NHỮNG ĐỊA DANH MANG ÂM VỰC TIẾNG CHAMPA TRÊN LÃNH THỔ TRUNG PHẦN VN
Là một người đam mê Văn Hóa Champa (Chiêm Thành) trong người cũng mang 1/8 dòng máu Chăm vì bà Ngoại của PND là một người Chăm lai Việt (Cha Việt, mẹ Chăm). Nên đã có nhiều cơ may sở hữu các tài liệu cổ của đất nước người Hời. PND cũng đã viết một quyển sách nhỏ về những thứ liên quan đến Văn Hóa Chăm như rất tiếc không được xuất bản vì lý do mà nhà xuất bản đưa ra là:
“THỜI ĐẠI NGÀY NAY, KHÔNG ĐƯỢC KHƠI DẬY LỊCH SỬ CHIÊM THÀNH"
Giờ này khi đã chính thức là một nhà nghiên cứu Văn Hóa thì PND danh chánh ngôn thuận hơn để viết về văn hóa. Không xuất bản cũng được thì để lại cho con cháu sau này làm tài sản văn hóa.
Hôm nay xin trích một chương nhỏ trong quyển sách về cách di chỉ tên gọi cũ của các địa điểm Trung phần VN ngày nay:
- ĐÀ NẴNG. Là biến dạng của từ Chăm DAKNAN. thì chữ dak có nghĩa là nước (Chăm cổ), nan hay nưn (tức lanưng) là rộng. Địa danh Daknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông (cửa sông Hàn bây giờ). Người Việt phiên âm ra thành Đà Nẵng. DAKNAN của Chăm người Trung Hoa gốc Hải Nam đọc là TOUNAN, do đó vào thời Pháp thuộc người Pháp phiên âm thành Tourane.
- KHÁNH HÒA: Vốn được phiên âm từ tên của Tiểu Quốc Kauthara. Một tiểu quốc hùng mạnh thế kỷ 14 trong hình thái liên tộc Champa.
- NHA TRANG. Thành phố thuộc xứ Kauthara cũ, người Chăm thường gọi là La Trang (La là nước, Trang là đan chéo) hàm ý chỉ nơi có hai luồn nước chảy đan chéo nhau. Danh từ Ia Trang được phiên âm ra thành Nha Trang ngày nay. Cũng có một nhận định khác là chữ Trang (trong Ia trang) có nghĩa là lau, sậy. Và từ Ia Trang dùng để chỉ vùng sông nước có nhiều lau sậy.
- PHAN RANG Là thủ đô của Vương Quốc Chàm cổ tên là PANDURANGA. Phiên âm sang tiếng Việt là Phan Rang.
- PHAN RÍ. Là thủ phủ của vùng đất phong của lãnh chúa Pin To Lo (Tân Đà La) thuộc tộc Cây Cau (Clan de l’Arequire) phía nam nước Chiêm Thành hay xung đột với Tộc cây Dừa (Clan du Cocotier) vùng đất Phú Yên ngày nay. Tiếng Chăm của Vùng đất Lãnh Chúa Pin To Lo là PARIK. Người Việt phiên âm thành Phan Rí.
- PHAN THIẾT. Tiếng Chăm là Panthit có nghĩa là Vùng đất cực nam của Chiêm Thành. Người Việt phiên âm thành Phan Thiết.
- TU BÔNG. Vùng đất phía nam đèo Cả (phiên âm từ chữ Kau) có tên là Tưh Bboh có nghĩa là Đồng Vàng. Sau này người Việt đọc nhại thành Tuy Bông rồi dần dần thành Tu Bông.
- TUY HÒA: Thành phố thuộc tỉnh Phú Yên thời Chiêm Thành có tên là Tưh Bhal có nghĩa là Tháp Vàng. Sau này đọc dần thành Tuy Hòa.
- SÔNG ĐÀ RẰNG. Đó là con sông chảy qua phía nam Thành phố Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên. Từ Đà Rằng mang âm Chăm và có nguồn gốc từ chữ Dairios (tên của con sông này trước kia). Chính từ này lại được phiên âm từ chữ Dak Riong, có nghĩa là sông sâu trắc trở. Dần dần đọc chữ DakRiong thành Đà Rằng.
- ĐẬP ĐỒNG CAM. Đập Đồng Cam tọa lạc tại Phú Yên, nơi có đồng ruộng lúa nước lớn nhất miền Trung. Đập này xưa kia chắc chắn mang tên Chăm nhưng nay không ai còn nhớ nữa. Người Việt đặt tên đập này là Đập Đồng Chàm. Nhưng thời Pháp thuộc họ đọc Champa thành Campa (vì âm h câm) nên dần đổi Đập Đồng Cam.
- CÙ LAO CHÀM. Đó là một hòn đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Nam. Trước đây, cù lao này là nơi cư trú của các dân chài Chăm (tức Chàm) và dĩ nhiên mang tên Chăm. Kaulau Cham. Trong đó Kaulau là nghĩ là Đảo. Về sau, qua biến đổi của lịch sử, người Chăm đã di tản đi nhiều nơi (có lẽ đông nhất là Hải Nam của Trung Quốc) và người Việt gọi địa danh này là Cù lao Chàm, nghĩa là cù lao của người Chăm cư trú trước đây.
- HÒA LAI: là một địa danh ở bắc Ninh Thuận thường được gọi là Ba Tháp, thuộc xã Tân Hải, huyện Ninh Hải. Trên quốc lộ số 1, du khách bắt gặp hai ngọn tháp Chăm cổ kính tọa lạc phía đông con đường, cách ranh giới Khánh Hòa – Ninh Thuận khoảng 8 km (ngọn thứ ba đã bị đổ nát từ lâu). Nơi đây chính là HÒA LAI. Xưa kia địa danh này mang tên là BHAL LAI Chính từ Bhal Lai này đã được phiên âm thành Hòa Lai.
- LAGI: tức là vùng huyện Hàm Tân bây giờ (thuộc tỉnh Bình Thuận), xưa kia là đất Nưgar LADIK của xứ Panduranga cũ (đọc là La-tik theo âm Chăm). Danh từ LADIK được phiên âm thành La Gi ngày nay.
- THỊ NẠI Dọc theo duyên hải miền Trung Việt Nam, chúng ta tìm thấy nhiều địa danh mang tên Thị Nại như Đầm Thị Nại ở gần thành Quy Nhơn.
Xưa kia, người Chăm sinh sống dọc bờ biển, bờ đầm thường làm nghề đánh cá. Mỗi buổi sáng hay buổi chiều đều có các thuyền đánh cá tấp vào một vài nơi nhất định (nơi có những cư dân đông đúc) để bán cá. Do đó, về lâu về dài, những nơi này hình thành những “chợ nhỏ”, chủ yếu là để bán cá tươi cho người địa phương và các dân buôn.
“Chợ nhỏ” đó tên Chăm là darak naih (darak là chợ, naih là nhỏ), đọc là “tàrạk neh”. Người Việt dịch chữ darak là Thị, còn chữ naih lại ngỡ là danh từ riêng. Từ Darak là chợ tiếng Hán có nghĩa là Thị. Và đọc dần thành Thị Nại.
- CHÀ RANG. Vùng núi ở phía nam xã An Hiệp quê hương PND một hang động cổ mang tên là Chà Rang. Thời Chiêm Thành có tên là Cơk Ranga. Từ Chà hay Trà trong tiếng Chăm là Cơk có nghĩa ngọn núi, Ranga có nghĩa là vùng đất. Rồi phiên âm dần đọc thành Chà Rang.
- CAM RANH. Tên chăm của vùng đất này là Cham-Nrahn rồi người Pháp phiên âm thành Cam-Ran đọc dần dần thành Cam Ranh. Theo nghĩa cũ là “Mảnh vườn của người Chăm”
- QUÁN CAU. Đây cũng là địa danh nơi PND được sinh ra nên bị gọi là dân Quán Cau. Có rất nhiều sự giải thích về tên gọi này là vùng đất trồng nhiều Cau nên được gọi là vậy. Như thật sự không phải vậy khi lật quyển Sử Chăm do Bà Ngoại để lại thì Vùng đất này vốn có tên chăm là Urang Kaulau (Urang là người, Kaulau: là cù lao) chỉ những người sống nghề chài lưới ven đầm. Cụ Lương Văn Chánhh vào tiếp quản đặt tên Phú Yên (tên tiếng Chăm là Aiaru) nghĩa là vùng đất trù phú và yên bình. Và từ Urang Kaulau đọc trại thành Quán Cau.
- LA HAI: Là một thị trấn vùng núi của Phú Yên, tiếng Chăm được viết là La-naih có nghĩa là Vùng nước Nhỏ. Người Việt đọc phiên âm thành La Hai.
Và còn nhiều địa danh khác nữa như Đại Lãnh, Vạn Giã, Ô Loan, Phú Túc, Phú Bổn, Sông Trà Khúc, La Ngà, Đa Nhim, Cù Mông, Cà Ná, Trà Cú, Cam Lộ … đều xuất phát từ tên gốc là tiếng Chiêm Thành.
TRT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét