủ Mĩ không được làm. Nếu anh không ủng hộ tôi thì ít nhất anh cũng không được chống tôi. Trong trường hợp nào đó thì không bỏ phiếu, trong trường hợp nào đó thì bỏ phiếu trắng chứ Việt Nam đâu bắt buộc bỏ phiếu chống Israel. Ngay lập tức, Ông Thành đề nghị Chính phủ Việt Nam thay đổi cách ứng xử với Israel, Bộ Ngoại giao trình bày và được Bộ Chính trị phê duyệt.
Ngày 12/7/1993, Việt Nam và Israel thiết lập quan hệ ngoại giao.
Trong thời kì cấm vận, bất kì sản phẩm nào có bằng sáng chế của Mĩ thì Mĩ đều không cho phép bán cho Việt Nam. Ví dụ có đợt Đại tá Lê Đông Hải, con Đại tướng Lê Trọng Tấn nhờ ông Thành qua Mĩ hỏi công ty Bell mua một số bộ phận máy bay lên thẳng và những trang thiết bị có thể hợp nhất truyền tin giữa lực lượng xe tăng quân đội nhân dân và lực lượng xe tăng Mĩ để lại Sài Gòn vì hai hệ khác nhau. Công ty Bell không bán được vì lệnh cấm vận, nhưng lại chỉ mình qua bên Israel.
Cuối cùng mình mời một đoàn chuyên gia Israel qua giúp. Mỗi lần Việt Nam hỏi cái gì mà Israel giúp được là sang giúp ngay. Israel rất thiện cảm với Việt Nam, đất nước nhỏ mà đánh đông dẹp bắc, họ rất cảm phục. Thậm chí ông Đại tướng, Tổng tham mưu trưởng Moshe Dayan đã viết nhiều bài về chiến thuật, chiến lược “chiến tranh nhân dân”, “quân đội nhân dân” của Việt Nam. Israel cũng áp dụng chiến tranh nhân dân mới thắng được Ả Rập, đi cày mà mang súng trên vai. Sau đó, quan hệ giữa Israel với Việt Nam rất chặt chẽ và hợp tác ngày càng sâu rộng.
Mỗi mục tiêu đều có những con đường, đôi lúc chỉ là một khe hẹp mà chúng ta cần phải tìm cách mở. Bình thường hóa quan hệ Việt - Mĩ là một hành trình gian nan, có ý nghĩa quan trọng tới sự phát triển kinh tế Việt Nam ngày hôm nay, nhưng có lẽ không nhiều người Việt Nam biết được câu chuyện của những năm tháng ấy.
(Một số tư liệu lấy từ: “Bùi Kiến Thành- Người mở khóa lãng du”)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét