Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

Thái Hưng Nguyễn: BÀN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN LẠC HẬU CỦA VIỆT NAM - VỚI CHÍNH SÁCH NÀY BỘ TÀI CHÍNH COI TÀI NĂNG VIỆT CHỈ LÀ NGUỒN THU VÀ CHƯA PHẢI LÀ NGUỒN LỰC, MÂU THUẪN VỚI TƯ TƯỞNG CỦA LÃNH ĐẠO CẤP CAO VỀ THU HÚT NHÂN TÀI

BÀN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN LẠC HẬU CỦA VIỆT NAM - VỚI CHÍNH SÁCH NÀY BỘ TÀI CHÍNH COI TÀI NĂNG VIỆT CHỈ LÀ NGUỒN THU VÀ CHƯA PHẢI LÀ NGUỒN LỰC, MÂU THUẪN VỚI TƯ TƯỞNG CỦA LÃNH ĐẠO CẤP CAO VỀ THU HÚT NHÂN TÀI

Thiết kế chính sách thuế sai thì tài năng sẽ ra đi và chỉ quay về như khách du lịch vì quá nhớ nhà. Hãy tưởng tượng có hai cánh cửa. Một cánh mang tên Singapore. Một cánh mang tên Việt Nam. Bạn là một kỹ sư AI, một trader, một founder startup, hay chỉ là một “công dân toàn cầu” mới 30 tuổi, laptop là văn phòng, bầu trời là trần nhà.

Bạn có 6 tháng làm việc ở châu Âu, 3 tháng ở Thái Lan, phần còn lại về nhà Việt Nam. Thu nhập bạn đến từ mã nguồn, trí tuệ, ý tưởng… không đến từ một “công ty nhà nước” hay một “biên chế ổn định” nào cả. Khi chọn nơi đặt căn cứ cuộc đời, bạn phải trả lời một câu hỏi rất đơn giản:

“Ở đâu mình được tôn trọng hơn – về thời gian, về tự do và cả… về thuế?”

Singapore: “Kiếm được bao nhiêu, giữ lại càng nhiều càng tốt – miễn là sạch”

Singapore nhìn bạn và nói: “Nếu anh/chị là cư dân ở đây, anh/chị trả thuế lũy tiến 0–24%, nhưng ngưỡng bắt đầu chịu thuế cao, và chỉ tính thu nhập phát sinh tại Singapore. Thu nhập từ bên ngoài, đã đóng thuế ở đó, mang về đây? OK, giữ mà dùng, tụi tôi không cắn thêm miếng nào nữa.”

Thông điệp rất rõ:

 • Chúng tôi thu thuế, nhưng:

 • Thu ít,

 • Thu đơn giản,

 • Và không cố gắng vươn tay ra toàn thế giới để “gặm thêm một lần”.

Đối với tài năng toàn cầu, cảm giác là:

 • Mình được đối xử như một đối tác:

 • Bạn mang giá trị đến, thành phố này cho bạn hạ tầng, pháp lý, môi trường,

 • Thu của bạn một phần hợp lý để vận hành hệ thống, không nhiều hơn cần thiết.

Thế là các “nomad”, các founder, các quỹ VC, các chuyên gia tài chính… xếp hàng đến. Họ mở công ty, mở tài khoản, đóng thuế, thuê nhà, gửi con đi học. Và Singapore phất lên không phải vì vắt kiệt thuế, mà vì thu hút những người tạo ra giá trị lớn nhất.

Việt Nam: “Về đây thì… cẩn thận bị kẹp ở cả hai đầu”

Việt Nam là nhà. Là nơi có:

 • Gia đình,

 • Ngôn ngữ,

 • Văn hóa,

 • Thức ăn mà không chỗ nào bắt chước được.

Người trẻ Việt Nam ngày càng nhiều người trở thành công dân toàn cầu:

 • Đi làm ở Nhật, Hàn, Singapore, châu Âu…

 • Làm từ xa cho công ty Mỹ, startup Singapore, DAO ở đâu đó…

 • Thu nhập của họ đã bị đánh thuế ở nước sở tại.

Rồi một ngày họ muốn về nhà nhiều hơn:

 • Về gần cha mẹ,

 • Về sống ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Đà Lạt, Phú Quốc,

 • Vừa làm việc toàn cầu, vừa sống ở Việt Nam.

Nhưng ngay khi họ bắt đầu nghĩ tới chuyện đặt tư cách “cư trú thuế” ở Việt Nam, một nỗi lo xuất hiện: “Nếu mình về Việt Nam 183 ngày, mình trở thành cư trú thuế. Thu nhập toàn cầu của mình dù đã đóng thuế ở nước khác thì về nguyên tắc vẫn nằm trong tầm với của thuế Việt Nam. Mình sẽ phải:

 • Vừa khai thuế với nước sở tại,

 • Vừa khai thuế lại với Việt Nam,

 • Vừa chuẩn bị một đống giấy tờ chứng minh đã nộp thuế bên kia để xin khấu trừ.

Chỉ riêng việc đó đã đủ… mệt mỏi.”

Trên giấy tờ, Việt Nam có hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với rất nhiều nước. Trên lý thuyết, bạn sẽ không bị “ăn” thuế hai lần đầy đủ, có cơ chế khấu trừ. Nhưng:

 • Thủ tục phức tạp,

 • Hướng dẫn thiếu ví dụ cụ thể,

 • Mỗi chi cục thuế có thể hiểu một kiểu,

 • Và quan trọng nhất: cảm giác luôn ở thế bị động, không rõ ngày nào “bị gọi tên”.

Thuế suất trần 35%, ngưỡng chịu thuế thấp, lại cộng với nguy cơ phải giải trình thu nhập toàn cầu, khiến nhiều người trẻ tài năng nghĩ rất đơn giản: “Thôi… ở Singapore, Bali, Bangkok, Lisbon, Dubai cho xong. Về Việt Nam chơi, thăm nhà, vài tháng lại đi. Mình không đủ thời gian để “chiến đấu” với hai đầu thuế và sự mơ hồ.”

Thế là Việt Nam mất đi một lớp tài năng:

 • Họ không chống Việt Nam.

 • Họ yêu Việt Nam.

 • Nhưng hệ thống thuế và thủ tục đang nói với họ:

“Nếu mày giỏi và kiếm được tiền từ thế giới, tốt nhất đừng về đây lâu quá, kẻo… phiền.”

Thuế không chỉ là tiền – nó là “ngôn ngữ” mà Nhà nước nói với tài năng. Khi một quốc gia nói: “Nếu bạn ở đây, bạn phải khai thu nhập toàn cầu,

tôi có quyền tính lại và thu thêm nếu tôi thấy cần,

và bạn phải tự bơi trong mê cung thủ tục để chứng minh mình không nợ thêm.” Thông điệp ẩn là:

 • Chúng tôi ưu tiên kiểm soát hơn là tin tưởng.

 • Chúng tôi xem bạn trước hết là một nguồn thu, rồi mới đến một nguồn lực.

Trong khi đó, Singapore nói: “Kiếm được tiền nhiều thì tốt.

Chúng tôi lấy một phần nhỏ, rõ ràng, minh bạch. Thu nhập ngoài lãnh thổ? Anh cứ giữ.

Miễn là anh mang cuộc đời mình, trí tuệ mình, công ty mình đến đây.” Thông điệp là:

 • Chúng tôi xem bạn là nguồn lực để lớn lên cùng nhau.

 • Thuế là giá của một hệ sinh thái tốt, chứ không phải cái bẫy để vắt thêm.

Và thế là dòng chảy tài năng đi về nơi khiến họ thấy được tôn trọng về mặt tài chính lẫn tinh thần.

Nếu Việt Nam muốn giữ người giỏi, phải ngừng “đánh thuế nỗi sợ”. Không ai phản đối chuyện đóng thuế. Người giỏi càng hiểu rõ: không có thuế thì không có hạ tầng, trường học, bệnh viện, trật tự.

Điều họ sợ không phải là thuế, mà là:

 • Mơ hồ: Không biết chính xác mình phải đóng gì, bao nhiêu, cho loại thu nhập nào.

 • Hai đầu: Đã đóng ở nước ngoài, về VN vẫn thấp thỏm “liệu có bị tính thêm không?”.

 • Rủi ro “bị hiểu khác”: một cán bộ hiểu thế này, nơi khác hiểu thế kia, và bản thân họ không có thời gian để tranh luận.

Nếu Việt Nam muốn:

 • Người Việt giỏi ở Mỹ, Nhật, Hàn, Singapore… quay về sống & làm việc lâu dài,

 • Người ngoại quốc tài năng coi Việt Nam là một base thực sự, thì cần một thông điệp khác:

“Nếu anh/chị kiếm tiền sạch từ tri thức của mình ở nước ngoài, đã đóng thuế đúng ở đó, Việt Nam tôn trọng điều đó. Chúng tôi chỉ đánh thuế công bằng lên phần thu nhập phát sinh từ Việt Nam, hoặc nếu có tính thu nhập toàn cầu thì luật phải rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng, không để anh/chị trở thành nạn nhân của sự mơ hồ.”

Khi đó, câu chuyện sẽ đảo chiều:

 • Người trẻ Việt Nam đi làm toàn cầu nhưng chọn đặt nhà, nuôi con, đầu tư dài hạn ở Việt Nam.

 • Founder khởi nghiệp có thể đặt Hàn Quốc ở Singapore, nhưng Lab, đội ngũ R&D, back-office ở Việt Nam – một cách đường hoàng, minh bạch, không lắt léo.

KẾT LUẬN:

Hôm nay, tài năng toàn cầu thích đến Singapore hơn là đến Việt Nam, không phải vì họ yêu Singapore hơn, mà vì:

 • Singapore không trừng phạt sự thành công xuyên biên giới bằng “thuế hai đầu”,

 • Còn Việt Nam đang khiến họ cảm thấy bị nghi ngờ, bị làm khó chỉ vì họ kiếm tiền từ một thế giới phẳng.

Nếu một ngày nào đó:

 • Thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam rõ ràng, hợp lý,

 • Không còn cảm giác “về nước là tự trói mình vào cái lưới thuế toàn cầu mơ hồ”,

thì những chiếc laptop, những “cái đầu toàn cầu” kia sẽ quay về nhiều hơn.

Vì cuối cùng, ai cũng muốn được sống ở nơi mình gọi là “nhà”, miễn là “nhà” không đánh thuế lên khát vọng của họ.

Nếu bạn thấy bài viết này chạm vào nỗi đau của quốc gia và các tài năng. Hãy chia sẻ để các cán bộ đút chân gầm bàn ở Bộ tài chính phải nhận thức được sự vô cảm của họ đang góp phần đẩy Việt nam vào bẫy thu nhập trung bình, cản trở tư duy cải cách thể chế của người đứng đầu Đảng và Chính phủ. 

Hãy chia sẻ để nâng cao nhận thức cho toàn dân.

(Tác giả: Thái Hưng Nguyễn)

Xem thêm:

#THOISU_FBCAOSON

Kể chuyện vĩ nhân: Frances Kelsey - Cái Lắc Đầu Cứu Cả Một Thế Hệ

Kể chuyện vĩ nhân: Frances Kelsey - Cái Lắc Đầu Cứu Cả Một Thế Hệ

Copy từ Facebook "Lê Công Thành"

▫️ Hãy tưởng tượng bạn là một nhân viên mới toanh tại Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). Bàn làm việc cũ kỹ, chưa có danh tiếng, chưa có quyền lực.

▫️ Ngay trong tháng đầu tiên đi làm (tháng 9/1960), sếp ném lên bàn bạn một bộ hồ sơ.

"Việc nhẹ nhàng cho người mới đây," sếp bảo. "Duyệt cái này đi. Nó là thuốc an thần bán chạy nhất châu Âu rồi. Chỉ là thủ tục thôi."

▫️ Tên loại thuốc đó là Kevadon (chứa hoạt chất Thalidomide).

▫️ Hãng dược phẩm khổng lồ Richardson-Merrell đang rất nôn nóng. Họ muốn tung thuốc ra thị trường Mỹ trước Giáng sinh để hốt bạc. Họ dự tính lợi nhuận hàng triệu đô la.

Quảng cáo của họ rất ngọt ngào: "Giúp ngủ ngon và trị ốm nghén cho bà bầu. An toàn tuyệt đối cho cả mẹ và bé."

▫️ Tất cả những gì họ cần là chữ ký của bà nhân viên mới: Frances Oldham Kelsey.

▫️ Frances cầm hồ sơ lên đọc. Mọi thứ có vẻ hoàn hảo. Nhưng bà khựng lại ở một chi tiết nhỏ trong báo cáo thí nghiệm trên động vật: Thuốc này không làm cho chuột buồn ngủ, nhưng lại làm cho người ngủ say.

▫️ Bà tự hỏi: "Tại sao? Cơ chế tác động của nó là gì?" Hãng dược không trả lời được. Họ chỉ bảo: "Kệ nó đi, miễn là nó an toàn."

▫️ Bà đặt bút xuống và làm một việc khiến hãng dược sững sờ: Yêu cầu bổ sung thông tin.

▫️ Cuộc chiến bắt đầu. Hãng Richardson-Merrell nổi điên. Họ coi bà là một "mụ đàn bà gàn dở, quan liêu". 

Họ gọi điện khủng bố tinh thần bà mỗi ngày.

Họ gửi thư lên sếp bà, tố cáo bà "kìm hãm sự phát triển y học".

Họ cử các giám đốc cao cấp đến tận văn phòng, đập bàn quát tháo, gây áp lực để bà phải ký.

▫️ Frances chịu áp lực kinh khủng. Bà mới nhận việc, nếu bà sai, sự nghiệp của bà coi như chấm dứt.

▫️ Nhưng vào tháng 2/1961, bà tình cờ đọc được một mẩu tin nhỏ trên Tạp chí Y khoa Anh: Một số bệnh nhân uống Thalidomide dài ngày bị tê bì chân tay (viêm dây thần kinh).

▫️ Một tia chớp lóe lên trong đầu bà. Bà lập luận đanh thép:

"Nếu thuốc này có thể gây tổn thương dây thần kinh ở người trưởng thành, thì nó sẽ tàn phá thế nào đối với hệ thần kinh non nớt của một thai nhi?"

▫️ Dựa vào manh mối đó, bà kiên quyết nói "KHÔNG". Bà từ chối ký duyệt tổng cộng 3 lần, kéo dài thời gian suốt hơn một năm trời.

▫️ Và rồi, tháng 11 năm 1961, tin tức kinh hoàng từ Đức và Úc ập đến như sóng thần.

▫️ Các bác sĩ thế giới bàng hoàng phát hiện ra nguyên nhân của làn sóng dị tật bẩm sinh quái đản đang hoành hành: Hàng chục nghìn đứa trẻ sinh ra với hội chứng Phocomelia (Hải cẩu chi) - tay chân ngắn ngủn hoặc mọc trực tiếp từ vai, hỏng nội tạng.

▫️ Thủ phạm chính là Thalidomide.

▫️ Thế giới chấn động. Hơn 10.000 đứa trẻ ở 46 quốc gia đã bị tàn phế vĩnh viễn vì loại "thần dược" này.

▫️ Nhưng ở Mỹ thì sao?

▫️ Nhờ sự "bướng bỉnh" của Frances, thuốc chưa bao giờ được cấp phép bán đại trà. Hãng dược đã lén phân phối 2,5 triệu viên "dùng thử" khiến 17 trẻ em Mỹ bị ảnh hưởng, nhưng con số đó đã dừng lại ở đó. Bà đã chặn đứng một thảm họa quốc gia ngay tại cửa ngõ.

▫️ Frances Oldham Kelsey từ một "nhân viên gàn dở" trở thành người hùng nước Mỹ.

▫️ Năm 1962, Tổng thống John F. Kennedy đã trao tặng bà Giải thưởng Xuất sắc vì Dịch vụ Dân sự Liên bang. Trong buổi lễ, ông nói: "Bà đã cứu chúng ta khỏi một bi kịch không thể gọi tên."

▫️ Nhưng di sản của bà lớn hơn tấm huy chương đó.

▫️ Sau vụ việc này, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật mới (Kefauver-Harris Amendment), quy định rằng: Từ nay về sau, các hãng dược bắt buộc phải chứng minh thuốc HIỆU QUẢ và AN TOÀN qua các thử nghiệm lâm sàng nghiêm ngặt trước khi bán.

▫️ Frances tiếp tục làm việc tại FDA cho đến năm 90 tuổi. Bà qua đời năm 2015, thọ 101 tuổi.

▫️ Câu chuyện của bà dạy chúng ta một bài học về sự dũng cảm tĩnh lặng.

▫️ Đôi khi, người hùng không cần phải xông pha trận mạc.

▫️ Người hùng chỉ cần là một nhân viên văn phòng mẫn cán, dám tin vào khoa học, chịu đựng sự sỉ nhục, và dám nói "KHÔNG" khi tất cả những kẻ quyền lực đều ép phải nói "CÓ".

▫️ Lần tới, khi bạn uống một viên thuốc và thấy tờ hướng dẫn sử dụng dài dằng dặc liệt kê các tác dụng phụ. Đừng khó chịu.

▫️ Đó là di sản của Frances Kelsey. Bà muốn chắc chắn rằng bạn biết mình đang uống cái gì, điều mà thế hệ trước bà đã không có cơ hội được biết.

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2025

Trần Nguyên Duy Thịnh: “TRÍ THỨC KHÔNG BỊ VÔ SẢN HÓA – HỌ ĐANG VÔ SẢN HÓA CẢ THẾ GIỚI”

“TRÍ THỨC KHÔNG BỊ VÔ SẢN HÓA – HỌ ĐANG VÔ SẢN HÓA CẢ THẾ GIỚI”  

Lời tiên đoán sai lớn nhất của Marx và bài học đắt giá nhất của thế kỷ 21

Năm 1867, trong Tư bản luận (Tập 1, chương 25), Marx viết rất rõ:  

“Cùng với sự tích lũy tư bản không ngừng, một mặt là sự giàu có tập trung ở một cực, mặt kia là sự tích lũy nghèo khổ, cực khổ, nô dịch, ngu dốt, dã man và thoái hóa đạo đức ở cực đối lập – tức là ở phía giai cấp tạo ra chính sản phẩm của mình dưới dạng tư bản.”  

Ông tin rằng các tầng lớp trung gian (tiểu tư sản, trí thức, kỹ sư, nhà khoa học…) cuối cùng sẽ bị cuốn xuống đáy xã hội, trở thành một bộ phận của giai cấp vô sản đông đảo và cùng khổ.

158 năm sau, năm 2025, thực tế đã diễn ra ngược lại một cách tàn nhẫn và ngoạn mục.

Lao động chân tay bị robot và tự động hóa quét sạch việc làm.  

Lao động trí óc – những người thiết kế robot, viết thuật toán và huấn luyện AI – trở thành tầng lớp siêu giàu mới, nắm giữ quyền lực kinh tế và chính trị lớn hơn bất kỳ nhà tư bản công nghiệp nào trong lịch sử.

Bằng chứng không thể chối cãi (dữ liệu cập nhật tháng 12/2025)

- Elon Musk, xuất thân kỹ sư vật lý và kinh tế, hiện sở hữu khối tài sản cá nhân hơn 420 tỷ USD, kiểm soát ba công ty có tổng vốn hóa vượt 1.600 tỷ USD (Tesla, SpaceX, xAI + X).  

- Jensen Huang, kỹ sư điện gốc Đài Loan, đưa Nvidia lên vốn hóa 4,3 nghìn tỷ USD – công ty duy nhất kiểm soát 80–90 % thị trường chip AI toàn cầu.  

- Sam Altman, dù không sở hữu cổ phần lớn tại OpenAI, vẫn có ảnh hưởng quyết định đến một tổ chức hiện được định giá 500 tỷ USD và đang định hình lại toàn bộ nền kinh tế tri thức.  

- Mark Zuckerberg kiểm soát nền tảng mà gần 4 tỷ người – hơn nửa nhân loại – sử dụng hàng ngày.

Họ không sở hữu mỏ than, nhà máy thép hay đất đai rộng lớn.  

Họ sở hữu dữ liệu, thuật toán, mô hình AI và bằng sáng chế – những tư liệu sản xuất mới có giá trị lớn hơn mọi nhà máy thế kỷ 19 cộng lại.

Trong khi đó:

- Foxconn từng cắt giảm hơn 60.000 công nhân chỉ trong vài năm nhờ robot (2016–2020).  

- Nhà máy Tesla Thượng Hải hiện vận hành với mật độ robot cao nhất thế giới: hàng nghìn robot công nghiệp và hàng trăm robot Optimus chỉ cần vài trăm kỹ sư giám sát để sản xuất gần 2 triệu xe mỗi năm.  

- Một kỹ sư AI cấp cao tại Thung lũng Silicon năm 2025 có tổng thu nhập trung bình 650.000–950.000 USD/năm, cá nhân xuất sắc nhất vượt mốc 1,5 triệu USD (Levels.fyi, Glassdoor, Blind – tháng 12/2025).  

Một dòng code của họ có thể tạo ra hàng chục tỷ USD giá trị thị trường chỉ trong một đêm.

Marx đúng ở một nửa: máy móc và tự động hóa thực sự đang hủy diệt hàng loạt việc làm.  

Nhưng ông sai chết người ở nửa còn lại: người hưởng lợi không phải là giai cấp công nhân, mà chính là những trí thức tạo ra và kiểm soát công nghệ tự động hóa ấy.

Thực tế 2025 đã chứng minh:  

Lao động chân tay bị vô sản hóa hoàn toàn – họ không chỉ mất việc làm, mà còn mất cả tương lai.  

Lao động trí óc không bị vô sản hóa – họ trở thành giai cấp tư bản mới, siêu giai cấp mới, nắm giữ tư liệu sản xuất then chốt của thời đại: trí tuệ nhân tạo và dữ liệu.

Marx không sai vì ác ý.  

Ông sai vì không thể hình dung được một thế giới mà trí tuệ con người, khi được nhân lên hàng triệu lần bởi máy tính và AI, trở thành lực lượng sản xuất mạnh hơn cơ bắp hàng triệu lần.

Kết quả là:  

Không có cuộc cách mạng vô sản nào nổ ra.  

Thay vào đó, chúng ta đang chứng kiến một cuộc cách mạng trí tuệ thầm lặng nhưng tàn bạo hơn: một nhóm rất nhỏ những người sở hữu trí tuệ xuất chúng đang vô sản hóa phần còn lại của nhân loại.

Lý tưởng đẹp đẽ nhất của Marx – rằng giai cấp công nhân sẽ thức tỉnh, đoàn kết và lật đổ tư bản – đã không xảy ra theo cách ông tưởng tượng.  

Thay vào đó, chính trí thức công nghệ đã tự nâng mình lên đỉnh cao quyền lực, và để lại phía dưới là một giai cấp vô sản mới: những người không sở hữu gì ngoài sức lao động đã trở nên thừa thãi.

Đó không phải là thất bại của chủ nghĩa Marx nói chung,  

mà là thất bại của một tiên đoán cụ thể:  

trí thức không bị vô sản hóa – họ đang vô sản hóa cả thế giới còn lại.

Và đó chính là bài học lớn nhất, đắt giá nhất mà thế kỷ 21 dành cho tất cả chúng ta:  

Trong thời đại trí tuệ nhân tạo, kẻ mạnh không phải là người sở hữu nhà máy, mà là người sở hữu trí tuệ và khả năng sáng tạo ra những cỗ máy thông minh hơn chính mình.

Marx đã nhìn thấy tương lai,  

nhưng ông không nhìn thấy hết được tương lai đó sẽ thuộc về ai.

TIN NÓNG: Gavin Newsom gọi Tổng thống Donald Trump là MỘT CON LỢN nhưng hành động ngay sau đó của Barron Trump đã khiến Newsom và cả nước kinh ngạc

TIN NÓNG: Gavin Newsom gọi Tổng thống Donald Trump là MỘT CON LỢN nhưng hành động ngay sau đó của Barron Trump đã khiến Newsom và cả nước kinh ngạc 

✍️MDD

HỘI TRƯỜNG BÁO CHÍ ROOSEVELT đang ồn ào náo nhiệt – tiếng màn trập máy ảnh vang lên liên tục, các phóng viên di chuyển tìm góc chụp, các trợ lý đi lại dọc theo mép phòng, khi Thống đốc California Gavin NEWSOM bước lên bục phát biểu vào chiều thứ Năm đó. Chủ đề của buổi họp báo lẽ ra chỉ là những vấn đề thường lệ: công tác chuẩn bị ứng phó cháy rừng, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và một loạt luật môi trường mà ông hy vọng sẽ thúc đẩy.

Nhưng Newsom trông mệt mỏi. Cà vạt của ông nới lỏng hơn bình thường nửa inch. Biểu cảm của ông, thường được thể hiện với vẻ tự tin đặc trưng của một thống đốc, lại mang chút vẻ khó chịu. Cả nước sau đó sẽ tranh luận xem liệu ông đã lỡ lời, mất bình tĩnh dưới áp lực, hay đơn giản là không quan tâm ai nghe thấy ông nói gì. Điều mà không ai tranh cãi là những gì ông nói tiếp theo.

Khi một phóng viên hỏi ông về những lời chỉ trích của Tổng thống Donald Trump đối với chính sách năng lượng của California, Newsom thở dài, nhướng mày và lẩm bẩm – vào micro đang bật:

-"Trump LÀ MỘT CON LỢN. Đơn giản vậy thôi.”

Những tiếng thở hổn hển vang lên khắp hội trường. Một vài phóng viên ngay lập tức giơ điện thoại lên; những người khác thì đứng hình giữa chừng, không chắc liệu họ đã nghe đúng hay không. NEWSOM dường như nhận ra mức độ nghiêm trọng của khoảnh khắc đó chậm hơn nửa giây, chớp mắt như thể đang tua lại những lời nói của chính mình trong đầu.

Và đúng lúc mọi người trong phòng tưởng chừng sự kinh ngạc đã lên đến đỉnh điểm, một điều còn KỲ LẠ HƠN NỮA đã xảy ra. Một người khác bước tới:

Barroп Trυmp.

LỜI NÓI LÀM CẢ KHÁN PHÒNG CHAO ĐẢO.

Trong khoảnh khắc đó—như thể thời gian ngừng lại—âm thanh duy nhất trong khán phòng là tiếng vo ve điện của đèn máy quay. Newsom nhìn chằm chằm vào bục phát biểu, hàm siết chặt, khi những tiếng xì xào lan truyền khắp các hàng ghế đầy ắp phóng viên.

Một số trợ lý theo bản năng bước về phía Thống đốc, chuẩn bị cho việc kiểm soát thiệt hại ngay lập tức. Giám đốc truyền thông kéo tay áo ông. Một nhân viên nhà nước thì thầm:

-"Chúng ta đang PHÁT SÓNG TRỰC TIẾP. Nhưng sự thay đổi thực sự xảy ra cách đó hai mươi feet.

BARRON TRUMP, cao lớn, đứng im lặng, chỉ hiện diện với tư cách là một người quan sát cùng với một số đại diện chính sách thanh niên khác. Không ai mong đợi anh ta sẽ phát biểu; thực tế, hầu hết đều nghĩ rằng anh ta thậm chí sẽ không xuất hiện trước ống kính. Vai trò của anh ta hoàn toàn mang tính nghi lễ—bắt tay, quan sát quá trình lập pháp, rồi về nhà.

Thế nhưng giờ đây anh ta bước tới với khuôn mặt mà các phóng viên sau này mô tả là : KHUÔN MẶT LẠNH LÙNG NHƯ ĐÁ không thể đọc được cảm xúc.

Tiếng xì xào trong phòng biến mất.

-"Bạn có thể nghe thấy mọi người ngừng thở,” một nhà báo nhớ lại.

Một người khác nói rằng 

-"cảm giác như thể ai đó đã tắt tiếng cả thế giới”.

NEWSOM quay lại, cảm nhận được sự thay đổi phía sau mình. Và những gì ông nhìn thấy đã làm cho vẻ mặt vốn đã nhợt nhạt của ông càng thêm tái mét.

Bước đi đến micro Barron di chuyển chậm rãi—không phải do do dự, mà là một cách có chủ ý. Anh ta bước đi với tư thế không thể hiện sự đối đầu hay sợ hãi, chỉ là sự tất yếu. Đó là kiểu chuyển động thể hiện: điều này đang xảy ra, và không gì có thể ngăn cản nó bây giờ.

Các đặc vụ Mật vụ căng thẳng nhưng không can thiệp. Họ nhận ra ý định được kiểm soát trong bước đi của ông ta.

Barron tiến đến bục phát biểu.

Anh ta không liếc nhìn Newsom.

Anh ta không điều chỉnh micro.

Anh ta không để ý đến máy quay.

Anh ta chỉ đứng đó cho đến khi căn phòng ĐỦ YÊN TỈNH để khuếch đại tiếng vo ve nhỏ của thiết bị điện tử trên sân khấu. Các nhân chứng cho biết bầu không khí cảm thấy như bị nén lại bởi điện – giống như không khí ngay trước khi sét đánh.

Rồi Barron hơi cúi người về phía micro và nói một câu. Một câu nói đã thay đổi hoàn toàn cả căn phòng.

Câu nói đó là:

-"Khi một nhà lãnh đạo xúc phạm người khác, ông ta chỉ tiết lộ những gì mình thiếu sót bên trong bản thân.”

Chỉ vậy thôi.

Không phản công.

Không gọi tên.

Không leo thang.

Một tuyên bố được kiểm soát đến mức hoàn hảo, được truyền đạt một cách chính xác, đến nỗi sự im lặng sau đó cảm thấy như hữu hình – đủ dày đặc để đè nặng lên khán giả như một sức nặng.

Newsom nhìn chằm chằm vào BARRON mắt mở to, môi hé mở trong sự tĩnh lặng đầy sốc. Một nhân chứng sau đó nói rằng: 

-" nhìn Thống đốc trông như thể ai đó vừa rút phích cắm điện của ông ta”.

Câu nói vang vọng khắp khán phòng. Đó là kiểu câu nói không cần âm lượng để gây ấn tượng; nó có sự chính xác của một lưỡi dao sắc bén.

Các phóng viên chớp mắt, không chắc chắn nên phản ứng, nói gì hay chỉ đơn giản là tiếp nhận khoảnh khắc đó. Một người cuối cùng thì thầm – đủ lớn để các micro gần đó thu được:

-"Trời ơi.”

PHẢN ỨNG CỦA NEWSOM

NEWSOM cố gắng lấy lại bình tĩnh.

Anh ta hít một hơi thật sâu, bước lùi về phía bục phát biểu. Giọng nói của anh ta, thường thì trôi chảy và điêu luyện, hơi run nhẹ khi anh ta bắt đầu: 

-Để tôi làm rõ – ý tôi là…”

Nhưng anh ta không thể nói hết câu.

Các nhân viên của anh ta ngay lập tức xúm lại gần anh ta, thì thầm với giọng điệu hoảng loạn. 

Giám đốc truyền thông của anh ta đặt tay lên cánh tay anh ta, khẽ lắc đầu.

Đã quá muộn.

Thiệt hại – về chính trị, cá nhân và hình ảnh – đã xảy ra rồi.

Trong khi đó, Barron bước ra khỏi bục phát biểu với vẻ bình tĩnh như lúc anh ta bước lên. Không có vẻ chiến thắng. Không có sự hài lòng rõ rệt. 

Chỉ có sự điềm tĩnh.

Các phóng viên gọi theo anh ta:

💚BARRON anh có muốn bình luận thêm không?”

💚Điều đó có nhắm vào Thống đốc không?”

💚Anh nghĩ Newsom có ​​nên xin lỗi cha anh không?”

Anh ta không trả lời.

Anh ta không quay lại.

Anh ta chỉ đơn giản là trở lại nhóm chính sách thanh niên, hai tay chắp sau lưng, ánh mắt nhìn thẳng.

Việc anh ta từ chối giải thích càng làm cho khoảnh khắc đó trở nên nghiêm trọng hơn. Làn sóng chấn động bên ngoài căn phòng

Chỉ trong vài phút, các đoạn video đã lan truyền trên mạng xã hội.

-Hàng triệu lượt xem.

-Hàng chục nghìn bình luận.

-Một vụ bùng nổ kỹ thuật số.

💚Một số người ca ngợi sự thẳng thắn của NEWSOM

💚Nhưng phần lớn lại tập trung vào Barron—vào sự kiềm chế, sự điềm tĩnh, và vị thế đạo đức cao thượng một cách tự nhiên.

Các nhà bình luận chính trị tranh nhau đưa ra ý kiến:

💚"Cậu ấy không nói chuyện như một thiếu niên,” một nhà phân tích nói. 

💚"Cậu ấy nói chuyện như một người đã chứng kiến ​​các chính trị gia xé xác nhau trong nhiều năm và quyết định làm điều ngược lại.”

Một nhà bình luận viết:

💚"Cậu ấy không đối đầu với NEWSOM. Cậu ấy đã vạch trần ông ta.

Ngay cả những đảng viên Dân chủ nổi bật, khi phát biểu ngoài lề, cũng thừa nhận rằng :

💚Thống đốc đã vượt quá giới hạn 

💚và Barron đã đáp trả lại một cách khéo léo.

ĐẰNG SAU HẬU TRƯỜNG

Các nguồn tin thân cận với NEWSOM mô tả hậu quả là :

💚"hoàn toàn hỗn loạn". 

Các trợ lý tranh luận xem ông nên xin lỗi ngay lập tức hay chờ đợi tuyên bố từ các nhân vật cấp quốc gia.

💚"Ông ấy biết mình đã đi quá xa," một nhân viên nói. 

💚"Ngay khi nhìn thấy Barron bước về phía micro, ông ấy đã biết rồi."

Tại Tháp Trump, phản ứng hoàn toàn khác biệt. Theo một cố vấn lâu năm của Trump: 

💚-"Tổng thống đã rất ngạc nhiên. Tự hào thì có – nhưng cũng rất ngạc nhiên. Ông ấy không ngờ Barron lại can thiệp. Huống chi lại theo cách đó."

Melania Trump, người luôn kín đáo, được cho là đã nói với con trai rằng bà ngưỡng mộ cách cậu ấy xử lý tình huống. Câu trả lời của Barron rất đơn giản:

💚-"Con chỉ muốn nhắc nhở ông ấy rằng lời nói rất quan trọng."

CUỘC TRANH LUẬN QUỐC GIA

Các kênh truyền hình cáp dành toàn bộ thời lượng cho câu nói đó:

💚-"Khi một nhà lãnh đạo xúc phạm người khác, ông ta chỉ tiết lộ những gì mình thiếu sót bên trong."

💚Một số người gọi đó là sự khôn ngoan vượt xa tuổi tác.

💚Những người khác suy đoán rằng nó đã được chuẩn bị trước – điều mà những người thân cận với Barron phủ nhận.

💚Vẫn có những người khác khẳng định đó là sự thông minh bộc phát.

Các nhà tâm lý học đưa ra ý kiến.

Các nhà đạo đức học đưa ra ý kiến.

Các nhà chiến lược chính trị đưa ra ý kiến.

Nhưng sự đồng thuận của công chúng nghiêng về một phía:

💚Sự bình tĩnh mạnh mẽ hơn bất kỳ sự phẫn nộ nào có thể có. 

💚Một giáo sư về hùng biện chính trị đã tóm gọn vấn đề một cách súc tích:

💚-Newsom dùng âm lượng. 

💚-Barron dùng sự nghiêm túc. 

Đoán xem ai sẽ tồn tại lâu hơn?”

NEWSOM PHẢN HỒI (một cách nào đó)

Ngày hôm sau, Newsom tổ chức một cuộc họp báo ngắn – chỉ kéo dài hai phút.

-Ông ấy không lặp lại lời xúc phạm.

-Ông ấy không bào chữa cho nó.

-Ông ấy không nói lại từ “lợn” nữa.

Thay vào đó, ông ấy đưa ra một câu nói được chuẩn bị kỹ lưỡng:

💚-"Tôi lẽ ra nên chọn từ ngữ khôn ngoan hơn.”

💚Nhưng điều đáng chú ý là thiếu lời xin lỗi mà nhiều người mong đợi.

💚Và rõ ràng là ông ấy tỏ ra bối rối, điều mà ông ấy không thể che giấu hoàn toàn.

Khi được hỏi về tuyên bố của Barron, NEWSOM dừng lại khoảng bốn giây – một khoảng thời gian dài trên truyền hình trực tiếp – trước khi trả lời:

💚-"Ông ấy nói những gì ông ấy cảm thấy. Tôi tôn trọng điều đó.”

Các nhà bình luận nhanh chóng nhận thấy rằng sự lôi cuốn thường thấy của NEWSOM dường như đã được thay thế bằng một điều gì đó gần giống với sự khó chịu.


SỰ THẬT TÀN NHẪN VỀ "TÍCH LŨY TƯ BẢN NGUYÊN THỦY": TẠI SAO BẠN CÀY CẢ ĐỜI VẪN KHÔNG THOÁT NGHÈO?

Copy từ Lại Thế Vũ

SỰ THẬT TÀN NHẪN VỀ "TÍCH LŨY TƯ BẢN NGUYÊN THỦY": TẠI SAO BẠN CÀY CẢ ĐỜI VẪN KHÔNG THOÁT NGHÈO?

Có một sự thật ngầm hiểu mà giới tinh hoa không bao giờ muốn bạn biết.

Đó là họ sẽ dùng mọi cách, bằng mọi giá để ngăn cản người bình thường hoàn thành quá trình "tích lũy tư bản nguyên thủy".

Nghe thuật ngữ này có vẻ to tát, nhưng hiểu đơn giản là: Khi bạn có đủ số vốn để không cần phải bán sức lao động 8-10 tiếng mỗi ngày nữa. Bạn không cần bán thời gian, sức lực hay phẩm giá để kiếm tiền. Bạn sống bằng lợi tức từ số vốn đó. Đó là TỰ DO TÀI CHÍNH TỐI THIỂU.

Và tự do này không cần 30 tỷ, 50 tỷ hay biệt thự siêu xe như truyền thông vẫn ra rả. Nếu bạn sống ở quê, chi tiêu 10-12 triệu/tháng, bạn chỉ cần khoảng 2 tỷ gửi ngân hàng (lãi suất 6-7%) là đủ.

Khi đó, bạn có thể thức dậy vào sáng thứ Hai và quyết định đọc sách thay vì đi làm. Bạn có thể dành 3 năm để học một kỹ năng mới. Bạn có toàn quyền với thời gian của mình.

Nhưng đây chính xác là điều giới chủ không bao giờ muốn thấy.

Tại sao?

Bởi vì nếu ai cũng tự do, ai sẽ làm việc cho họ? Ai sẽ đứng trong nhà máy, ngồi trong văn phòng, chạy xe ngoài đường để tạo ra giá trị thặng dư cho họ?

Họ cần bạn mãi mãi là một người lao động.

Vì vậy, họ tạo ra 3 tầng xiềng xích vô hình nhưng cực kỳ chắc chắn để khóa chặt bạn vào vị trí "con ốc vít".

⛓️ XIỀNG XÍCH SỐ 1: CHỦ NGHĨA TIÊU DÙNG VÀ CỖ MÁY TUYÊN TRUYỀN

Họ không cấm bạn tiết kiệm. Họ chỉ làm cho việc tiết kiệm trở nên lỗi thời, ngu ngốc và đáng xấu hổ.

Họ dùng KOL, KOC, phim ảnh để thổi vào đầu bạn những giá trị ảo:

• "Tiền bạc quyết định hạnh phúc."

• "Phải có nhà, có xe mới có người yêu."

• "Tuổi trẻ chỉ có một lần, phải Yolo, phải đi du lịch sang chảnh, phải trải nghiệm."

Họ biến việc tiêu tiền thành thước đo thành công. Và bạn sợ hãi. Bạn sợ bị bỏ lại. Bạn sợ bị coi là thất bại nếu 30 tuổi chưa có ô tô. Bạn sợ bị chê "quê mùa" nếu không check-in resort 5 sao.

Hậu quả: Bạn lao vào cuộc đua này. Bạn tiêu sạch những gì kiếm được.

10 năm trôi qua, bạn 35 tuổi. Bạn có một chiếc iPhone đời mới nhất, vài tấm ảnh du lịch đẹp, và một tài khoản tiết kiệm RỖNG TUẾCH.

Bạn đã tự tay phá hủy cơ hội tích lũy vốn của mình. Bạn đã làm chính xác những điều họ muốn.

Câu chuyện thực tế:

Tôi có anh bạn tên Nam, làm IT lương 40 triệu. Nhưng Nam luôn trong tình trạng "cháy túi". Vì Nam tin rằng mình phải sống "đẳng cấp". Xe phải SH, điện thoại phải Pro Max, cà phê phải Starbucks.

Kết quả: Khi công ty cắt giảm nhân sự đợt suy thoái vừa rồi, Nam hoảng loạn. Không một đồng dự phòng, nợ thẻ tín dụng 50 triệu. Nam buộc phải chấp nhận một công việc lương thấp hơn, bị ép buộc, chỉ để tồn tại. Nam đã mất đi quyền lựa chọn.

⛓️ XIỀNG XÍCH SỐ 2: CÁI BẪY "NÂNG CẤP CUỘC SỐNG"

Nếu bạn "lì lợm" vượt qua được ải tiêu dùng, họ sẽ dùng đến vũ khí thứ hai. Nó được bọc đường bằng cái tên mỹ miều: Nâng cấp chất lượng cuộc sống.

• Khi bạn tiết kiệm được 35 triệu: "Đổi điện thoại đi, iPhone 17 mới ra đẹp lắm, xứng tầm với bạn."

• Khi bạn có 350 triệu: "Mua ô tô đi, che mưa che nắng, có xe đối tác mới nể."

• Khi bạn có 3.5 tỷ (lẽ ra đã đủ để tự do): "Mua nhà đi, an cư lạc nghiệp. Cố mua căn chung cư cao cấp 5 tỷ, trả góp 30 năm thôi mà."

Mục đích cuối cùng là gì?

Là RÚT SẠCH TỪNG ĐỒNG trong túi bạn. Là đảm bảo bạn quay lại vạch xuất phát.

Bạn tưởng bạn sở hữu cái nhà, cái xe? Không, bạn đang sở hữu một ĐỐNG NỢ.

Bạn vừa ký vào bản án nô lệ 30 năm cho ngân hàng. Bạn không dám nghỉ việc, không dám cãi sếp, vì nếu thất nghiệp 3 tháng, ngân hàng sẽ siết nhà.

Bạn từ một người sắp tự do, trở thành một con nợ cao cấp bị khóa chặt vào guồng máy.

⛓️ XIỀNG XÍCH SỐ 3: MA TRẬN KIM TỨ ĐỒ

Hãy nhìn vào Kim Tứ Đồ:

1. Người làm thuê: Bán sức và thời gian lấy lương. (Đông nhất).

2. Người tự làm chủ: Bán sức và thời gian giá cao hơn, nhưng ngừng làm là ngừng tiền.

3. Chủ doanh nghiệp: Dùng tiền và thời gian của người khác (Nhóm 1 & 2).

4. Nhà đầu tư: Dùng tiền đẻ ra tiền.

Hệ thống được thiết kế để Nhóm 3 và 4 hưởng lợi. Và để họ giàu, họ cần nguồn cung dồi dào từ Nhóm 1.

Hai xiềng xích trên (Tiêu dùng & Nâng cấp) tồn tại chỉ để đảm bảo bạn KHÔNG BAO GIỜ ĐỦ VỐN để chuyển sang Nhóm 3 và 4.

Bạn không có vốn -> Không thể đầu tư -> Không thể kinh doanh -> Buộc phải quay lại làm thuê.

Một vòng lặp hoàn hảo đến tàn nhẫn.

🚀 CUỘC ĐÀO THOÁT VĨ ĐẠI: LỘ TRÌNH 4 BƯỚC CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC

Làm sao để một con ốc vít như bạn thoát ra?

Câu trả lời không phải là làm việc 18 tiếng/ngày hay học những khóa làm giàu nhanh "lùa gà".

Câu trả lời là một thứ nhàm chán nhất, bị coi thường nhất: TIẾT KIỆM ĐỂ MUA LẠI THỜI GIAN.

Bước 1: Tiết kiệm "hung hãn" để giải phóng tư tưởng

Đừng tiết kiệm để mua đồ. Hãy tiết kiệm để mua TỰ DO.

Bạn phải thoát khỏi tư duy nghèo: "Lương 15 triệu tiêu 16 triệu", "Làm được đồng nào xào đồng ấy".

Hãy cắt giảm triệt để chi tiêu vô nghĩa. Mỗi lần định mua gì, hãy hỏi: "Mình đang mua trải nghiệm hay đang bán đi một phần tương lai?".

Khi bạn có 50 triệu: Bạn dám nghỉ việc nếu gặp sếp tồi.

Khi bạn có 200 triệu: Bạn dám nghỉ 6 tháng không lương để suy nghĩ, để tìm hướng đi mới.

Người bị kẹt trong vòng xoay hóa đơn không bao giờ có được sự xa xỉ đó. Chỉ khi giải phóng bản thân khỏi nỗi lo cơm áo, tư tưởng mới được tự do để nhìn thấy cơ hội lớn.

Bước 2: Dùng thời gian để nâng cấp "độ dày"

Thời gian có độ dày. 1 giờ của công nhân giá 30k. 1 giờ của chuyên gia giá 30 triệu.

Hệ thống muốn bạn mãi ở tầng 30k.

Hãy dùng số tiền tiết kiệm được ở Bước 1 để "mua" lấy 3-5 năm tập trung học hỏi.

Đừng cày 2-3 job một lúc để kiếm tiền lẻ. Hãy dùng thời gian đó học Code, học AI, học Marketing, học Sales, học Luật... Bất cứ kỹ năng nào thị trường trả giá cao.

Đây là giai đoạn khó khăn nhất. Bạn bè đổi xe, mua nhà. Còn bạn phải "ẩn mình", sống kham khổ để đầu tư vào bộ não. Nhưng đây là tài sản duy nhất không ai cướp được.

Câu chuyện thành công:

Chị Lan, một nhân viên hành chính lương 8 triệu. Thay vì an phận, chị tiết kiệm cực đoan, sống tối giản trong 3 năm. Số tiền đó chị dùng để học tiếng Anh và kỹ năng xuất nhập khẩu. Tối nào chị cũng học đến 12h đêm trong khi bạn bè đi trà sữa.

5 năm sau, chị trở thành quản lý chuỗi cung ứng cho một tập đoàn đa quốc gia, lương 4.000 USD/tháng. Giờ đây, 1 tháng lương của chị bằng 1 năm lương của bạn bè cũ. Chị đã nâng cấp "độ dày" thời gian thành công.

Bước 3: Cú nhảy lượng tử về năng suất

Sau 3-5 năm tu luyện, năng suất của bạn sẽ tăng vọt.

Một ngày làm việc của bạn giờ tạo ra giá trị bằng 30 ngày của bạn trước kia. Tầm nhìn cao tầng sẽ đánh bại nỗ lực ở tầng thấp.

Lương bạn tăng từ 10 triệu lên 50 triệu, thậm chí 100 triệu.

Đây là lúc phép màu xảy ra. Bạn có thể tiết kiệm 30-70 triệu/tháng.

Chỉ cần 2 năm, bạn có thể tích lũy được 1 tỷ - 2 tỷ đồng.

Con đường của người tỉnh táo: Dùng 5 năm nâng cấp + 2 năm tích lũy = 7 năm để TỰ DO. (Thay vì 30 năm cày cuốc).

Bước 4: Hoàn thành tích lũy và Dịch chuyển

Khi có 2 tỷ trong tay, bạn đã thắng bước đầu. Bạn đạt Tự do tài chính tối thiểu.

Bạn không còn bị BUỘC phải đi làm. Bạn làm vì đam mê.

Lúc này, cuộc chơi thực sự bắt đầu:

• Bạn dùng số vốn đó để chuyển sang nhóm Nhà Đầu Tư (gửi tiết kiệm, mua cổ phiếu, đất đai).

• Hoặc chuyển sang nhóm Chủ Doanh Nghiệp: Xây dựng hệ thống, thuê người khác làm việc cho bạn.

Lúc này, bạn không còn là con ốc vít. Bạn là người sở hữu cỗ máy.

KẾT LUẬN

Hệ thống tư bản không xấu, nó chỉ vận hành theo luật của nó.

Câu hỏi là: Bạn muốn làm con ốc vít bị nghiền nát cả đời, hay muốn học cách vận hành cỗ máy đó?

Hành trình này đòi hỏi kỷ luật thép. Bạn phải chiến đấu với sự lười biếng, với sự so sánh, ghen tị, và với cỗ máy truyền thông khổng lồ đang gào thét "Hãy tiêu đi!".

Hãy bắt đầu ngay hôm nay.

Tiết kiệm đồng tiền đầu tiên không phải để làm giàu, mà là để MUA LẠI TỰ DO TRONG TƯ TƯỞNG.

Và từ sự tự do đó, mọi thứ sẽ bắt đầu thay đổi.

Bạn chọn "Tỉnh" hay chọn "Mơ"?

#laithevu #drland

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

Tôi Đã Sa Thải Một Bà Mẹ Đơn Thân Chỉ Vì Đến Trễ 12 Phút... Và Đó Là Sai Lầm Lớn Nhất Đời Tôi.

Copy từ Facebook "Anh Chi TTV2-Quan điểm cad nhân"

💔 Tôi Đã Sa Thải Một Bà Mẹ Đơn Thân Chỉ Vì Đến Trễ 12 Phút... Và Đó Là Sai Lầm Lớn Nhất Đời Tôi.

Tôi đã sa thải một bà mẹ đơn thân chỉ vì cô ấy đến trễ mười hai phút.

Đó là quyết định "đúng". Đó là luật lệ. Nó công bằng với tất cả những người đến đúng giờ.

Thế nhưng... đó lại là sai lầm lớn nhất đời tôi.

Tôi đã làm trưởng nhóm tại một trung tâm phân phối ở Ohio được mười năm rồi. Ở đây, mọi thứ phải chính xác như mổ xẻ. Thời gian là tiền bạc. Nếu dây chuyền dừng lại, chúng tôi mất hàng ngàn đô la. Để mọi thứ chạy trơn tru, chúng tôi có luật "ba lần cảnh cáo". Nó được viết to, bằng mực đỏ, trong sổ tay. Ai cũng ký. Ai cũng biết.

Cảnh cáo miệng. Cảnh cáo bằng văn bản. Rồi sa thải.

Maya, một trong những nhân viên giỏi nhất của tôi, đã chạm đến bước thứ ba vào thứ Ba tuần trước.

Cô ấy là một phụ nữ trầm lặng, chắc tầm ngoài ba mươi, nhưng trong ánh mắt cô ấy có một sự mệt mỏi mà tôi thường thấy ở những người già gấp đôi tuổi cô ấy. Cô ấy không bao giờ than vãn. Không bao giờ nán lại ở khu cà phê. Cô ấy đến, cúi đầu và làm việc chăm chỉ hơn bất cứ ai.

Nhưng rồi, tháng trước, mọi thứ thay đổi.

Đầu tiên là mười phút trễ. "Xe có vấn đề," cô ấy thì thầm. Tôi cảnh cáo miệng. Hai tuần sau, hai mươi phút. Cô ấy trông kiệt sức, tóc tai rối bù. Cảnh cáo bằng văn bản. Tôi còn nhớ mình đã nói:

"Maya, tôi quý cô, nhưng tôi không thể phá lệ. Cô phải có mặt đúng giờ."

Và rồi Thứ Ba đến. Công việc bắt đầu lúc 6 giờ sáng. Đến 6 giờ 12 phút, Maya chạy vội qua cửa. Cô ấy không đi đôi ủng thường lệ — mà đi giày thể thao. Mắt đỏ hoe. Trông như vừa khóc.

Tôi không hỏi tại sao. Tôi không muốn biết. Tôi chỉ muốn thực thi luật lệ. Tôi gọi cô ấy vào văn phòng. Tờ đơn sa thải đã được chuẩn bị sẵn.

"Cô biết tại sao cô ở đây rồi chứ," tôi nói bằng giọng chuyên nghiệp. Lạnh lùng.

Maya không cầu xin. Cô ấy không bịa ra câu chuyện nào. Cô ấy chỉ nhìn vào đôi tay run rẩy của mình.

"Tôi biết... tôi xin lỗi, ông Henderson. Chuyện này sẽ không xảy ra nữa."

"Tôi biết," tôi trả lời và đưa tờ giấy cho cô ấy. "Bởi vì tôi buộc phải cho cô nghỉ việc."

Cô ấy nhìn tờ giấy, rồi nhìn tôi. Trong một giây, tôi thấy trong mắt cô ấy một nỗi sợ hãi tột độ, gần như bản năng. Sau đó, một cái gì đó vụt tắt. Cô ấy ký với đôi tay run lẩy bẩy.

"Cảm ơn vì cơ hội," cô ấy thì thầm.

Cô ấy bước ra ngoài trời lạnh. Còn tôi, tôi quay lại với cốc cà phê, tự hào vì đã "tuân thủ các quy tắc".

Tôi là một thằng ngốc.

Hai ngày sau, tôi đang ở phòng nghỉ. Hai nhân viên cũ đang nói chuyện gần máy bán hàng tự động.

"Không thấy Maya nữa."

"Jack đã sa thải cô ấy hôm thứ Ba."

"Thật tệ... nhất là với thằng bé."

"Thằng bé nào?"

"Ông không biết à? Cô ấy bị đuổi khỏi nhà ba tuần trước. Tòa nhà được bán. Họ cho 30 ngày để dọn đi. Cô ấy không thể tìm được chỗ thuê mới vì không có tiền đặt cọc. Cô ấy đang sống trong chiếc Ford Taurus cùng cậu con trai sáu tuổi."

Miếng ăn trong miệng tôi bỗng trở nên vô vị.

"Ông đùa tôi à."

"Không. Tại sao ông nghĩ cô ấy đến trễ? Cô ấy tắm cho con trai ở mấy phòng tập gym mở 24/24, nhưng đôi khi bảo vệ đuổi đi trước khi cô ấy kịp mặc quần áo xong cho thằng bé."

Tôi đứng sững lại, chết lặng.

Những lần trễ hẹn "không thể chấp nhận được" đó ư?

Đó không phải là sự lười biếng.

Đó là một người mẹ đang cố gắng rửa ráy cho con mình trong một cái bồn rửa công cộng để thằng bé không bị bạn bè ở trường chê cười.

Và tôi... vừa lấy đi nguồn thu nhập duy nhất của cô ấy.

Tôi rời khỏi vị trí làm việc với cái cớ khẩn cấp gia đình. Tôi đi tìm cô ấy... nhưng tìm một bóng ma thì tìm ở đâu?

Tôi đến căn hộ cũ. Bị niêm phong.

Phòng tập gym. Không thấy.

Các trung tâm trú ẩn. "Hết chỗ."

"Danh sách chờ cho một bà mẹ và một đứa trẻ à? Sáu tháng," một nhân viên mệt mỏi nói với tôi.

Lúc 8 giờ tối, nhiệt độ là −2 

 C. Tôi định bỏ cuộc. Tôi đỗ xe trong bãi đậu xe của một siêu thị Walmart.

Và tôi thấy cô ấy.

Tít phía sau, trong bóng tối. Một chiếc Ford Taurus xanh cũ kỹ. Máy đã tắt. Kính xe mờ hơi.

Tôi bước về phía xe. Tôi gõ nhẹ vào cửa kính.

Maya giật mình, giơ cái lược chải tóc lên như một vũ khí. Rồi cô ấy nhận ra tôi. Cô ấy hé mở cửa kính. Một luồng khí lạnh buốt lọt vào.

"Ông Henderson? Tôi... tôi có thể nộp lại đồng phục vào ngày mai. Tôi chỉ cần—"

"Maya, mở cửa ra."

Cô ấy do dự, rồi mở khóa.

Ở ghế sau, dưới một đống chăn mền, một cậu bé đang ngủ, ôm chặt một mô hình siêu anh hùng. Má thằng bé xanh lét vì lạnh.

"Thằng bé ổn không?"

"Nó lạnh," cô ấy vừa thì thầm vừa khóc. "Hết xăng rồi. Tôi không thể bật máy sưởi nữa... tôi không biết phải đi đâu."

Tôi nhìn cô ấy. Tôi đã đánh giá giá trị của cô ấy bằng phút. Bằng mười hai phút ngắn ngủi.

"Cô không cần nộp lại đồng phục đâu," tôi nói.

Cô ấy sợ hãi.

"Cô quay lại làm việc. Ngày mai. Hoặc bất cứ khi nào cô muốn. Tôi đã hủy hồ sơ đó rồi. Đó là một sai sót hành chính. Cô không bị sa thải."

Cô ấy chớp mắt, bối rối.

"Nhưng... luật lệ... ba lần cảnh cáo..."

"Mặc kệ luật lệ," tôi thì thầm. "Và mặc kệ cảnh cáo."

Tôi đưa cô ấy 300 đô la.

"Có một nhà nghỉ Motel 6 cách đây hai dãy phố. Nó không phải thiên đường, nhưng nó ấm. Đi nghỉ đi. Tắm nước nóng cho thằng bé. Gọi một cái pizza."

"Tôi không thể trả lại ông..."

"Đây không phải là một khoản vay. Đây là lời xin lỗi."

Tôi theo họ đến khách sạn. Khi ánh đèn phòng 104 bật sáng, tôi mới chịu lái xe về nhà.

Ngày hôm sau, tôi triệu tập phòng Nhân sự. Chấm dứt việc áp dụng luật mù quáng. Chúng tôi đã lập một quỹ hỗ trợ khẩn cấp cho nhân viên.

Maya trở lại sau ba ngày. Đúng giờ.

Và nếu cô ấy có đến trễ mười phút?

Tôi sẽ pha cà phê và hỏi: "Tôi có thể giúp gì cho cô không?"

Chúng ta sống trong một thế giới bị ám ảnh bởi các quy tắc, các con số, hiệu suất.

Mải nhìn vào đồng hồ, chúng ta quên nhìn vào con người.

Hãy cứng rắn. Hãy công bằng.

Nhưng quan trọng nhất... hãy nhân văn.

Một quy tắc không biết run rẩy.

Một bảng Excel chưa bao giờ cảm thấy lạnh.

Con người thì có.

Hãy chia sẻ thông điệp này. Hãy nhắc nhở thế giới rằng quy tắc duy nhất thực sự quan trọng, đó là lòng tốt.

St

TS.Alan Phan: Ở Trung Quốc, các đối thủ rất thân thiện, đối xử như bạn bè, thích mời nhau ăn nhậu, rồi còn đề nghị hợp tác. Nhưng sẵn sàng giết nhau đằng sau lưng bất cứ lúc nào.

Ở Trung Quốc, các đối thủ rất thân thiện, đối xử như bạn bè, thích mời nhau ăn nhậu, rồi còn đề nghị hợp tác. Nhưng sẵn sàng giết nhau đằng sau lưng bất cứ lúc nào. 

TS.Alan Phan

----------------

Tại Trung Quốc, sự hành xử giữa các đối thủ cạnh tranh khá đặc biệt. Nếu các đối thủ ở Mỹ luôn tỏ vẻ dè chừng nhau và sợ bị gài bẫy, vì nếu toa rập làm giá hay thao túng thị trường có thể bị tù tội. Với Trung Quốc, các đối thủ rất thân thiện, đối xử như bạn bè lâu ngày, thích mời nhau đi ăn nhậu, rồi còn đề nghị hợp tác. Nhưng với đường lối ngoại giao rất “hòa nhã” trước mắt, các đối thủ sẵn sàng giết nhau đằng sau lưng. Do đó, ít khi doanh nghiệp Trung Quốc kiện nhau, bởi quan điểm lâu đời của họ là không “vạch áo cho người xem lưng”.

Cạnh tranh lớn nhất ở Trung Quốc là làm hàng giả, hàng nhái của những sản phẩm thành công. Rất nhiều doanh nghiệp nhỏ với phản ứng nhanh lẹ sẽ tung ra thị trường các mặt hàng giả để kiếm lời, đôi khi còn cố tình làm hàng giả thật kém chất lượng để phá tan uy tín của thương hiệu. Nếu doanh nghiệp có hệ thống quản lý chặt chẽ hàng giả trong hệ thống phân phối, lúc đó đối thủ sẽ làm hàng nhái. Với sự thực thi luật pháp lỏng lẻo tại nhiều địa phương, các mẫu hàng nhái rất khó phân biệt với hàng chính thống và cũng khó khởi kiện những vi phạm. Trung Quốc cũng có nhiều cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, với những con tem chứng nhận rất ấn tượng. Nhưng tem giả cũng được chào bán tràn lan.

 Một ví dụ điển hình là Trung Quốc có một loại cua rất đặc biệt từ Đại Hồ, tỉnh Chiết Giang, một năm chỉ có bán một tháng khi cua vừa lớn. Giá bán gấp 10 lần cua thường và chỉ những bậc quan chức lớn hay đại gia mới mua nổi để thưởng thức. Sau khi thị trường mở cửa, cua Đại Hồ tràn lan khắp nơi, với tem chứng nhận do tỉnh Triết Giang cấp, khiến người mua không phân biệt nổi đâu là cua Đại Hồ thật và giả nữa.

 Một phương thức cạnh tranh phổ biến khác là những tin đồn độc hại về đối thủ hay sản phẩm của họ. Người Trung Quốc rất chuộng tin đồn và luôn tin rằng “không có lửa làm sao có khói”. Lý do chính là các cơ quan truyền thông bị kiểm soát chặt chẽ, thường chỉ loan tin một chiều theo chỉ thị của chính phủ, nên người dân quay về với các nguồn tin “ngoài luồng” để dung hòa sự thật. Điều trớ trêu là các nguồn tin ngoài luồng này lại được tin tưởng và áp dụng nhiều hơn các nguồn tin chính thống, vì nó đa dạng và gần gũi với quần chúng hơn các lời tuyên bố khó hiểu và dài dòng của chính phủ. Lợi dụng khe hở này, các đối thủ cạnh tranh có thể hại nhau với những blogs trên mạng, những tờ rơi vô danh ngoài phố, những tin nhắn không rõ xuất xứ từ điện thoại di động…

 Thủ đoạn dùng áp lực chính trị từ chính quyền địa phương cũng gây rắc rối cho đối thủ. Hệ thống hành chính của Trung Quốc rất phức tạp bởi có nhiều cơ quan khác nhau, mà sự chia sẻ quyền lực không rõ ràng; cũng như các địa phương với rất nhiều quyền hành kiểu “phép vua thua lệ làng”. Khi công ty bia Heineken được giấy phép mở nhà máy, ngoài các tỉnh lớn như Quảng Đông, Bắc Kinh, Thượng Hải… hãng này lại không được bán ở nhiều tỉnh khác, do các đại lý không được chính quyền địa phương cấp phép phân phối. Nếu có bán được, nhà sản xuất lại gặp vấn đề thu tiền từ các công ty nhà nước do địa phương quản lý. Và thủ đoạn quảng cáo gian dối gây thiệt hại, từ giá cả đến chất lượng, làm sai lạc đi hình thức cạnh tranh, hoặc thay đổi xuất xứ sản phẩm là những hình thức cạnh tranh bình thường ở Trung Quốc.

 Sự không tôn trọng hợp đồng hay các chuẩn mực đạo đức thông thường cũng là vấn nạn. Một công ty bạn tôi có hợp đồng phân phối độc quyền tại Trung Quốc cho một hãng sản xuất nổi tiếng về vật liệu xây dựng bên Mỹ. Anh bổ nhiệm một đại lý ở Quảng Đông để phân phối cho khu vực phía Nam. Chỉ một năm sau, đại lý cho người qua mua hàng trực tiếp từ nhà sản xuất và tất nhiên bị công ty Mỹ từ chối. Nhưng họ lại đi vòng bằng cách mua hàng tại Brasil để qua mặt công ty của bạn tôi. Cuối cùng, họ thành công và một trận chiến phá giá ở Trung Quốc gây thiệt hại nặng cho mọi người, kể cả nhà sản xuất bên Mỹ.

 Một chiêu thức nữa là trả tiền gầm bàn cho nhân viên của đối thủ hoặc nhà cung cấp để lấy những bí mật kinh doanh hay phá rối nguồn cung cấp hàng, hệ thống phân phối, quản lý khách hàng. Biết điểm yếu, mạnh của đối thủ là biết cách gây thiệt hại, chiến lược này của Tôn Tử được các doanh nhân Trung Quốc thuộc lòng. Ngoài những tên tuổi lớn như Microsoft, Intel, Sony… ít bị đụng vào, còn những công ty nhỏ từ Âu, Mỹ chỉ sống được từ một đến 5 năm là ngắc ngoải với sự cạnh tranh phá rối này. Nếu muốn an toàn, tốt nhất nên thông qua một công ty của Trung Quốc có đủ sức chống chọi và để họ tự do phát triển thị trường.

TS.Alan Phan

Trích từ "Góc nhìn Alan - 42 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc" thuộc Bộ di sản Alan Phan

FB Tri Van Nguyen: VÌ SAO NGA – TRUNG QUỐC – IRAN IM LẶNG TRƯỚC CHIẾN DỊCH “MŨI GIÁO PHƯƠNG NAM” CỦA HOA KỲ?

VÌ SAO NGA – TRUNG QUỐC – IRAN IM LẶNG TRƯỚC CHIẾN DỊCH “MŨI GIÁO PHƯƠNG NAM” CỦA HOA KỲ?

Fb Tri Van Nguyen 

Sự xuất hiện của tàu sân bay Mỹ tại vùng Caribe và việc Washington mở chiến dịch “Mũi giáo phương Nam” đã khiến dư luận quốc tế bất ngờ. Điều gây chú ý hơn nữa là phản ứng của ba quốc gia có ảnh hưởng mạnh nhất tới Venezuela – Nga, Trung Quốc và Iran – đều ở mức im lặng bất thường. Không những không lên án mạnh mẽ, họ còn tỏ ra dè dặt và có phần giữ khoảng cách.

Vì sao?

Câu trả lời nằm trong cấu trúc quyền lực hiện nay của thế giới.

Trước hết, Nga đang ở thời kỳ suy yếu chiến lược nghiêm trọng nhất trong 30 năm qua. Chiến tranh Ukraine đã tiêu hao gần như toàn bộ nguồn lực tinh nhuệ của Moscow. Các lệnh trừng phạt khiến ngân sách quân sự bị co hẹp, vũ khí hiện đại bị tiêu hao nhanh hơn tốc độ sản xuất, và uy tín quốc tế bị tổn hại sâu sắc. Điện Kremlin không đủ khả năng mở thêm bất kỳ mặt trận nào ngoài Ukraine – càng không thể “vươn tay” sang Tây Bán Cầu, nơi được xem là sân sau tuyệt đối của Mỹ theo Học thuyết Monroe.

Với Nga lúc này, Venezuela là xa xỉ phẩm, không phải ưu tiên sinh tử.

Về phía Trung Quốc, nền kinh tế đang trải qua giai đoạn khó khăn nhất kể từ sau cải cách mở cửa. Bất động sản sụp đổ, thất nghiệp thanh niên tăng cao, tăng trưởng giảm tốc, trong khi Mỹ – EU đồng loạt siết công nghệ và thương mại. Ở Biển Đông, Trung Quốc bị bao vây bởi Nhật, Philippines, Úc và mạng lưới đồng minh của Mỹ. Bắc Kinh không muốn bị kéo vào một điểm nóng mới, nhất là tại khu vực mà Mỹ kiểm soát tuyệt đối. Hơn nữa, phần lớn các khoản cho Venezuela vay đã “mất trắng”, khiến Trung Quốc không còn hứng thú đổ thêm tiền cứu chế độ Maduro.

Chiến lược của Trung Quốc lúc này là co cụm – giữ lực – tránh va chạm.

Trong khi đó, Iran đang phải đối phó với cơn bão xung đột tại Trung Đông: Israel – Gaza, Israel – Hezbollah, Bahrain – Yemen, và các cuộc tấn công từ Mỹ. Teheran đang dàn mỏng lực lượng, chịu áp lực cấm vận, và không có khả năng mở rộng hiện diện tới Nam Mỹ. Dù thân thiết với Caracas, Iran cũng chỉ có thể hỗ trợ ở mức “ngầm”, không đủ sức đối đầu trực diện với Hải quân Mỹ.

Nói cách khác, Iran đang quá bận để lên tiếng.

Điểm chung của cả ba quốc gia:

👉 Đều đang ở thế thủ

👉 Đều bị Mỹ và đồng minh gây áp lực ở khu vực khác

👉 Đều không muốn mở thêm mặt trận đối đầu trực tiếp

Một yếu tố khác không thể bỏ qua: Venezuela đã mất giá trị chiến lược.

Thời Chavez và giai đoạn đầu của Maduro, Venezuela là “mỏ vàng” dầu mỏ dành cho Nga và Trung Quốc. Nhưng sau hơn một thập kỷ quản lý sai lầm, tham nhũng và sụp đổ kinh tế, Venezuela không còn khả năng trả nợ, không cung cấp được lợi ích thực tế và thậm chí trở thành gánh nặng.

Khi lợi ích giảm – chi phí tăng – rủi ro cao, các cường quốc sẽ chọn im lặng chiến thuật.

Cuối cùng, cả Nga – Trung – Iran đều hiểu một điều bất di bất dịch:

Vùng Caribe là sân sau tuyệt đối của Mỹ.

Đối đầu trực diện ở đây là “tự sát chiến lược”.

Vì vậy, phản ứng yếu ớt của họ thực chất là một sự thừa nhận ngầm:

“Hoa Kỳ muốn làm gì ở Venezuela, tùy.”

Trong bối cảnh Mỹ đang tập trung tái thiết ảnh hưởng ở Tây Bán Cầu và khôi phục Học thuyết Monroe, sự im lặng của Nga – Trung – Iran không phải là sự đồng ý, mà là bất lực.

Chiến dịch “Mũi giáo phương Nam” vì vậy không chỉ là chiến dịch quân sự – chống ma túy, mà còn là lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng:

Trật tự địa chính trị tại Tây Bán Cầu vẫn do Hoa Kỳ quyết định.

Trump hành động không bốc đồng. Có tính toán chiến lược.

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

Quang Minh: 9 CÂU NGỤY BIỆN ĐIỂN HÌNH CỦA NGƯỜI VIỆT

 "9 CÂU NGỤY BIỆN ĐIỂN HÌNH CỦA NGƯỜI VIỆT

(Quang Minh)

Có một thói quen rất nguy hiểm mà người Việt thường xuyên sử dụng trong giao tiếp, đó là thói quen ngụy biện. Thói quen này đã lây nhiễm một cách vô hình từ giao tiếp thường nhật, từ tâm lý thắng thua khi tranh cãi, và nhất là trong cộng đồng cư dân mạng…

Ngụy biện hay Fallacy là khái niệm để chỉ những cách lập luận tưởng chừng là đúng, nhưng thực chất lại là sai lầm và phi logic trong tranh luận. Ngụy biện có thể biến một vấn đề từ sai thành đúng, và từ đúng trở thành sai. Ngụy biện có thể dẫn đến những cái nhìn sai lệch và tư duy sai lầm mà chính bản thân người nói cũng không nhận ra được.

Những ai đã có kiến thức về ngụy biện đều hiểu một điều đáng buồn rằng: Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện! Chúng ta đều biết hai chữ “ngụy biện”, nhưng liệu chúng ta có thật sự hiểu về nó? Bạn có tin rằng tại Việt Nam, ngụy biện đã cướp đi mạng sống của con người?

Trên thế giới, ngụy biện đã trở thành một thứ "kiến thức" được biết đến rộng rãi, và các nhà nghiên cứu đã thống kê khoảng trên dưới 100 loại ngụy biện khác nhau. Đáng tiếc là tài liệu về ngụy biện tiếng Việt chỉ có một vài nguồn, đó là trang GS Nguyễn Văn Tuấn, trang Thư viện khoa học, hay trang “Ngụy biện – Fallacy” của TS. Phan Hữu Trọng Hiền.

Dưới đây xin được tổng hợp lại 9 câu “ngụy biện” điển hình của người Việt đã được nêu ra tại các nguồn tài liệu trên:

1. “NHÌN LẠI MÌNH ĐI RỒI HẴNG NÓI NGƯỜI KHÁC".

Mình làm sai thì là sai rồi, sao lại không nhận sai, không nói thẳng vào vấn đề “mình sai” mà lại quay qua tìm điểm yếu của người khác? Việc này cũng giống như là khi nhận được góp ý: “Viết sai chính tả rồi kìa”, thì thay vì sửa sai, bạn lại bốp chát: “Thế mày chưa viết sai bao giờ à?”

2. “CÓ LÀM ĐƯỢC GÌ CHO ĐẤT NƯỚC ĐÂU MÀ TO MỒM". 

Người ta có làm được gì hay không thì là điều mình chưa biết, hơn nữa bạn đã “lạc đề” rồi. Vấn đề người ta nêu ra thì bạn không trả lời, không đưa ra luận điểm logic, mà lại đi đường vòng, chuyển qua công kích người khác.

3. “NÓ ĂN TRỘM CHÓ THÌ CỨ ĐÁNH CHO NÓ CHẾT".

Lập luận này đã khiến cho những kẻ trộm chó vốn không đáng phải chết bị giết chết bởi chính những người dân tưởng chừng “lương thiện”. “Ăn trộm chó” là sai, nhưng “giết người” cũng là sai, hai sai thì không phải là một đúng, mà là sai lại càng sai.

4. “LÀM ĐƯỢC NHƯ NGƯỜI TA ĐI RỒI HÃY NÓI".

Lại một hình thức “lạc đề”. Luận điểm mà người ta đưa ra thì bạn không xoay quanh mà bàn luận, lại cứ phải công kích cá nhân người khác thì mới vừa lòng sao?

5. “NẾU KHÔNG HÀI LÒNG THÌ CÚT XÉO RA NƯỚC NGOÀI MÀ SINH SỐNG".

Lời nói này không chỉ đánh lạc hướng vấn đề, mà còn rất bất lịch sự, chuyên dùng để làm người đối diện tức giận, chứ chẳng có một chút logic nào trong đó cả.

6. “CHỈ CÓ NHỮNG NGƯỜI CHÂN LẤM TAY BÙN TỪ NHỎ MỚI LÀ NGƯỜI CẦN CÙ CHĂM CHỈ XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC ".

Câu khẩu hiệu này đã từng xuất hiện ở Việt Nam trong quá khứ. Người ta có câu “vơ đũa cả nắm”, ấy chính là để chỉ việc lập luận cảm tính, khái quát cảm tính, mà không hề đưa ra logic hợp lý nào cả. Cũng như vậy, khi phân chia giai cấp và tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, thì người ta đã mắc sai lầm ngụy biện, ví như chủ đất không nhất định là xấu, chủ doanh nghiệp cũng không nhất định là xấu, và người làm công ăn lương hay nông dân chắc gì đã là một người tốt cần cù chăm chỉ?

7. “NƯƠC NÀO MÀ CHẲNG CÓ THAM NHŨNG".

Vì nước nào cũng có tham nhũng nên Việt Nam được phép có tham nhũng hay sao? Vì mọi người đều vượt đèn đỏ nên tất nhiên tôi cũng phải vượt đèn đỏ? Vì xã hội thiếu gì nghiện hút nên trong nhà có người hút chích cũng là bình thường?

8. “NẾU ANH LÀ HỌ MÀ ANH LÀM ĐƯỢC THÌ HẴNG NÓI".

Đặt mình vào vị trí người khác là một tiêu chuẩn người xưa dùng để tu sửa bản thân, hướng vào bản thân tìm lỗi, là một nét văn hóa rất độc đáo của phương Đông. Tuy nhiên câu nói đó chỉ sử dụng khi một người tự răn mình, chứ không phải là một câu nói dùng trong tranh luận. Việc sử dụng nó trong tranh luận không chỉ là sự bịt miệng những phê bình của người khác, không giải thích các luận điểm của người khác, mà còn chứng tỏ rằng chúng ta đang phá hoại và lãng quên văn hóa truyền thống của chính mình.

9. “TẠI SAO ANH DÁM NÓI CHÚNG TÔI SAI? ANH LÀ MỘT TÊN PHẢN BỘI DÂN TỘC ". 

Kiểu lập luận chụp mũ này mặc nhiên coi mình là đúng, họ là sai, và những người đồng quan điểm với họ cũng là sai. Nó không hề đưa ra một thứ logic nào, nhưng lại cắt ngang một cái giới tuyến, và tùy tiện định tội cho người khác.

Tất nhiên đây mới chỉ là những câu ngụy biện cơ bản nhất, thường thấy nhất và ngày càng xuất hiện thường xuyên hơn, muôn hình vạn trạng hơn trong tư duy của người Việt. Vậy nguyên nhân của thói quen này là từ đâu?

Trong phần nhiều các lỗi ngụy biện thường gặp của người Việt, có một tâm lý cơ bản hiện rõ ra khi tham gia thảo luận, đó chính là tâm tranh đấu, hiếu thắng, và không hề tôn trọng người đối diện. Ngoài đó ra, chúng ta cũng hay bị ảnh hưởng của tâm lý đám đông, lợi dụng tâm lý đám đông để che đi trách nhiệm của bản thân mình.

Muốn tránh cách tư duy ngụy biện, chúng ta không những phải sửa lối tư duy vòng vo, thiếu suy nghĩ, mà còn phải sửa chính từ tâm thái của mình khi trao đổi và luận bàn về mọi việc. Điều cơ bản nhất khi tham gia tranh luận là có trách nhiệm trong lời nói của chính mình và biết tôn trọng người đối diện"

Nguyễn Đức Thành: ĐOÀN VĂN SÁNG HAY LÀ SỰ TẦM THƯỜNG CỦA CÁI ÁC.

ĐOÀN VĂN SÁNG HAY LÀ SỰ TẦM THƯỜNG CỦA CÁI ÁC.

(Hannah Arendt, W. E. B. Du Bois, Michel Foucault và Sigmund Freud đồng thời ghé thăm Việt Nam).

Vụ án xảy ra tại Lạng Sơn vào đầu năm 2025, khi Nguyễn Xuân Đạt, sau nhiều năm chủ động tìm kiếm, đã được Đoàn Văn Sáng đáp ứng “ý nguyện” cuối cùng: bị chặt đầu trong lúc đạt cực khoái, sau đó cơ thể bị xẻ thịt, nấu nướng và ăn lẩu. Toàn bộ quá trình được ghi lại tỉ mỉ rõ ràng trong các video đặt sẵn từ các góc khác nhau, trong một căn phòng tồi tàn hơi chật chội, rồi được phát tán rộng rãi vào mùa hè cùng năm. Ai chẳng may xem các clip ấy, sẽ chấn thương tinh thần mãi mãi.

Đoàn Văn Sáng không phải kẻ vô gia cư, không phải kẻ bị bất công xã hội đẩy tới đường cùng, không phải kẻ nổi loạn, lại càng không có hình hài của quỷ dữ hay uy quyền của một báo chúa khát máu. Ông là cán bộ nhà nước, từng lãnh đạo Đội Quản lý Thị trường Lạng Sơn, vừa được bầu làm Chủ tịch dòng họ Đoàn ở tỉnh, có gia đình, con cái, và được cộng đồng địa phương kính nể. Ông có giọng nói ấm áp, ăn nói hóm hỉnh và chân tình. FB cá nhân đăng hình ông đứng cùng vợ và hai người con trai đã lớn. Ông tự miêu tả ông là một người chân tình, thương người, tôn trọng sự khác biệt. 

Dường như sự khác biệt mà ông hàm ý, bắt nguồn từ mong muốn được mọi người cùng tôn trọng rằng ông là người đồng tính nam sống kín. Nhưng đó chỉ là hàm ý sâu kín của ông mà thôi.

Khi nhìn vào trường hợp Đoàn Văn Sáng qua lăng kính Hannah Arendt, điều khiến ta rùng mình không phải là sự quỷ quyệt độc ác hay bạo tàn cuồng nộ, mà chính là sự vắng mặt gần như hoàn toàn của tư duy phản tỉnh – thoughtlessness (sự-không-còn-suy-nghĩ). Trong tác phẩm Sự tầm thường của cái ác, Arendt từng nhận xét về Adolf Eichmann rằng ông ta không ác độc theo nghĩa cổ điển, không thù hận người Do Thái, không khát máu và khao khát trả thù; ông chỉ đơn giản là không còn suy nghĩ. Ông ký giấy, đếm đủ số người, sắp xếp các chuyến tàu, hoàn thành “nhiệm vụ” với ngôn ngữ quan liêu rỗng tuếch để không phải đối diện với thực tế hàng triệu con người đang bị đẩy tới những lò thiêu.

Đoàn Văn Sáng cũng vậy. Ông không giết người vì thù hận cá nhân, không vì tiền bạc hay khao khát trả thù. Ông chỉ “thực hiện đúng ý nguyện” của một người khác, như thể đó là một giao kèo riêng tư, một thủ tục ân cần do bạn bè giao phó. Việc thử đi thử lại cuộc hành quyết cho kỹ càng, nhằm đảm bảo đầu của Đạt chắc chắn phải được chặt phăng, đặt máy quay phim cẩn thận từ các góc dễ nhìn, rồi đăng tải lên nhóm kín như một sự báo cáo công việc đã hoàn thành,... cho thấy một mức độ thoughtlessness cao độ. Đoàn Văn Sáng không tưởng tượng được rằng những hình ảnh ấy sẽ làm vỡ tan đời sống của bao người, rằng chúng sẽ trở thành một sang chấn tập thể. Ông hành động trong một thế giới riêng, nơi mọi chuẩn mực nhân văn đã dừng lại bên ngoài, và điều đó, theo Arendt, chính là hình thái hiện đại nhất của cái ác – không cần quái vật dữ dằn như trong ác mộng, không cần ác quỷ hùng vĩ và khủng khiếp, chỉ cần một con người bình thường NGỪNG SUY NGHĨ.

Nhưng tại sao một người có vẻ ngoài hoàn toàn “bình thường” lại có thể bước qua lằn ranh ấy một cách nhẹ nhàng đến thế?

W. E. B. Du Bois, trong The Souls of Black Folk (1903), đã mô tả trải nghiệm double consciousness – ý thức kép – của cộng đồng người da đen tại Mỹ: luôn phải nhìn chính mình qua đôi mắt của một xã hội khinh miệt, luôn mang trong mình hai linh hồn không hòa hợp, bị ngăn cách bởi một tấm khăn voan (veil), tấm màn chỉ cho phép nhìn một chiều từ bên trong ra, và bên ngoài nhìn vào không thấy gì. Với người ngoài (ở đây là cộng đồng người da trắng), thì những người da đen phải hành động ở bên ngoài tấm veil y như những người da trắng đang nhìn. Nhưng đằng sau tấm vail, là cả một thế giời mà những người da đen đang sống và muốn sống. Họ bị giằng co giữa hai linh hồn hay luôn trong trạng thái "ý thức kép", họ phải có cả hai, họ không muốn mất cái nào hết. Bên ngoài tấm veil giúp họ sống. Bên trong tấm veil là chính họ, là thực sự sống. Nhưng hai thế giới đó bị phân tách, chỉ bằng một tấm khăn voan, nhưng xa nhau thăm thẳm.

Khái niệm này có thể mở rộng một cách chính xác đến những người đồng tính nam sống kín tại Việt Nam hiện nay. Đoàn Văn Sáng sống với hai tâm hồn cùng lúc: một tâm hồn công dân lý tưởng trong xã hội nam quyền, cán bộ nhà nước mẫu mực, một tộc trưởng được kính trọng, một người cha của những đứa con trai; đồng thời, ông sống với một tâm hồn khác, của một người đồng tính nam, bị che khuất sau tấm veil của kỳ thị ngầm, không bao giờ được xã hội thừa nhận, ít nhất là ông hiểu và chấp nhận như thế.

Từ bên trong tấm veil ấy, ông nhìn ra thế giới bên ngoài bằng con mắt méo mó, phòng bị, mặc cảm và cô đơn. Trong khi đó, thế giới bên ngoài không bao giờ thực sự nhìn thấy ông qua tấm veil, thậm chí không muốn nhìn qua, dù biết đằng sau tấm veil ấy là một thế giới khác. Đó là nỗi đau đớn của đại đa số, nếu không muốn nói là tất cả, những người đồng tính trong xã hội Việt Nam, cũng như trong nhiều, rất nhiều xã hội khác, trong suốt lịch sử "văn minh" của loài người, cho đến tận bây giờ.

Sự phân cách mênh mông qua một tấm voan mỏng manh nghiệt ngã này tạo ra một khoảng trống nội tâm thăm thẳm, nơi khả năng phán đoán đạo đức dần tê liệt và hoàn toàn biến mất. Double consciousness không chỉ là gánh nặng; nó còn là một cơ chế tự vệ: để tồn tại, người ta học cách tách biệt hai thế giới, và dần dần, thế giới bí mật trở thành nơi duy nhất mà bản năng nguyên thủy được phép thở hơi thở của chính mình. Đó là các nhóm kín trên mạng xã hội, nơi Đoàn Văn Sáng có thể tham gia dưới một nick ảo.

Tôi muốn nhắc tới Michel Foucault như một cước chú bổ sung thêm một tầng giải thích mang tính cấu trúc. Trong xã hội Việt Nam đương đại, discourse (diễn ngôn) về gia đình “chuẩn mực”, về “đạo đức cách mạng”, về hình ảnh "cán bộ nhà nước", về "nam quyền", "tính đàn ông", về "thành đạt", về "hạnh phúc"... vẫn ngầm định vị đồng tính luyến ái như một điều bất hạnh, như một dạng lệch lạc cần được che giấu hoặc chữa trị. Quyền lực bao trùm ở đây không hoạt động bằng roi vọt mà bằng sự sản xuất không ngừng các chuẩn mực và sự tự kiểm soát. Không có xiềng sắt, không có xà lim, không có dây trói, gông cùm, nhưng quyền lực đè nặng lên và xiết chặt những người như Đoàn Văn Sáng còn hơn cả Ngũ Hành Sơn đè lên Tôn Ngộ Không.

Đoàn Văn Sáng đã nội hóa hoàn hảo chuẩn mực bề mặt, đến mức trở thành hình mẫu xã hội. Nhưng chính sự nội hóa ấy lại đẩy phần còn lại của con người ông vào những vùng tối sâu thẳm đặc quánh sau tấm vail mong manh nhưng tàn nhẫn. Chỉ trong những group chat kín, hiện ra dưới nick ảo, nơi discourse chính thống không còn hiệu lực, ông được là chính mình. Ở đó, dục vọng không còn bị kìm nén mà được tung hoành, được phóng chiếu, nơi Đoàn Văn Sáng có thể trải nghiệm những khoái cảm nguyên thủy nhất – có thể truy nguyên về những lớp vô thức sâu thẳm mà Freud gọi là id: bản năng ăn thịt đồng loại, sự thống trị tuyệt đối, không còn ranh giới giữa ta và người, giữa thiện và ác, mọi chuẩn mực xã hội bị xé tan.

Khi tấm veil của double consciousness gặp vùng tối do discourse quyền lực tạo ra, và khi thoughtlessness của Arendt ngăn cản mọi tự vấn đạo đức, thì dục vọng hồng hoang từ đáy sâu thẳm nhất của giống loài, thậm chí từ trước khi chập chững trở thành con người, trước khi mọi đạo đức hay chuẩn mực xã hội từng tồn tại, được giải thoát như hung thần khổng lồ thoát ra từ cái chai bị nút kín ngàn năm nằm dưới đáy đại dương. Mọi thứ đều có thể xảy ra mà không có bất kỳ một giới hạn nào liên quan đến cái gì thuộc về con người. Quỷ dữ của quỹ dữ hiện hình trong bộ dạng thật bình dị, một con người như bao người khác. Cái ác tột cùng lại bộc lộ trong tất cả sự bình thường dưới hình hài một con người đầy chuẩn mực. Đó chính là sự tầm thường, vô cùng tầm thường của cái ác, dù đó là cái ác tột cùng.

Vụ án này, vì thế, không phải là câu chuyện về một con quái vật lạc loài, một con quỷ đội lốt người. Nó là câu chuyện về chính chúng ta – về khả năng kinh hoàng của cái ác ngủ yên trong sâu thẳm đen tối nơi mỗi con người, từ trong tiếng vọng xa xăm nhất trước khi giống loài mang tên người xuất hiện. Chỉ cần điều kiện xã hội và nội tâm thích hợp là nó có thể thức giấc. Như vị thần trong cái chai bị nút kín mà bao nhiều thế hệ đã cố gắng chôn vùi.

Arendt từng viết về Adolf Eichmann, mà bà gọi là sự tầm thường của cái ác, bằng giọng trầm tĩnh, can đảm và nhân văn sâu sắc, gửi ra từ phòng án xử tội chống lại loài người ở Israel, giữa làn sóng gào thét đòi trả thù của người Do Thái trên khắp thế giới. Thông điệp của bà là: điều đáng sợ nhất không phải nhân loại đã sinh ra những kẻ như Eichmann, mà vì sao Eichmann lại giống mỗi chúng ta đến thế.

Hôm nay, tại Việt Nam, công dân Đoàn Văn Sáng, trong chuỗi hành động tột cùng vô nhân tính, chính là sự nhắc lại đau đớn bi thảm nhất lời cảnh báo của Hannah Adrent hơn nửa thế kỷ trước. Một người đàn ông tầm thường, hình hài bình dị, bị phân đôi bởi tấm veil của kỳ thị tinh tế nhưng quyết liệt, bị đẩy lui về tới vùng đen tối nhất trước cả khi linh hồn con người xuất hiện, dưới mạng lưới discourse quyền lực mang tính cấu trúc bủa vây tầng tầng lớp lớp của xã hội, và cuối cùng đánh mất hoàn toàn khả năng suy nghĩ và tính chất xã hội của giống loài – đã bước qua lằn ranh mà bất cứ ai trong chúng ta, trong những hoàn cảnh tương tự, cũng có nguy cơ bước qua.

Chỉ có tư duy phản tỉnh không ngừng, chỉ có sự dũng cảm xé bỏ tấm veil và thay đổi những diễn ngôn tinh vi đã biến thành ý thức tập thể, mới giúp chúng ta tránh được việc một ngày nào đó lại kinh hoàng đối diện với một Đoàn Văn Sáng khác – hay khủng khiếp hơn, nhìn thấy chính mình trong clip.

- Nguyễn Đức Thành -

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2025

Nguyễn Thanh Sơn: NỖi BUỒN CHIẾN TRANH ĐẾN TỪ ĐÂU

Lê Quốc Ca: 30 NĂM TRƯỚC MÀ THANH SƠN ĐÃ VIẾT BÀI THẾ NÀY THÌ QUÁ TÀI.

Nguyễn Thanh Sơn: Vợ cho một tuần chỉ có 2 ngày cuối tuần để viết bài văn nghệ, nhưng qua nay thấy rộ lên chuyện một ông tướng về hưu đòi thu hồi giải thưởng cho Nỗi buồn chiến tranh nên phá lệ đăng bài viết về tác phẩm mình viết 30 năm trước (ba mươi năm! dã man)

Bọn mình thường đùa lão Bảo Ninh là “nhất bản vạn lợi”, viết có một cuốn tiểu thuyết mà cứ suốt ngày được lấy ra để hoặc trao thưởng hoặc lên gối. Thế không công bằng cho lão vì nhiều truyện ngắn của lão rất hay.

Thôi thì để các ông tướng hiểu thêm chiến tranh dưới góc nhìn binh nhì

NỖi BUỒN CHIẾN TRANH ĐẾN TỪ ĐÂU

(Nguyễn Thanh Sơn) 

Hình như, xin lỗi các bạn vì sự liên tưởng hơi có vẻ triết lý này, quá khứ là thứ nặng nề nhất và cũng quý giá nhất mà con người phải mang theo trong suốt cuộc đời. Người ta không thể trốn đi đâu để thoát khỏi những ám ảnh của dĩ vãng, và nếu người ta có thể vứt bỏ quá khứ dễ dàng như vứt bỏ chiếc bị đeo vai thì cuộc sống cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Con người không có quá khứ cũng chẳng có tương lai, ngay cả hiện tại cũng không có nốt, bởi vì anh ta không sống, anh ta chỉ tồn tại.

Vậy mà, chúng ta đang cố tình quên đi quá khứ. Người ta không thích nhắc tới hai từ đó nữa: chiến tranh. Đã có quá đủ chiến tranh cho người Việt Nam. Mỗi một ngày, người ta nhìn lớp trẻ và tự nhủ: con sẽ lớn và con sẽ quên! Quên đi tất cả. Quên đi để sống.

Nhưng ở một góc nào đó sâu thẳm trong tâm hồn, quá khứ vẫn thức, vẫn sống động, quẫy đạp, day dứt...

Có lẽ chính vì thế mà đối với những người như Bảo Ninh, mặc dù chiến tranh đã kết thúc được hai chục năm, thì chiến trường câm lặng trong lòng những người lính vẫn chưa được một ngày im tiếng súng, và ngày chiến thắng hãy còn xa lắm. Chiến tranh không mang khuôn mặt phụ nữ, không mang khuôn mặt trẻ em, và nói chung không có bộ mặt con người. Cho đến tận khi nào con người chưa biết sợ bộ mặt khủng khiếp của chiến tranh thì ngày chiến thắng hãy còn xa lắm.

Bao nhiêu năm qua, người ta cố tô điểm để chiến tranh có một bộ mặt dễ coi. Và tôi bỗng thấy sợ. Tôi sợ sẽ đến ngày, các thế hệ khác của Việt Nam sẽ chỉ biết đến chiến tranh với những hồi kèn chiến thắng, tiếng đại bác gầm thét, đồn thù sụp đổ, lớp lớp chiến binh ào ạt xông lên. Và "đường ra trận mùa này đẹp lắm"... Họ sẽ không bao giờ biết đến thảm họa mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu suốt ba mươi năm, họ sẽ không bao giờ còn nhớ những mất mát, đau thương mà mảnh đất này phải gánh chịu, mảnh đất mà số phận nghiệt ngã nào đã biến thành "bãi chiến trường bốn nghìn năm gươm khua, ngựa hí quân reo"? Và - như Satana đã nói - những kẻ cố tình quên đi quá khứ sẽ có nguy cơ mắc lại sai lầm của quá khứ một lần nữa.

Nỗi buồn chiến tranh, bởi vậy, là khúc bi ca tha thiết, sâu thẳm, mênh mang buồn về "một cuộc chiến tranh chưa hề được biết tới", là hồi chuông sầu thảm nhắc nhở con người. Hãy nhớ, đừng quên. Hãy "nhớ lại và suy nghĩ"! Tác phẩm là tiếng thở dài "nhớ nhung, thương tiếc, cay đắng, ngậm ngùi", gợi lại nỗi đau của tất cả những nàng vọng phu, những người lính "trấn thủ lưu đồn" miền biên viễn xa xôi, của cả lời thơ nặng trĩu nỗi buồn ngàn năm:

"Túy ngọa sa trường quân mạc vấn

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi"

(Lương châu từ - Vương Hàn)

Nỗi buồn chiến tranh không phải chỉ là một tác phẩm viết về chiến tranh. Bản thân tiểu thuyết đã là một cuộc chiến tranh, một thảm họa chiến tranh, một thế giới chiến tranh thu nhỏ nằm trong bi kịch vĩ đại của Một Con Người.

Hình như, sáng tác của Bảo Ninh có cái gì đó rất gần gũi với Vasin Bukov, Rasputin của Nga hay Oliver Stone và Bradley của Mỹ. Số phận của họ cũng rất giống nhau. Cùng là những nhà văn - trung úy trẻ măng, từ nhà trường bước thẳng vào chiến trường, và "mỗi một người bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng". Trong tác phẩm của mình, họ tái hiện lên một cuộc chiến tranh của riêng họ, nhiều khi hoàn toàn khác với cuộc chiến tranh chung, hay chính xác hơn, hoàn toàn khác với những cái mà người ta tưởng tượng về cuộc chiến tranh chung. Nhưng như Bảo Ninh đã viết: "chúng tôi có chung một nỗi buồn, nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ". Và tự thủa xa xưa, giữa những con người đó với nhau đã hình thành một quan hệ trìu mến. Họ cùng là những nô lệ của xúc cảm, cùng xao xuyến vì một ngọn lửa chung, cùng nhỏ những giọt nước mắt đàn ông mặn chát, hiếm hoi, những giọt lệ đắng cay u buồn và hân hoan khi tận mắt chứng kiến tình người bị hủy hoại và hồi sinh trong chiến tranh.

Chính vì vậy, ngay cả lời hát rùng rợn "chân trời chết chóc mở ra mênh mang, vô tận những nấm mồ bộ đội mọc lên nhấp nhô tựa sóng cồn", những thảm cảnh bên bờ sông Sa Thầy, ở Đắc Tô cũng chỉ là lớp vỏ của cuộc chiến tranh. Cuộc chiến tranh khủng khiếp thật sự là cuộc chiến tranh trong lòng mỗi một người lính ở cả hai phía chiến tuyến, cuộc chiến day dứt giữa cái Thiện và cái Ác, là sự giằng xé khôn nguôi của lương tâm khi người ta buộc phải bóp cò để tồn tại, khi trong tiếng rít của đạn tiểu liên con người phải quên đi tiếng gọi của trái tim, nếu không sẽ "điên lên hoặc chết rũ vì khiếp sợ".

"Người ta sinh ra không phải để làm lính", đó chính là điều bi thảm nhất cho những thanh niên như Kiên. Nhưng chiến tranh như một bệnh dịch khủng khiếp không thể trốn khỏi. Quay cuồng trong chiếc máy xay thịt khủng khiếp, họ đã thấy thần Mars không chỉ gieo rắc và gặt hái cái chết mà còn hủy hoại cả tâm hồn của những người đang sống. Và sau ngần ấy năm trời, đôi tay ngập trong máu đỏ, họ cay đắng hiểu rằng, họ "chả trở lại thành người được nữa đâu", rằng chiến tranh không chỉ cướp đi tình yêu, tuổi thanh xuân, mà còn dày xéo cả tâm hồn của họ.

Năm tháng chiến tranh và những trận đánh, những hi sinh mất mát đã phủ lên trái tim của Kiên và những người như anh trăm nghìn vết sẹo, nhưng vết thương của trái tim vẫn không thôi rỉ máu. Từ đâu đó sâu thẳm trong tâm hồn, lương tâm bị chôn chặt nhưng vẫn không ngừng quẫy đạp đòi ra.

Nhưng trên cái nền máu và xác chết dày đặc trong các trang sách của Nỗi buồn chiến tranh vẫn vang lên khúc ai ca ca ngợi sự bất diệt của tình người, "vĩnh viễn tình người". Tình người hiện lên trong trang sách của Bảo Ninh không chỉ là những hi sinh vĩ đại mà bình dị "chết cho đồng đội của mình sống", là những mối tình tuyệt đẹp của Kiên và Phương, của những người lính trong tiểu đội trinh sát với những cô gái giữ kho, mà trước tiên ở chính nỗi day dứt khôn nguôi của lương tâm những người lính chiến trước cảnh bắn giết triền miên trong chiến tranh, dù cho đôi khi họ phải trả giá cho những giây phút do dự đó bằng chính sinh mạng của mình. Hàng vạn, hàng triệu người đã ngã xuống cứ như chưa hề được sinh ra trên đời, cuộc sống giống như một "candle in the wind" (Elton John), mà mỗi một người trong số họ đều có thể là một nhà thơ, một nhạc sĩ, một nhà kiến trúc tài ba. Và cái tiếng gọi thảm thiết của Phán giữa màn mưa "Ngụy ơi, Ngụy ơi, mày ở đâu?" là một trong những trường đoạn hay nhất và cũng đau buồn nhất của tác phẩm. Kiên đã hiểu được rằng, "chiến tranh không thiêu được gì cả", nó có thể vò xé tâm hồn con người, nhưng không thể biến tất cả họ thành những cỗ máy bắn giết không tim.

Nhưng như vậy thì nỗi buồn chiến tranh bắt nguồn từ đâu? Mặc dù, đối với Kiên "đau buồn là một thể nguyên khối suốt cuộc đời, liền một mạch từ thời thơ ấu, qua chiến tranh đến tự bây giờ", nhưng có lẽ, nỗi buồn chiến tranh đã bắt đầu từ những linh cảm kỳ lạ của Phương. Chính cô, với sự mẫn cảm đặc biệt mà tạo hóa đã phú cho phụ nữ mới dự cảm được nỗi bất hạnh khủng khiếp lớn lao đang tới gần. Trong khi những thanh niên như Kiên hăm hở đi vào cuộc chiến, "say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên" thì bằng nỗi "tiên cảm đau xót" của mình, người phụ nữ trong cô hiểu rằng "đã mất hết", rằng "trên thế giới này, từ nay, ngọn gió phũ phàng nào sẽ thổi". Không ai hiểu được những suy nghĩ của cô, ngay cả Kiên, cũng như anh đã không hiểu được chân lý giản đơn và cổ xưa như trái đất mà người dượng đã cố truyền lại cho anh trước khi anh ra đi: "Nghĩa vụ của một con người trước Trời đất là sống chứ không phải là hi sinh nó, là nếm trải sự đời một cách ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ nó". Và cô, cũng như dượng, như cha Kiên, mãi mãi là những con người "lạc thời và lạc loài". Cô đơn vì không ai hiểu, họ lặng lẽ và đau xót nhìn những người thân yêu của mình bị cuộc chiến tranh cuốn đi. Thấy trước được số phận mà không thể thay đổi nó, đó là điều bi thảm của những tâm hồn nhạy cảm.

Chỉ có chiến tranh với những bất hạnh của nó cũng như vì được hưởng "những giọt cuối cùng sót lại của tình người" mới giúp Kiên hiểu được thực chất của những gì đang diễn ra quanh anh. Chiến tranh, dù sao đi chăng nữa, cũng là khoảng thời gian khi mọi tình cảm đều bị đẩy lên đến cực điểm. Chính vì đã quen với điều Phi lý vĩ đại, các Ác vĩ đại, cũng như cái Thiện vĩ đại trong chiến tranh, người lính không thể chịu đựng được "đời sống thường nhật tối tăm, bơ phờ, và chán ngấy" khi phải chen vai thích cánh với "đời sống thị dân không ký ức, không ước mơ" của thời hậu chiến. Trong khi đó, đêm đêm, "vô vàn những ám ảnh... hùa theo nhau thức cả dậy... các tử thần xanh tái lỗ chỗ vết đạn cúi xuống như muốn soi bóng vào giấc ngủ của anh". Cả quá khứ và tương lai chèn ép anh ở cả hai phía đến nỗi hoàn toàn không có chỗ cho hiện thực nữa. Sợ hãi trước viễn cảnh của một cuộc sống mà "niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ đều cùn mòn, nhạt nhẽo và vô ích", anh quay đầu chạy ngược trở lại với quá khứ. Và mặc dù anh tưởng mình đang trôi theo dòng thời gian, thực ra Kiên chỉ còn sống bằng hồi ức. Bởi vì tất cả đã quá muộn. Tâm hồn anh đã "mãi mãi ngưng bước lại ở những ngày tháng ấy" còn cuộc sống hiện tại chỉ còn là những mộng mị, ảo giác triền miên, cheo leo giữa hai vực thẳm không đáy của cái không tồn tại, và "niềm nuối tiếc không nguôi cứ mãi hoài thổi trong đời". Nỗi buồn của anh là nỗi buồn mênh mang trước thân phận nhỏ bé và hữu hạn của con người trước cái vô tận của thế giới, trước sự bí ẩn của cuộc sống và cái chết, nỗi buồn "tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất tri lai giả", là nỗi day dứt trước sự bất lực của con người trước sự nhận thức chân lý, và câu hỏi câm lặng không lời giải đáp: "vậy thì tại sao người ta lại đánh nhau và chiến đấu với nhau, khiến cho máu đổ và nước mắt tuôn trào, khiến cho người nào cũng cho mình là phải và kẻ khác là trái? Vậy thì đâu là chân lý và ai là người có quyền thốt ra chân lý?" (Aitmantov - Đoạn đầu đài).

Người ta bảo bản thân sự thật thường cay đắng hơn những hồi ức được viết ra, nhưng nhân vật chính của Nỗi buồn chiến tranh cứ lặp đi lặp lại một quyết tâm, một lời thề thôi thúc "Phải viết, phải viết thôi". Chìm trong "nỗi cô đơn không phải của riêng anh mà của cả đám đông", trở thành tù binh của quá khứ, Kiên chỉ tìm thấy sự giải thoát trong sáng tạo. "Viết để quên đi, viết để nhớ lại... như là tự tước vụn trái tim mình, như là tự lộn trái con người mình ra". Viết là một cách để đương đầu với cái chết, bởi vì "anh sáng tạo nghĩa là anh giết chết cái chết" (V. Hugo). Đối với anh, viết là một cứu cánh, để chứng minh sự tồn tại của mình trên đời và cũng để hồi sinh lại những con người, những xúc cảm đã chết một lần trong chiến tranh, và ngày nay lại chết một lần nữa trong thời hậu chiến.

Xuyên suốt cuộc chiến tranh, đi qua cả những ngày tháng hòa bình "tù đọng, ngột ngạt" là tình yêu kỳ diệu của Phương và Kiên, tình yêu với biết bao dự cảm đau buồn và chua chát, nhưng vẫn ngời lên thứ ánh sáng trong suốt, rực cháy cuồng nhiệt. Phương, đối với Kiên, tượng trưng cho những gì trìu mến và thân thương nhất trong cuộc đời, là người tình, là người mẹ chân chính chở che, đùm bọc mà anh không bao giờ có, là người chị, người em gái... Là tất cả thế giới kỳ diệu của phụ nữ, của tình yêu. Tất cả những Hạnh, Lan "đồi mơ", Hiền... các mối tình thoảng qua hoặc chưa bao giờ kịp tới chỉ là những biến dạng cuộc tình của anh với Phương, hay nói một cách khác, chỉ là cách anh lần tìm theo những dư âm mối tình đã mất của mình. Phương ra đi, có lẽ vì nàng hiểu rằng đó là cách tốt nhất để gìn giữ trong nhau những kỷ niệm đã qua, tạo nên trong nhau những "vùng chưa hề có", và như vậy, đối với anh, nàng vĩnh viễn là người tình lý tưởng, "vĩnh viễn ở ngoài thời gian, vĩnh viễn trong trắng" là phần vô hình của quá khứ và hi vọng cuối cùng níu kéo anh lại trên đời. Nàng sợ phần vật chất thô kệch của hiện tại sẽ dày xéo tan nát những tâm tưởng kỳ diệu của cả hai người. Phương ra đi, nhưng tình yêu thì vẫn còn đấy, như ngọn gió "mãi hoài thổi trên đời".

Nỗi buồn chiến tranh là hòa âm tuyệt diệu của những giọng nói đa thanh, nhưng trên hết, vẫn là tác phẩm bỏ ngỏ của một nhà văn vô danh. Đúng vậy, bởi Kiên của thời hậu chiến chỉ còn có cái tên, chỉ còn là "nhà văn của phường". Dường như, tất cả những gì là Kiên của ngày xưa anh đã đánh rơi trong chiến tranh. Và cũng như Proust "đi tìm thời gian đã mất", Kiên cũng đi tìm lại cuộc chiến tranh đã mất của mình. Đối với anh, "muôn thủa chỉ có một cuộc chiến tranh kia, một cuộc chiến tranh mãi mãi ám ảnh, mãi mãi đè nặng... và tất cả những gì bị chiến tranh nghiền nát thì dư âm lại bền lâu, bền lâu hơn tất cả những tàn tích chiến tranh và chinh chiến". Thực ra đó chỉ là cố gắng tuyệt vọng nhằm "vật chất hoá" cái phi vật chất là quá khứ. Anh đã vẽ nên cả một giấc mơ tràn đầy những đợt sóng của xúc cảm. Nhưng quá khứ là thứ đâu còn nằm trong quyền lực của con người, ký ức lại vốn vô hình, nên những hình bóng mờ nhạt hiện lên trên "cả một núi giấy", đối với Kiên chỉ là những phiên bản mờ nhạt, đứt đoạn của ký ức. Cuộc tìm kiếm những mảnh đời bị đánh mất của anh thất bại, cho nên cả cuốn tiểu thuyết trở thành một nỗi buồn, "một nỗi buồn nguyên khối". Tác phẩm là khối nguyên liệu quý mà bàn tay người nghệ sĩ bất lực không tạo nên được một tác phẩm như ý muốn. Kiên biết anh có thể tạo nên một tác phẩm vĩ đại từ khối nguyên liệu đó, "tác phẩm của cả đời" như chữ dùng của Olga Becgon, nhưng cũng linh cảm được sự thất bại của mình. Nỗi buồn chiến tranh, vì vậy, là một nỗi buồn day dứt, dang dở. Nhưng nó cuốn hút người đọc chính trong cái dang dở, cái chưa định hình ấy, bởi tác phẩm không chỉ bao gồm những gì mà nhà văn đã làm mà còn tiềm ẩn những gì nhà văn định làm. Nhà văn không tái tạo hiện thực, anh đã gợi được cái hồn, cái chất hư ảo kỳ bí của hiện thực, của nỗi buồn, như Rodin đã tạo nên một Bandac - thiên thạch tuyệt vời (Tượng Bandac - Lê Đạt).

Tôi nghĩ, chính nỗi buồn ấy là cội nguồn, là chiếc nôi của sự sáng tạo, nó cũng giống như thiên thần hộ mạng cho những người cầm bút. Chính nỗi buồn gìn giữ sự trong sáng và giản dị của xúc cảm, giúp con người lắng đọng những nghĩ suy để tìm ra chính bản thân con người mình. Đó chính là những khoảng lặng im cần thiết cho tâm hồn. Và như ai đó đã nói, chính bản thân nỗi buồn đó cũng có một vị ngọt ngào, một ánh sáng riêng. Bởi vậy, Kiên có lẽ "vô cùng hạnh phúc trên con đường hướng mãi về quá khứ. Không bị sự lãng quên xói mòn, tâm hồn anh mãi mãi được sống trong mùa xuân của những tình cảm mà ngày nay đã mai một hoặc biến tướng".

Và cũng không cần phải chờ đến ngòi bút của nhà văn, tác phẩm tự nó được viết ra, dòng nối dòng, nó tự chọn lấy số phận cho mình, tự định hình, thậm chí tự biến đổi cả về chất, "tạo nên trong ký ức của Kiên những vùng không gian mới, những vùng quá khứ chưa từng có". Những hồi ức của Kiên, cứ bồi lên từng lớp, từng lớp một trong tâm hồn anh, cũng như loài trai hoài thai viên ngọc, để cuối cùng tạo thành một "nỗi buồn nguyên khối". Nhà văn vô danh ra đi, thiên mệnh bí ẩn của anh đã hoàn thành, nhưng cũng như chàng Trương Chi thủa nào với "nỗi buồn mang xuống tuyền đài chưa tan", tác phẩm của anh vượt qua ngọn lửa trong lò, vì "bản thảo không bao giờ cháy" (Bulgakov), để đến với độc giả, và chúng ta bàng hoàng thấy tác phẩm hiện ra "trong một cấu trúc hoàn toàn khác", hoàn hảo chặt chẽ trong cái động lung linh, uyển chuyển, rất khó nắm bắt được của Nỗi buồn chiến tranh.

Nỗi buồn chiến tranh không phải không chịu ảnh hưởng của một số tác phẩm khác, trong đó đặc biệt là các sáng tác về chiến tranh của E. Remarque - Thời gian để sống và thời gian để yêu, Bia mộ đen và nhất là Phía tây không có gì lạ. Có đôi lúc, Bảo Ninh không tránh khỏi vay mượn ý tưởng, chẳng hạn như câu chuyện của Phán về cuộc tao ngộ bi kịch giữa hai người lính, để cuối cùng anh lính giải phóng cuống cuồng đi tìm người lính ngụy bị thương giữa màn mưa. Nhưng có lẽ ảnh hưởng của văn học "dòng ý thức"  ảnh hưởng sâu sắc nhất tới sáng tác của Bảo Ninh. Người đọc vốn quen thuộc với những tác phẩm nguyên vẹn, có đầu có cuối sẽ ngơ ngác khi lần đầu tiên lạc vào chốn "mê lộ" của Nỗi buồn chiến tranh, chới với lọt thỏm trong những khe nứt bất ngờ của mạch chuyện, của những khoảng thời gian đổi chiều liên tục, bởi vì "trang nào cũng có thể là trang đầu, trang nào cũng có thể là trang cuối". Những hình ảnh hư ảo, vô vàn những giấc mơ, ẩn ức kỳ lạ khó hiểu cứ trải dài và trở đi trở lại trong tác phẩm khiến chúng ta khó nắm bắt ngay được nội dung của nó. Nỗi buồn chiến tranh là cả một thế giới động, và câu chữ chỉ tạo nên phần vật chất làm điểm dừng cho những kênh xúc cảm, những phần phi vật chất mà tác phẩm đã gợi nên. Những âm điệu du dương của những câu văn như những lời thơ cứ đưa dần ta vào một giấc mộng buồn bã da diết, vào sâu trong tâm thức con người, vào thế giới kỳ ảo của cõi vô thức, khi trong một phần ngàn giây kết đọng cuộc sống của cả một đời người, còn trong cuộc sống của một con người lại "hàm chứa cả một thế giới, một thời đại, một lịch sử". Và đằng sau nó là bóng dáng mù mờ của cái chết, kỳ bí, tối thượng, sâu thẳm như bóng đêm, ẩn chứa vô vàn những tiền kiếp, những bí ẩn phía sau cuộc sống.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta coi Nỗi buồn chiến tranh là một trong những tác phẩm hay viết về chiến tranh, "cuốn tiểu thuyết tình yêu xót thương nhất" (Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học). Tác phẩm đã tạo nên những huyền thoại, trong khi bản thân nó cũng là một huyền thoại. Lặng lẽ, nhưng không vì thế mà kém thuyết phục, tác phẩm tự chọn cho mình một số phận, tạo thành một điểm nhìn hoàn toàn mới về một miền quá khứ chưa hề xa xôi.

Hà Nội 30.4.1995

Lý Thanh Hà: TRUNG QUỐC SỬA CẦU CHO...MỸ

TRUNG QUỐC SỬA CẦU CHO...MỸ

Trong nhiều năm, người Mỹ luôn tự hào rằng họ làm chủ mọi đỉnh cao công nghệ hạ tầng. Nhưng đến khi đụng vào thực tế sửa chữa cây cầu Alexander Hamilton ở New York, người ta nhận ra một nghịch lý: nền kinh tế số một thế giới lại không còn đủ năng lực công nghiệp cơ bản để sửa những cây cầu thép do chính họ xây dựng từ nửa thế kỷ trước. Và từ đây, vai trò của Trung Quốc bước vào — không phải bằng lời hô khẩu hiệu, mà bằng những cấu kiện thép chính xác gần như tuyệt đối, mang đến từ bờ bên kia Thái Bình Dương.

Ngay từ vòng thẩm định hồ sơ, chính quyền New York phải thừa nhận một thực tế phũ phàng: công nghiệp kết cấu thép nặng của Mỹ đã co hẹp đến mức không còn nhà máy nào đáp ứng khối lượng, tốc độ và độ chính xác theo yêu cầu dự án. Các doanh nghiệp Mỹ làm được nhưng quá chậm, quá đắt, và không bảo đảm tiến độ theo quy định liên bang.

Trong khi đó, các nhà máy Trung Quốc—vốn đã quen với những dự án cầu, cảng biển, giàn thép khổng lồ trên quy mô quốc gia—lại đưa ra đề xuất vừa nhanh vừa rẻ. Nhưng sự lựa chọn này không hề dễ dàng: nó bị phản đối bởi nghiệp đoàn, bị nghi ngờ bởi chính trị gia, và thậm chí bị soi mói về “an ninh quốc gia”. Sau hàng loạt cuộc điều trần, New York quyết định chọn hướng thực dụng: chất lượng và tiến độ đặt lên trên tất cả.

Thế nhưng, ký hợp đồng chỉ là bước mở đầu. Chặng đường thực hiện mới là thử thách thực sự.

Người Mỹ quen làm theo chuẩn AASHTO, theo các quy trình kỹ thuật cực kỳ chi tiết. Còn phía Trung Quốc vốn làm theo tiêu chuẩn quốc gia GB và theo thói quen sản xuất của từng tập đoàn lớn. Khi bắt đầu hàn những tấm thép đầu tiên, khác biệt tiêu chuẩn lập tức bộc lộ: chỗ thì dung sai không đúng cách tính của Mỹ, chỗ thì quy tắc siêu âm kiểm tra mối hàn bị hiểu khác nhau, chỗ thì vật liệu phải có chứng nhận theo chuỗi cung ứng Mỹ.

Những cuộc họp kỹ thuật kéo dài suốt ngày đêm. Sau cùng, ZPMC—nhà máy chế tạo chính—phải dành hẳn một dây chuyền độc lập, coi như “nhà máy trong nhà máy”, để sản xuất theo yêu cầu của Mỹ. Kỹ sư Mỹ ở lại Trung Quốc nhiều tháng, đi kiểm tra từng mối hàn dưới kính lúp. Tài liệu phải chỉnh sửa hàng nghìn điểm. Có lúc tưởng như tiến độ sụp đổ.

Nhưng điều đáng nói là: Trung Quốc chấp nhận chơi theo luật của Mỹ, và cuối cùng làm tốt hơn mức Mỹ kỳ vọng.

Cấu kiện được đóng gói, đánh số, bảo quản, rồi đưa lên những con tàu hàng khổng lồ vượt Thái Bình Dương. Khi cập cảng New York, cứ mỗi đêm—khi đường cao tốc I-95 giảm tải—những đoạn thép mới được đưa vào thay thế. Tất cả phải diễn ra dưới 6 giờ, không được phép sai lệch hơn vài milimét. Mọi rủi ro đều đè lên kỹ sư. Nhưng cây cầu vẫn đứng vững, vẫn thông xe, vẫn đúng tiến độ.

Đó là lúc người Mỹ phải thừa nhận: năng lực chế tạo của Trung Quốc không chỉ là “giá rẻ”, mà là “tốc độ + độ chính xác + quy mô công nghiệp” mà bản thân họ đã không còn. Đằng sau những tấm thép ấy là một nền công nghiệp với hàng ngàn nhà máy thép, hàng chục ngàn kỹ sư cơ khí, một hệ thống giáo dục kỹ thuật khổng lồ mà Mỹ đã lơ là suốt 30 năm, vì mải mê chuyển sản xuất sang nước ngoài.

Khi dự án hoàn thành, cầu Alexander Hamilton không chỉ được nâng cấp về mặt kỹ thuật, mà còn trở thành một biểu tượng của một thực tế mới: trong thế kỷ 21, Mỹ vẫn có thể là nước dẫn đầu về công nghệ, nhưng lại phải trông cậy vào năng lực công nghiệp nặng của Trung Quốc. Một ví dụ sống động cho bài toán toàn cầu hóa: nước mạnh về ý tưởng thường phải hợp tác với nước mạnh về sản xuất.

Dễ hiểu vì sao dự án này gây tranh cãi. Bên ủng hộ coi đây là minh chứng cho hiệu quả của hợp tác quốc tế. Bên phản đối coi nó là dấu hiệu Mỹ đánh mất vị thế công nghiệp. Nhưng từ góc nhìn kỹ thuật thuần túy, kết luận lại rất đơn giản: khi deadlines dí sát gáy, khi tiêu chuẩn phải tuyệt đối, khi tài chính không cho phép phung phí, thì chỉ còn năng lực thật mới quyết định ai được chọn.

Và trong câu chuyện cầu Alexander Hamilton, năng lực thật lúc đó lại nằm ở Trung Quốc.

Dự án kết thúc trong im lặng, nhưng nó để lại một lời nhắc quan trọng: quốc gia nào giữ được nền công nghiệp chế tạo mạnh thì quốc gia đó có tiếng nói lớn trong trật tự kinh tế toàn cầu. Khi cần sửa một cây cầu, bạn sẽ tìm đến nơi nào có thể làm được việc. Không phải nơi nói hay, cũng không phải nơi giàu nhất, mà là nơi thực sự có năng lực công nghiệp.

Ở thời đại mà mọi thứ từ chip 3 nm đến cầu thép 3000 tấn đều là nguồn lực chiến lược, bài học từ cây cầu Alexander Hamilton chính là: sức mạnh quốc gia bắt đầu từ nhà máy, chứ không phải từ khẩu hiệu.

TB: Vụ Cát Linh- Hà Đông - Đội vốn hay không là do năng lực quản lý chứ không phải do nhà thầu Trung Quốc: Năng lực quản lý kém, không có quy trình nghiệm thu chặt chẽ, không dám ký, để dự án Trung Quốc kéo dài, đội vốn vì không nghiệm thu.

KS. Lê Quốc Ca: TẦM QUAN TRỌNG CỦA THÉP CHẾ TẠO, THÉP DỤNG CỤ VÀ THÉP ĐẶC BIỆT TRONG NGÀNH CƠ KHÍ CHẾ TẠO MÁY

TẦM QUAN TRỌNG CỦA THÉP CHẾ TẠO, THÉP DỤNG CỤ VÀ THÉP ĐẶC BIỆT TRONG NGÀNH CƠ KHÍ CHẾ TẠO MÁY

Kỹ sư Lê Quốc Ca

1. Giới thiệu chung

Ngành cơ khí chế tạo máy là nền tảng của mọi nền công nghiệp hiện đại. Từ sản xuất linh kiện, máy móc đến ô tô, hàng không – tất cả phụ thuộc vào vật liệu, trong đó thép giữ vai trò chủ đạo. Thép quyết định độ bền, tuổi thọ và hiệu suất làm việc của thiết bị.

2. Thép chế tạo – nền tảng của kết cấu cơ khí

Thép chế tạo dùng để sản xuất các chi tiết như trục, bánh răng, vỏ máy… với ưu điểm độ bền cao, dẻo tốt và khả năng gia công thuận lợi. Các mác C45, 40Cr, 35CrMo… được sử dụng phổ biến. Thép chế tạo là bộ khung nâng đỡ toàn bộ kết cấu của máy móc.

3. Thép dụng cụ – linh hồn của công nghệ gia công

Thép dụng cụ dùng chế tạo dao cắt, khuôn dập, mũi khoan… với yêu cầu độ cứng rất cao, chịu mài mòn và chịu nhiệt tốt. Các nhóm thép như SKD, SKH, HSS giúp đảm bảo độ chính xác gia công và tuổi thọ khuôn, quyết định năng suất của toàn bộ ngành cơ khí.

4. Thép đặc biệt – nền tảng cho công nghiệp công nghệ cao

Thép đặc biệt bao gồm thép không gỉ, thép chịu nhiệt, thép chống mài mòn… ứng dụng trong hàng không, năng lượng, công nghiệp nặng. Đây là nhóm thép giúp máy móc vận hành ổn định trong các điều kiện khắc nghiệt và mở ra khả năng công nghệ cao.

5. Mối quan hệ giữa ba nhóm thép

Thép chế tạo tạo ra bộ khung máy móc, thép dụng cụ tạo ra các công cụ sản xuất máy móc, thép đặc biệt nâng cao hiệu suất và sự bền bỉ của thiết bị. Ba nhóm thép tạo thành chuỗi giá trị không thể tách rời của cơ khí hiện đại.

6. Thực trạng ngành luyện kim hiện nay

- Công nghệ luyện thép còn chậm đổi mới, chủ yếu dựa vào lò điện hồ quang và phế liệu nhập khẩu.

- Sản xuất thép chất lượng cao còn hạn chế, chưa tự chủ được thép dụng cụ, thép hợp kim, thép đặc biệt.

- Phụ thuộc lớn vào thép nhập khẩu làm tăng chi phí và giảm năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí.

- Thiếu nhân lực chất lượng cao và hoạt động R&D trong luyện kim – vật liệu.

7. Việc đào tạo kỹ sư luyện kim và công nhân ngành luyện hiện nay gần bằng 0

Hiện nay tại Việt Nam, hệ thống đào tạo cho ngành luyện kim đang ở mức báo động:

- Số lượng trường đại học còn đào tạo ngành luyện kim giảm mạnh, thậm chí nhiều trường đã đóng mã ngành.

- Số lượng sinh viên theo học gần như bằng 0 do ngành thiếu sức hút, ít truyền thông và nhu cầu thị trường chưa được hiểu đúng.

- Chương trình đào tạo lạc hậu so với thế giới, thiếu phòng thí nghiệm hiện đại, thiếu thiết bị mô phỏng và thí nghiệm luyện kim.

- Doanh nghiệp luyện kim thiếu trầm trọng kỹ sư vận hành, kỹ sư vật liệu, kỹ sư nhiệt luyện và công nhân kỹ thuật có tay nghề.

- Tình trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao khiến ngành thép Việt Nam khó có thể tiếp cận công nghệ tinh luyện cao cấp như LF, VOD, ESR, VAR… cũng như khó phát triển thép đặc biệt và thép dụng cụ.

Nếu không nhanh chóng tái khởi động hệ thống đào tạo, Việt Nam sẽ không thể phát triển ngành thép chất lượng cao – điều kiện tiên quyết để công nghiệp hóa đất nước.

8. Giải pháp phát triển ngành thép để công nghiệp hóa đất nước

- Đầu tư mạnh vào công nghệ luyện kim hiện đại, tinh luyện cao cấp như LF, VOD, ESR.

- Xây dựng hệ sinh thái liên kết thép – cơ khí – chế tạo.

- Tập trung phát triển thép dụng cụ và thép đặc biệt để chủ động công nghệ chế tạo.

- Thành lập trung tâm R&D quốc gia về luyện kim và hợp kim.

- Đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho ngành vật liệu.

- Thu hút đầu tư từ các tập đoàn luyện kim hàng đầu thế giới.

- Xác định thép là ngành công nghiệp chiến lược quốc gia.

9. Kết luận lại là:

Thép là nền tảng của mọi ngành công nghiệp. Một quốc gia muốn công nghiệp hóa thành công phải làm chủ thép – đặc biệt là thép kỹ thuật cao. Phát triển ngành luyện kim sẽ mở đường cho sự bứt phá trong cơ khí, năng lượng, ô tô, hàng không và các ngành công nghiệp chủ lực khác.

FBK. Gà Già: Vì sao Campuchia phải xây “trạm trung chuyển” gần biên giới với Việt Nam?

 *Phân tích & bình luận:

Vì sao Campuchia phải xây “trạm trung chuyển” gần biên giới với Việt Nam?

“Cảng cạn” là cụm từ mà truyền thông Campuchia luôn nhắc tới gần đây, thực chất công năng của nó chính là một trạm trung chuyển, giúp hàng hoá của Cam được kiểm hoá & đóng vào Contener để vận chuyển đến cảng Thị vải-Cái mép của Việt Nam.

Theo Khmer Times ngày 26/11 đưa tin, thông cáo gần đây của Hội đồng Phát triển Campuchia (CDC), SSR Co Ltd một công ty tư nhân của địa phương đã đề xuất dự án phát triển “cảng cạn” trị giá hơn 20 triệu USD tại tỉnh Prey Veng, đánh dấu dự án đầu tiên thuộc loại hình này trong khu vực.

Cảng cạn được đề xuất dự kiến sẽ được xây dựng trên khu đất rộng 10 ha tại xã Krabao, huyện Kamchay Mear, tỉnh Prey Veng, sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động vận tải hàng hóa xuyên biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, đặc biệt là qua cặp Cửa khẩu Quốc tế Meun Chey-Tân Nam.

Theo đề xuất, cảng cạn sẽ hoạt động như một trung tâm dịch vụ hậu cần trong đất liền của Campuchia, kết nối với cảng biển của VN bằng đường bộ hoặc đường sắt, đóng vai trò là trung tâm xử lý container, lưu kho và thông quan. Bằng cách chuyển các dịch vụ vào sâu trong đất liền, cơ sở hạ tầng này giúp giảm bớt tình trạng tắc nghẽn tại các cảng biển và giảm chi phí vận chuyển.

Trong chuyến khảo sát địa điểm dự kiến, Chea Vuthy, Tổng Thư ký Ủy ban Đầu tư Campuchia (CIB) thuộc Hội đồng Phát triển Campuchia (CDC) đã dẫn đầu một ủy ban liên bộ đánh giá kế hoạch phát triển cảng cạn.

Ông Vuthy nhấn mạnh rằng dự án sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ vận chuyển hàng hóa xuyên biên giới trong tương lai thông qua Cửa khẩu Quốc tế Meun Chey và dự kiến sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm đáng kể cho cộng đồng địa phương.

Theo thông tin chi tiết do CDC công bố, dự án sẽ bao gồm cơ sở hạ tầng thiết yếu như tòa nhà văn phòng và thương mại, cơ sở giao dịch, khu vực lưu trữ container và kho bãi. Sáng kiến này được xác định nhằm tăng cường năng lực hậu cần và củng cố kết nối thương mại của Campuchia với Việt Nam.

Trong khuôn khổ chuyến thăm, Tổng Thư ký CIB Vuthy cũng đã đi thị sát Cửa khẩu Meun Chey gần đây đã được nâng cấp lên thành cửa khẩu quốc tế để đánh giá mức độ phát triển của khu vực xung quanh. Cửa khẩu này kết nối với Cửa khẩu Quốc tế Tân Nam tại tỉnh Tây Ninh của Việt Nam, được thiết kế nhằm nâng cao hiệu quả vận tải, thúc đẩy thương mại song phương.

Ông Vuthy tái khẳng định cam kết của CDC trong việc hợp tác với các bên liên quan, bao gồm chính quyền tỉnh Prey Veng, để quảng bá tiềm năng đầu tư của tỉnh này với các nhà đầu tư Campuchia và quốc tế.

Có một chi tiết khá thú vị mà có rất ít báo ở Campuchia “dám đăng”, đó là kinh phí dành cho dự án này hoàn toàn là vốn của các nhà kinh doanh…Tư Nhân!

Chi tiết tưởng như rất bình thường này đã khiến cho các nhà quan sát quốc tế chú ý.

Vì trước đó không lâu, cả nước Campuchia cứ như thể đang “lên đồng” tập thể, khi dự án kênh đào Phunam-Techo được khởi công rầm rộ với câu Slogan “Từ nay Campuchia tự đi bằng đôi chân của mình” hoặc “Từ nay hết phụ thuộc vào cảng biển nước khác” (ám chỉ VN & Thailand) 

Trước đó, các nhà quan sát, các chuyên gia kinh tế & cảng biển đã từng đưa ra cảnh báo về tính khả dụng của dự án kênh đào này. 

Thứ nhất, với chiều rộng cũng như độ sâu của kênh chỉ trên-dưới 80 & 5,4 m thì tầu lớn không thể ra vào. Cho nên thực chất tuyến đường nội thuỷ này chỉ như một tuyến đường trung chuyển dài những 180 Km, khi ra đến Cảng Sihanoukville có độ sâu tại bến chính chỉ khoảng 13,5 mét. Đây là cảng biển nước sâu duy nhất của Campuchia lại phải bốc dỡ để đưa lên các tầu chưa phải là lớn đúng tiêu chuẩn “tầu mẹ” ở đây do độ sâu không đảm bảo. Thứ ba là, tầu hàng của Cam phải đi vòng xuống phía nam đảo Phú Quốc của Việt Nam rồi mới vào được biển Đông trước khi đến TQ, Hàn, Nhật hay Châu Âu (phía Bắc đảo Phú Quốc khi Việt Nam hoàn thành cây cầu nối từ Tiên Hải (thuộc cụm đảo “Hải tặc”) đến Phú Quốc thì tầu hàng của Cam không thể đi qua do vướng tĩnh không của cầu (VN chẳng có lý do gì để phải nâng cao tĩnh không do tầu hàng của họ không hề đi qua tuyến đường này) vì thế việc buộc phải “mua đường” khiến cho các thương nhân Campuchia phải tính toán lại vì với quãng đường xa cỡ gần gấp đôi so với “đi nhờ” cảng biển của Việt Nam kéo theo đủ thứ chi phí & thời gian tăng thêm. Vì thế, các nhà kinh doanh tư nhân đã phải “tự cứu lấy mình” mà không chờ chính phủ, và dự án “cảng cạn” ra đời…

Khi một phóng viên Reuters hỏi “có phải các ông làm cảng cạn này là để sử dụng trong thời gian chờ kênh đào Phunam-Techo hoàn thành?” Thì một vị quan chức Campuchia không tiết lộ danh tính, nhún vai nói một câu đầy ẩn ý: “Không ai bỏ ra hơn 20 triệu đô la mà chỉ để đợi chờ”

(Tổng hợp)

————————-

*Lời bàn:

Người Cam nhiều lần “chưa đỏ đã ngỡ là chín”. Trước đây đi nhờ cảng biển của Thái & Việt, với Thái thì “thấy ghét” là họ đóng cửa biên giới là hết đường. Trước, sau chỉ còn lại mỗi Việt Nam! Đúng là “chạy Trời không khỏi nắng” các Cụ nhà ta đã dạy thì cấm có sai!