Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Mẹo Dân Gian lưu truyền

 Mẹo Dân Gian lưu truyền 

Lưu lại khi cần 👇👇👇

1. Cách cai rượu:

Lấy 2 lạng hạnh nhân sống cùng một ít bột ngọt pha thành nước, sau đó ngâm hai ngày rồi nhỏ hai giọt vào rượu, cùng uống một ít, có thể cai rượu.

2. Cách cai thuốc lá:

Lấy một quả tân lang ( quả cau) ( k cần trầu không) 

khoan một lỗ nhỏ, đổ một ít dầu thay thuốc lá vào lỗ đó, ngâm nước hai ngày rồi lấy ra để khô, khi muốn hút thuốc, chỉ cần ngửi một cái là không còn muốn hút nữa, ai ngửi cũng có thể cai thuốc lá.

3. Cách giải rượu:

Dấm, đường trắng, nước trà mỗi loại 100g, sau khi uống say, lập tức uống vào, có thể nhanh chóng tỉnh rượu, uống càng nhiều tỉnh càng nhanh.

4. Làm trắng răng:

Khi đánh răng, thêm một chút baking soda lên kem đánh răng, đánh ba lần răng sẽ trắng như ngọc, mảng bám tự nhiên rơi ra.

5. Cách khử hôi miệng:

Mỗi ngày nhai vài lá trà trong miệng ba lần, có thể giữ hơi thở thơm mát, ba ngày sau khử được hôi miệng.

6. Khản giọng phải làm sao:

Lấy 50g giấm tinh, 50g đường trắng, hòa với 250g nước nguội, khuấy đều rồi uống chậm rãi, một ngày là khỏi, bệnh nặng thì tối uống thêm hai lần.

7. Táo bón:

Lấy một đoạn hành to bằng ngón út, chấm ít dầu mè, rồi đưa vào hậu môn, kéo lên kéo xuống; nếu bị táo bón lâu năm thì dùng giấm tinh.

8. Bệnh vẩy nến:

Lấy nửa cân giấm gạo ngâm 1 lạng hạt thông đã bóc vỏ, ngâm hai ngày, mỗi ngày bôi ba lần, hiệu quả càng tốt hơn. Hoặc dùng một thìa bột vỏ quýt hòa với nửa thìa dầu mè rồi bôi.

9. Đau răng tuyệt chiêu:

Lấy nhân đào đốt nóng rồi cắn vào răng đau, làm vài lần sẽ không đau răng nữa.

10. Chảy máu cam:

Khi chảy máu cam nhiều, để bệnh nhân nằm ngửa, tay đối diện với bên mũi chảy máu giơ cao, huyệt vị sẽ tự động khép lại, máu lập tức ngừng.

11. Mắc xương cá:

Dùng giấm cũ súc họng, sau đó nuốt chậm, làm vài lần là khỏi.

12. Hôi chân, nấm chân:

Lấy một cân giấm gạo, đổ vào chậu, ngâm hoặc rửa chân, mỗi ngày hai lần, mỗi lần khoảng một giờ, có thể tiêu viêm sát khuẩn, chữa nấm chân, đơn giản và nhanh, nhẹ thì bốn ngày khỏi hẳn.

13. Điếc, ù tai sau bệnh:

Lấy nước tiểu mèo có mùi tỏi, nhỏ vào tai ba lần, mỗi lần hai giọt có thể chữa khỏi điếc sau bệnh. Ù tai có thể dùng da rắn nung thành tro, thổi vào tai, thổi ba lần là khỏi.

14. Kiểm soát tiểu đường phương pháp mới:

Lấy một cân hạt ngô tươi, thêm nước thích hợp, đun đến khi ngô nở bung, chia làm bốn lần, mỗi ngày uống một bát, phương thuốc này không chữa khỏi hẳn, chỉ kiểm soát bệnh, có thể hạ đường huyết. Người bị phù, tiểu nhiều dùng hiệu quả rất tốt.

15. Ngủ ngáy, nghiến răng:

Trước khi ngủ ngậm một miếng vỏ quýt trong miệng, ngậm 15 phút rồi nhổ ra, làm 3–5 lần sẽ khỏi ngáy và nghiến răng.

16. Hôi chân, ra mồ hôi chân:

Tán phèn chua thành bột mịn, xoa lòng bàn chân 10 phút, làm 3–4 lần, sau đó chân không còn ra mồ hôi, không hôi. Hiệu quả duy trì 7–8 tháng.

17. Động kinh (Dương cước phong):

Lấy một con giun đất, nửa lạng phèn chua, cho vào bát to, dùng nước sôi pha loãng, uống một bát mỗi sáng lúc đói, uống liên tục 10 ngày.

18. Viêm miệng:

Mỗi ngày sáng tối ăn một quả lê, nuốt chậm, giữ 3–4 ngày sẽ cải thiện ngay. Trường hợp nặng cũng có thể dùng cách này.

19. Bệnh mạch vành:

Lấy 50g đậu tương, luộc chín, thêm ít muối ăn nhiều, ăn liên tục 3–4 ngày, phương này giúp kiểm soát bệnh mạch vành không tiến triển, rất hiệu quả, khi phát bệnh cũng dùng phương này.

20. Chữa đau nửa đầu:

Dùng vỏ củ cải trắng dán lên hai bên huyệt Thái Dương mỗi tối 20 phút, hiệu quả nhanh, hết đau đầu thì không cần dán nữa, phương này chủ trị chóng mặt, đầu căng tức.

21. Chữa bệnh trĩ (phương thuốc dân gian):

Lấy 3 lạng urê, cho vào chậu, dùng nước sôi hòa tan, nhúng khăn vào cho ướt rồi vắt khô, đặt lên ghế ngồi xông. Mỗi lần 10 phút, mỗi ngày 3 lần, xông liên tục 7 ngày. Có thể chữa trĩ nội, trĩ ngoại, chảy máu, sa hậu môn.

22. Gọi sữa nhanh:

Vừng rang chín, thêm ít muối, tốt nhất nên ăn trước khi sinh 10 ngày, ăn kèm bữa cơm như món phụ, có thể nhanh chóng tăng sữa, ăn càng nhiều sữa về càng nhanh.

23. Chữa mất ngủ (mẹo nhỏ):

Cắt nhỏ phần trắng của hành, để vào đĩa nhỏ, đặt cạnh gối trước khi ngủ, sẽ ngủ yên giấc, liên tục vài ngày có thể khỏi hẳn. Người mất ngủ lâu năm, chỉ cần áp dụng 5 ngày là khỏi.

24. Bệnh tim:

Mỗi sáng và tối ăn 50g dứa, ăn 5–7 ngày hiệu quả tốt nhất, khoảng 2 năm không tái phát, nếu phát bệnh lại, tiếp tục ăn lần nữa. Người bệnh nặng mỗi ngày ăn 2 lần, có thể ổn định bệnh tình.

25. Suy giảm thị lực phải làm sao:

Lấy vỏ hạnh khô, xé nhỏ, làm gối nhỏ, có thể giúp sáng mắt, dưỡng thần. Có hiệu quả nhất định với giảm thị lực, chảy nước mắt khi gặp gió, cận thị, viễn thị.

26. Nứt da tay chân:

Dùng cao dán phong thấp dán lên chỗ bị nứt, sau một ngày bóc ra sẽ lành, trăm lần như một.

27. Viêm da (mẹo nhỏ):

Lá mướp rừng vò nát, chà lên vùng bị bệnh đến khi đỏ, mỗi 7 ngày chà một lần, làm 3 lần là khỏi; bệnh nặng làm 6 lần sẽ khỏi hẳn.

28. Viêm mũi:

Dùng bông gòn thấm một giọt dầu mè, đặt vào mũi 15 phút rồi lấy ra, liên tục 2–3 ngày, mỗi ngày 3 lần; bệnh nặng tăng thêm 2 lần. Cũng có thể ngâm tỏi với giấm rồi nhét vào mũi.

29. Cao huyết áp:

Lấy 2 lạng rong biển tươi, nấu thành một bát canh rong biển, không cho rau khác vào, sáng sớm uống khi đói, uống liên tục 10 ngày sẽ phục hồi huyết áp bình thường.

30. Thận hư:

Đậu khấu tươi 100g, thêm nước nấu nhừ, cho ít muối, uống trước mỗi bữa cơm, liên tục 3–5 ngày sẽ phục hồi sức khỏe. Nếu thường xuyên ăn, có tác dụng tăng cường thể lực.

31. Cách tẩy nám, đốm trên mặt:

Hạnh ngâm nước cho mềm, bóc vỏ, giã nhuyễn thành bột, thêm một lòng trắng trứng gà khuấy đều, mỗi tối bôi trước khi ngủ, sáng hôm sau rửa bằng rượu trắng, làm đến khi vết nám mờ.

32. Chữa bệnh dạ dày (dân gian):

Lấy 20 vỏ trứng gà đỏ, đặt lên ngói, hơ khô, tán bột mịn, uống với nước đường, trước bữa ăn uống một thìa nhỏ, ngày 2 lần, uống hết là được. Phương thuốc này rất quý, đồng thời có tác dụng bổ sung canxi và chữa bệnh còi xương.

33. Chấn thương bầm tím:

Hẹ giã nát, thêm một ít nước tiểu trẻ nhỏ, đắp lên chỗ bị thương, vài giờ là hết sưng, 3 ngày sau phục hồi bình thường.

34. Giảm béo nhanh:

Mua 2 lạng trà Ô Long ở cửa hàng quốc doanh, uống trong một tuần, trà Ô Long có thể nhanh chóng hòa tan mỡ, thúc đẩy chuyển hóa mỡ, đạt hiệu quả giảm cân, đồng thời phòng ngừa béo phì (trà phải đặc).

35. Bí quyết trường thọ:

Thường xuyên vận động, không nóng giận, không lo lắng, hằng năm nên ăn nhiều tỏi ngâm đường, tỏi ngâm đường là phương thuốc tốt nhất kéo dài tuổi thọ, có thể tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn có hại trong cơ thể.

36. Kinh nguyệt không đều:

Lấy 2 lạng lá Tô Tử (lá tía tô), ngâm nước nóng rồi uống, người nhẹ chỉ cần uống 4 chén là được, người nặng uống nhiều ngày, có tác dụng điều kinh, an thần, đặc biệt hiệu quả với đau bụng kinh, lạnh bụng, kinh nguyệt không đều.

37. Tóc bạc sớm:

Lấy 500g vỏ sò điệp (canh bối) sắc nước gội đầu, mỗi ngày một lần, liên tục 6–8 lần, tóc mọc lại đen và dày, nếu tóc bạc nhiều thì gội thêm vài lần.

38. Da thô ráp trở nên mịn:

Mỗi tối dùng một lòng trắng trứng gà xoa mặt, sau một giờ rửa sạch bằng nước, nếu làm thường xuyên, da sẽ ngày càng mịn.

39. Viêm quanh khớp vai, đau lưng chân, đau thần kinh tọa, thoát vị đĩa đệm:

Lấy 7 con thổ nguyên (bọ xít đất) nung thành tro, 7 lạng rượu vàng, cho chung vào chai, ngâm 7 ngày 7 đêm, mỗi tối lúc 7 giờ uống 7 tiền rượu vàng, đồng thời dùng nắm tay vỗ mạnh lên chỗ đau 7×7=49 lần hoặc 9 lần, bệnh nặng uống nhiều liệu trình sẽ khỏi.

40. Lao phổi (phương thuốc dân gian):

500g kén tằm sống, hơ khô, tán thành bột mịn, mỗi lần uống 3–5g, ngày 2 lần, uống hết là được, hiệu quả rất tốt, phương thuốc này do Viện Nghiên cứu Trung Y Trung Quốc cung cấp.

41. Chữa đau khớp (viêm khớp):

Lấy rơm lúa đốt thành tro, cho vào túi nhỏ, chỗ nào đau thì dán vào đó, mỗi tối dán 1 giờ, dán 3 lần sẽ khỏi. Phương này vừa đơn giản, vừa hiệu quả, có cải thiện rõ rệt với đau lưng, đau chân.

42. Hôi nách:

Dùng 100g giấm gạo, 5g bột hồi hương, trộn đều, bôi nhiều lần dưới nách, hôi nách sẽ biến mất ngay.

43. Ngứa phải làm sao:

Lấy một lát gừng tươi, chà vào lòng bàn chân, nam chà bên trái, nữ chà bên phải, mỗi lần chà 10 phút.

44. Tăng sinh xương (gai xương):

Lấy 4 ống xương ống cừu, đốt bằng củi to đến khi cháy vàng, sau đó nghiền thành bột, mỗi tối sau bữa cơm uống với 1–2 lạng rượu vàng, dùng liên tục vài lần.

45. Nuốt phải vật kim loại:

Lấy hẹ xào chín, nuốt từng miếng to, vật sẽ theo phân ra ngoài. Với mảnh kính vỡ, sau khi nuốt phải cũng có thể dùng phương này.

46. Tay chân tê dại:

Nấm mèo đen đã ngâm, nhân đào, mật ong mỗi thứ 120g, giã nhuyễn, để vào bát hấp nóng, chia ăn hết trong 4 ngày, sẽ khỏi tê dại vĩnh viễn. Phụ nữ mang thai cấm dùng.

47. Rụng tóc, gàu:

Lấy rễ cải thảo, rửa sạch, thái lát, cho vào nồi gang thêm đủ nước, đun sôi rồi thêm giấm tinh, dùng để gội đầu, liên tục 7–8 ngày, tóc sẽ mềm mượt, bóng đẹp, gàu biến mất nhanh, không rụng tóc.

48. Chữa nấm móng (móng tay/móng chân bị mốc):

Tỏi vỏ tím giã nhuyễn, thêm ít phèn chua trắng, bôi lên móng bị bệnh, không bôi quá dày, dùng nilon bọc kín móng, nilon có tác dụng che sáng tốt, chỉ cần 7–8 ngày, cảm giác căng tức là khỏi.

49. Tẩy giun đũa:

Hạt bí đỏ (bóc vỏ giữ nhân) 50–100 hạt, nghiền nát, thêm nước và đường vừa đủ, khuấy thành hồ, uống lúc đói một lần sẽ khỏi. Phương này có thể tẩy nhiều loại ký sinh trùng ở trẻ em.

50. Viêm tuyến vú:

Lấy một miếng nhỏ cây xương rồng, giã nát, thêm 3 giọt dầu mè, đắp lên chỗ bị bệnh.

51. Chữa mắt cá chân (chai chân):

Lấy một miếng băng dính, cắt lỗ nhỏ giữa, dán lên mắt cá, lỗ trùng với mắt cá, rồi rắc ít bột urê (phân hóa học) lên mắt cá, dán thêm miếng băng dính khác đè lên, 3 ngày thay một lần, thay 6 lần, mắt cá tự tiêu biến.

52. Viêm tiền liệt tuyến:

Táo khô 3 lạng, gan gà trống 3 cái, hầm nhừ, ăn cả nước lẫn cái, uống liên tục 3 lần.

53. Thấp khớp dạng thấp:

Lấy cành dâu non, bao nhiêu cũng được, thái nhỏ, trộn ít rượu, xào vàng, thêm nước sắc uống, sáng tối mỗi lần 1 chén, uống liên tục có hiệu quả.

sưu tầm : YHCT

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

Trần Nguyên Duy Thịnh: TP.HCM Thừa Nhận Công Lao Lê Văn Duyệt: Đặt Tên Đường Nhưng Gặp Chỉ Trích 'Lật Sử' – Mục Đích Đằng Sau Các Cáo Buộc Là Gì?

TP.HCM Thừa Nhận Công Lao Lê Văn Duyệt: Đặt Tên Đường Nhưng Gặp Chỉ Trích 'Lật Sử' – Mục Đích Đằng Sau Các Cáo Buộc Là Gì?

Hơn 5 năm kể từ khi TP.HCM chính thức đổi tên một đoạn đường Đinh Tiên Hoàng (từ cầu Bông đến đường Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh) thành đường Lê Văn Duyệt vào ngày 16/9/2020, quyết định này vẫn là chủ đề tranh luận sôi nổi trên mạng xã hội và các diễn đàn lịch sử. Việc thừa nhận công lao của Tả quân Lê Văn Duyệt – vị tướng có đóng góp lớn trong việc khai phá và phát triển vùng đất Nam Bộ – được xem là bước đi tích cực để tôn vinh di sản lịch sử. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ vẫn chỉ trích, cáo buộc đây là hành vi "lật sử" khi liên quan đến vua Gia Long (Nguyễn Ánh) và Lê Văn Duyệt. Vậy, các cáo buộc này nhằm mục đích gì, và những người đưa ra chúng sẽ được lợi ích gì?

Vào ngày 16/9/2020, trùng với dịp giỗ lần thứ 188 của Đức Thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt, lãnh đạo TP.HCM đã tổ chức lễ công bố đổi tên đường Đinh Tiên Hoàng (đoạn từ cầu Bông đến đường Phan Đăng Lưu, dài 947m) thành đường Lê Văn Duyệt. Quyết định này dựa trên đề xuất của UBND quận Bình Thạnh, sau khi lấy ý kiến từ nhân dân, chuyên gia, Hội Di sản, Hội Khoa học lịch sử TP.HCM, và được HĐND TP.HCM thông qua tại kỳ họp thứ 20 khóa IX ngày 11/7/2020.

Lê Văn Duyệt (1764-1832), sinh ra trong gia đình nông dân tại Tiền Giang, là vị tướng tài ba dưới thời vua Gia Long. Ông giữ chức Tổng trấn Gia Định hai lần (1812-1815 và 1820-1832), có công lớn trong việc khai hoang, lập ấp, xây dựng hệ thống kênh rạch (như kênh Vĩnh Tế), và ổn định an ninh vùng đất phương Nam, biến một vùng rừng rậm, đầm lầy thành khu vực trù phú. Dân chúng Nam Bộ kính trọng ông đến mức sau khi ông mất, họ xây lăng thờ phượng (Lăng Ông Bà Chiểu, nay là di tích quốc gia từ năm 1989). Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh Hoàng Song Hà nhấn mạnh tại lễ công bố: “Việc đặt tên đường Lê Văn Duyệt là sự đánh giá đúng công lao, tài năng của Đức Tả quân với vùng đất Sài Gòn - Gia Định cũng như trong việc mở mang bờ cõi đất nước.”

Quyết định này không chỉ tôn vinh Lê Văn Duyệt mà còn liên quan đến vua Gia Long – người mà Lê Văn Duyệt trung thành phục vụ. Gia Long (Nguyễn Ánh) là vị vua thống nhất đất nước năm 1802, mở rộng lãnh thổ Nam Kỳ, nhưng thường bị chỉ trích vì cầu viện Xiêm La (1784) và Pháp (Hiệp ước Versailles 1787, dù không thực thi đầy đủ). Việc đặt tên đường Lê Văn Duyệt được xem là bước đi của chính quyền nhằm nhìn nhận lịch sử đa chiều, tránh tư duy chính trị hóa, và thúc đẩy hòa hợp dân tộc.

Mặc dù quyết định đặt tên đường nhận được sự đồng thuận từ nhân dân quận Bình Thạnh, các tổ chức chính trị - xã hội, và chuyên gia, một bộ phận vẫn chỉ trích gay gắt. Trên các diễn đàn mạng xã hội như Facebook, TikTok, và các nhóm lịch sử, nhiều bình luận cáo buộc việc tôn vinh Lê Văn Duyệt và Gia Long là “lật sử”, vì:

- Lê Văn Duyệt bị vua Minh Mạng (con trai Gia Long) truy xét sau khi mất (1832), với cáo buộc “li khai” và phản đối chính sách tập quyền. Cuộc nổi dậy của con nuôi ông, Lê Văn Khôi (1833-1834), bị quy kết là phản loạn, dẫn đến việc triều Nguyễn quật mộ và giã xương Lê Văn Duyệt.

- Gia Long bị chỉ trích vì cầu viện ngoại bang (Xiêm La, Pháp), được xem là “cõng rắn cắn gà nhà”, mở đường cho thực dân Pháp sau này.

Các chỉ trích này thường mang tính cảm tính, như “lật sử để tôn vinh kẻ phản bội” hoặc “bôi nhọ anh hùng dân tộc Quang Trung (Nguyễn Huệ, Tây Sơn) để nâng Gia Long”. Một số bình luận thậm chí dùng ngôn từ thô tục, miệt thị vùng miền, như “bọn miền Nam phản động” hoặc “lật sử để chia rẽ dân tộc”. Những cáo buộc này không chỉ nhắm vào Lê Văn Duyệt mà còn mở rộng sang Gia Long, coi việc thừa nhận công lao của họ là cố tình “bóp méo lịch sử”.

Việc liên tục cáo buộc “lật sử” nhằm vào Gia Long và Lê Văn Duyệt không chỉ là tranh luận lịch sử mà có thể mang nhiều mục đích ẩn sau, dựa trên phân tích các diễn đàn và chuyên gia lịch sử:

- Duy trì tư duy lịch sử một chiều: Một bộ phận coi Quang Trung và Tây Sơn là biểu tượng “nông dân khởi nghĩa chống ngoại xâm”, nên việc tôn vinh Gia Long (người đánh bại Tây Sơn) và Lê Văn Duyệt (tướng của Gia Long) được xem là thách thức quan điểm chính thống. Mục đích là bảo vệ “chính nghĩa” của phe Tây Sơn, tránh nhìn nhận đa chiều về nội chiến Tây Sơn – Nguyễn (1771-1802), nơi cả hai bên đều có công và sai lầm. Theo GS. Phan Huy Lê (trong Lịch sử Việt Nam, 2011), lịch sử cần đa chiều để tránh thiên vị, nhưng cáo buộc “lật sử” nhằm giữ nguyên quan điểm cũ, ngăn chặn sự điều chỉnh trong SGK và nhận thức xã hội.

- Chính trị hóa lịch sử và gây chia rẽ vùng miền: Các cáo buộc này có thể nhằm duy trì định kiến vùng miền, như coi miền Nam (nơi Lê Văn Duyệt và Gia Long có ảnh hưởng lớn) là “phản động” hoặc “cõng rắn”. Tư duy này “vô tình tạo ra sự mặc cảm và định kiến trong tâm trí thế hệ sau”. Mục đích là củng cố sự phân cực Bắc – Nam, đặc biệt trên mạng xã hội, nơi thuật toán đẩy nội dung kích động để tăng tương tác.

- Lợi ích cá nhân hoặc nhóm: Trên các diễn đàn, những người chỉ trích thường là “chiến binh bàn phím” tìm kiếm sự chú ý. Theo BBC Tiếng Việt (2023), tranh cãi lịch sử thường bị lợi dụng để tăng lượt xem, like, hoặc bán sách, khóa học lịch sử. Một số nhóm cực đoan sử dụng cáo buộc “lật sử” để duy trì ảnh hưởng, tạo cộng đồng ủng hộ quan điểm của họ, hoặc phản đối chính sách Nhà nước (như đặt tên đường cân bằng lịch sử).

- Ảnh hưởng từ sử học chính thống cũ: Một số chỉ trích xuất phát từ sử học trước 1990, coi nhà Nguyễn là “phản động” vì hợp tác với Pháp. Tuy nhiên, hội thảo sử học 2022 đã điều chỉnh, công nhận cân bằng hơn về triều Nguyễn. Mục đích cáo buộc “lật sử” có thể là kháng cự lại sự thay đổi này, giữ nguyên quan điểm cũ.

Những người liên tục cáo buộc “lật sử” có thể được lợi ích ngắn hạn nhưng gây hại lâu dài cho dân tộc:

- Lợi ích cá nhân: Tăng tương tác trên mạng xã hội (like, share, follower), dẫn đến lợi nhuận từ quảng cáo hoặc bán sách. Ví dụ, các bài viết chỉ trích Gia Long thường nhận hàng nghìn bình luận, giúp người đăng trở thành “opinion leader”.

- Thỏa mãn cảm xúc và ý thức hệ: Họ được cảm giác “chính nghĩa”, bảo vệ “anh hùng dân tộc” như Quang Trung, và thỏa mãn sự thù hằn với “phe kia” (nhà Nguyễn). Điều này đặc biệt phổ biến trong các nhóm cực đoan, giúp họ duy trì cộng đồng.

- Lợi ích chính trị hoặc nhóm: Một số nhóm sử dụng cáo buộc này để duy trì tư duy phân cực, chống lại chính sách cân bằng lịch sử của Nhà nước, hoặc gây chia rẽ vùng miền (miền Bắc vs. miền Nam), nhằm mục đích chính trị hóa lịch sử.

Tuy nhiên, họ sẽ “mất” nhiều hơn: Các cáo buộc này củng cố định kiến vùng miền, làm sâu sắc chia rẽ dân tộc, và cản trở thế hệ trẻ học lịch sử đa chiều. Điều này có thể dẫn đến thù hằn kéo dài, làm hại “không gian tinh thần dân tộc”.

Việc TP.HCM đặt tên đường Lê Văn Duyệt năm 2020 là bước đi tích cực, tôn vinh công lao của ông và vua Gia Long trong việc mở mang bờ cõi Nam Bộ. Các cáo buộc “lật sử” có thể nhằm duy trì tư duy một chiều, chính trị hóa lịch sử, gây chia rẽ, hoặc lợi ích cá nhân, nhưng chúng mang lại lợi ích ngắn hạn và gây hại lâu dài cho đoàn kết dân tộc. Để vượt qua, cần giáo dục lịch sử đa chiều, để thế hệ trẻ hiểu rằng tất cả đều là “dòng máu Lạc Hồng”, không phân biệt vùng miền hay phe phái.

- Trần Nguyên Duy Thịnh -

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

Nguyễn Minh Chí: THANH BANG VÀ CUỘC CHIẾN GIÀNH CHỢ LỚN…

THANH BANG VÀ CUỘC CHIẾN GIÀNH CHỢ LỚN…

Trung Hoa từ thời nhà Hán đến tận giờ, lịch sử phát triển gắn liền với Bang Hội. Hơn 30 triệu Hoa Kiều đang sinh sống khắp nơi trên thế giới cũng làm công việc xuất khẩu bang hội, theo cách nói nôm na: “Nơi nào có khói, nơi đó có người…Tàu!”. Bang Hội, đặc biệt là các tổ chức tương tế, đồng hương rất hay và có lợi cho việc kiểm soát người Hoa mà nước sở tại khó bề thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tồn tại và phát triển song song một hệ thống bang hội đen, hoạt động ngầm và không từ bất kỳ thủ đoạn phi pháp nào, miễn là có tiền. Mạnh nhất tuy ít nguy hiểm, đó chính là Thanh Bang.

Có mặt từ việc bảo tiêu cho mạng lưới giao thông đường thủy trên Đại Vận Hà cách đây nhiều thế kỷ, tổ chức này dần dà kiểm soát toàn bộ hoạt động mại dâm, cờ bạc, tống tiền…toàn cõi Trung Hoa. Khi cuộc chiến giữa Tưởng-Mao đến hồi quyết liệt, Đỗ nguyệt Sênh (Thăng), một trùm thủ lĩnh Thanh Bang đã giúp Quốc dân đảng tàn sát công nhân, đảng viên ĐCS Trung Quốc, chiếm Thượng Hải. Tưởng thất trận bỏ chạy ra Đài Loan, Thanh Bang cũng tứ tán ra khắp vùng Đông Nam Á tránh sự trả thù của chính quyền mới.

Ở Việt Nam, một cao thủ quyền thuật: Triệu Thúc Khê, đã rời bỏ Giang Nam tìm đến đặt nền móng cho hoạt động của Thanh Bang tại Chợ Lớn, cũng với danh nghĩa của một hội quán võ thuật. Từ ông ta, hoạt động Thanh Bang chợt rẽ sang một bước ngoặc. Thay vì cố gắng mở rộng hoạt động phi pháp bằng những cuộc xung đột giang hồ, vị thủ lĩnh này đã cho phép Thanh Bang làm thuê cho hàng loạt bang hội khác, tất nhiên mang danh nghĩa của chinh bang hội đó. Ví dụ bang Tam Hợp (Tam Hoàng) đứng đầu là Trần Th. (Trần Thành) cần lấn chiếm công việc mua bán nông sản, Thanh Bang sẽ cử một thành viên đưa tới vài chục “hảo hán” khác để Trần Th. sai phái, Đó là lý do, nhiều hệ thống bang hội hoạt động ngầm, kể cả đặc vụ Quốc dân đảng, đều có chung bấy nhiêu gương mặt nổi cộm xuất hiện.

Sự dịch chuyển trung tâm kinh tế mang đến sự thay đổi về trung tâm quyền lực các bang hội, đặc biệt là từ Thanh Bang. Khi Tưởng chạy ra Đài Loan, các bang hội chọn Hongkong làm nơi phát triển. Nhưng khi Singapore trở thành trung tâm thương mại của các nước lân cận, các bang hội xem nơi này là thủ phủ. Và cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 nổ ra với việc Mỹ ào ạt đổ quân, đã biến Chợ Lớn thành trung tâm quyền lực của các bang hội. Với nửa triệu quân Mỹ và các nước Đồng Minh, chiến phí nhiều tỷ dollars và hàng hóa viện trợ đổ vào miền Nam Việt Nam, biến Sài Gòn-Chợ Lớn thành một “mảnh đất vàng”. Gương mặt hảo hán đầu tiên của Thanh Bang đủ tên tuổi và bản lĩnh để thâu tóm giang hồ Thanh Bang vào một mối đã xuất hiện.

Su Bả Xứng (Su Bả: Cây Chổi, Xứng: Ngôi Sao)họ tên thật là gì, không giang hồ nào biết và muốn biết. Xuất thân chỉ là một nguời làm thuê dân tộc Choang ở Quảng Tây, Su Bả Xứng đến Việt Nam năm 12 tuổi. Thích đánh nhau và cư xử đâu vào đó khi còn rất nhỏ tuổi, Su Bả Xứng dần dà trở thành đại ca của hẻm 100 (Zách Bạc Hồ Hạng) khu Chợ Thiếc. Một hôm vô tình chứng kiến một ông già bán mì gõ bị chó rượt cắn, ông già thọc tay vào… tường, lôi ra viên gạch thẻ để ném con vật, Su Bả Xứng quá phục bèn xin học võ. Chỉ sau 2 năm, võ công đã tàm tạm, Su Bả Xứng từ giã thầy quay lại chốn giang hồ gió tanh mưa máu. Võ công cộng thêm sự lì lợm cố hữu, Su Bả Xứng nhanh chóng trở thành đại ca không chỉ khu vực Chợ Thiếc. Hàng loạt giang hồ có máu mặt tìm tới liên kết hoặc thách thức. Su Bả Xứng thu phục và biến chúng thành đàn em. Những Sú Hùng, Cáy Thầu, Há Thầu… đều tự nguyện trở thành cánh tay đắc lực cho Su Bả Xứng. Thanh Bang nhận ra sự lợi hại và tính tình hết mực hảo hán này của Su Bả Xứng. Một ngày nọ, vị cao thủ du nhập Thanh Bang vào Chợ Lớn gởi thư mời Su Bả Xứng đến tận hội quán (Tinh Võ Thể Tháo Học Hiệu) để trao đổi. Su Bả Xứng lập tức đến vì cho rằng đang bị thách thức dù lời lẽ trong thư hết sức nhã nhặn. Vừa bước vào hội quán, nhìn thấy người học trò trưởng tràng  tập bằng thanh long đao xắt…dưa chuột, Su Bả Xứng tắt ngay ngọn lửa kiêu ngạo. Từ sau cuộc gặp, Su Bả Xứng trở thành “thiên lôi” cho Thanh Bang. Trường Giang sóng sau đè sóng trước, việc nhất hô bá ứng của Su Bả Xứng kéo dài chưa được 6 năm. Người lật đổ Su Bả Xứng là tên học trò cưng nhất của đệ nhất sát thủ Thanh Bang Su Bả Xứng.

Tín Mã Nàm hay còn gọi là Mã Thầu Dậu tên thật là Trần Hà Tư, chỉ kém Su Bả Xứng chừng 6 tuổi. Thực ra nhiều người ngộ nhận về chữ Mã Thầu Dậu và tưởng đó là tên hoặc biệt hiệu. Mã Thầu: đầu ngựa, Dậu: bạn bè, đó là một tước hiệu được giang hồ Thượng Hải đặt cho Mã Vĩnh Trinh và sau đó là Cừu Liên Hoàn. Mỗi bến xe bến tàu đều có hình đầu ngựa nằm trong vành móng ngựa, và tước hiệu Mã Thầu Dậu như là minh chủ giới giang hồ Trung Quốc, sau thời Mã Vĩnh Trinh cũng du nhập vào miền Nam theo chân giới lục lâm hắc đạo để cuối cùng quàng luôn vào cổ Trần Hà Tư.

Khi học võ với thầy Su Bả Xứng và đươc gả con gái, gã học trò này trong độ tuổi phương cương đã quyết tâm lật đổ Su Bả Xứng.

Một cuộc quyết đấu diễn ra ngay mộ con hẻm ngắn khu thuốc bắc. Kết thúc đến thật nhanh, Su Bả Xứng bị hạ gục bởi chiêu Diêm Vương Ấn khét tiếng mà “thầy”đã hết sức cân nhắc khi truyền thụ cho “trò” kiêm “con rể”! Đoạn kết của Su Bả Xứng khá đau khổ. Ông ta không mất mạng ngay lập tức mà vài năm sau đó trong uất hận và những cơn đau ho ra máu bởi bệnh lao phổi kinh niên.

Tín Mã Nàm dựng nghiệp nhanh hơn Su Bả Xứng nhiều. Gã lao vào những cuộc huyết chiến và thu phục hàng loạt Lục Chỉ, Xám Sò, Xây Chẩy, Cắm Xuỳn…bằng bàn tay thép và cái đầu khát máu của mình. Danh xưng Tín Mã Nàm có từ lúc đó. Đại tá Woòng a Sáng và trung tá Lầu Cắm Bẩu, được người Mỹ trong MAAG (Cố Vấn Quân Viện Hoa Kỳ) tín nhiệm để tổ chức lực lượng biệt kích không số quân (dân sự chiến đấu CIDG) trong cộng đồng người thiểu số, đặc biệt là người Nùng ở khu Chợ Thiếc. Và tất nhiên, họ không thể không chú ý đến Tín Mã Nàm. Sau khi chấp nhận làm “nhân viên mộ lính” cho CIDG, Tín Mã Nàm đã có được tấm khiên đỡ đối phó với lực lược CSQG. Tín Mã Nàm đi xe Jeep, đeo khẩu ruleau xệ bên hông, ngực cài 2 quả lựu đạn mini của biệt kích, là hình ảnh bất kỳ tài chủ, doanh nghiệp nào cũng sợ “vãi linh hồn”. Ấy vậy mà cuộc đời Tín Mã Nàm cũng đã 2 lần chùn bước, ngả nón chào đối thủ.

Lần thứ nhất xảy ra khi địa bàn chợ Nancy (Nguyễn văn Cừ-Trần Hưng Đạo Quận 1, 5) với băng của Đại Cathay, trùm giang hồ Sài gòn. Hai bên tranh chấp va nhiều lần chạm trán đổ máu. Tín Mã Nàm giận sôi máu bèn mời Đại đến “hội ngộ” ở khách sạn Kim Đô. Từ chân cầu thang lên đến lầu 4, gần 200 thành viên Thanh Bang, đa số đều lấy từ các đội lân võ công kinh người mang dao kiếm dàn chào băng Đại Cathay. Trường huyết chiến chắc chắn sẽ xảy ra mà chưa biết phe nào sẽ thắng. Đúng giờ hẹn, Tín Mã Nàm bất ngờ khi nghe thuộc hạ báo Đại Cathay chỉ đến một mình! Tín Mã Nàm lập tức hạ lệnh không đươc vọng động. Mặt không hề biến sắc trước cảnh gươm đao sáng ngời mang tính thị uy, Đại chỉ cười khẩy. Tín Mã Nàm thực sự choáng trước cái gan lì khó gặp của đối thủ. Ông trùm hắc đạo bèn quyết định ngay lập tức: nhường khu vực chợ Nancy cho băng Đại Cathay! Khi Đại đã ra về, tất cả đàn em và bằng hữu chất vấn, Tín Mã Nàm chỉ trả lời ngắn gọn: “Không đùa với Đại Cathay được!”.

Lần thứ 2 Tín Mã Nàm thất thủ là với một gã giang hồ chiếu dưới cũng gốc Nùng: Hổi Phoòng Kin.

Tiệm cơm gà Siu Siu nổi tiếng là ngon, các tay hảo hán giang hồ gốc Hoa lẫn các lão bản đều tìm tới để thưởng thức đệ nhất khoái. Tín Mã Nàm một hôm ghé đến quan cùng thiếu ta Bằng, quận trưởng cảnh sát, mà giang hồ thường gọi là Cò Bằng-băng sĩ quan dưới trướng chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ.

Nghĩ mình là vua hắc đạo một cõi lại đi cùng người đại diện cao nhất của luật pháp của quận 5, Tín Mã Nàm nghênh ngang như chỗ không người. Lần lượt các bàn thực khách khách đến chào 2 ông “vua”. Ngồi bệ vệ đưa tay ra bắt từng kẻ khúm núm quỵ lụy, thậm chí có người chỉ nhận được cái gật đầu trịch thượng từ Tín Mã Nàm, bất chợt gã giang hồ số 1 Chợ Lớn nhìn thấy một thanh niên mặc quần áo Jean, bên cạnh là túi vợt tenis, ngồi ăn một mình. Người này thậm chí không thèm ngẩng lên nhìn Mã Thầu Dậu chớ nói chi tới chuyện chào hỏi. Tín Mã Nàm giận sôi lên và Cò Bằng cũng không khỏi ngạc nhiên về thanh niên điếc không sợ súng này.

Tín Mã Nàm ghé tai gã đàn em hỏi nhỏ và ngạc nhiên khi nhận được cái lắc đầu không biết từ gã đàn em gần như thổ công này. Tín Mã Nàm hạ lệnh, gã đàn em lập tức tiến qua bàn người thanh niên. Gã đàn em cầm bình hắc xì dầu trên bàn chế thẳng lên đầu thanh niên. Lạ thay, người thanh niên vẫn cắm cúi ăn như chẳng có chuyện gì quan trọng. Lùa miếng cơm cuối cùng xong, thanh niên chùi miệng và vẫn để nguyên dấu vết của chai hắc xì dầu đổ lên đầu, quay qua nói nhỏ: “Mày chưa đủ tuổi nói chuyện, chết uổng mạng…Qua nói thằng đánh thầy, giết cha…lại nói chuyện với tao!” Gã đàn em khựng người. Vậy là người này đã biết đang giỡn mặt Tín Mã Nàm, không đơn giản. Quán im phăng phắc chờ xem kết quả cuộc chiến nên giọng thanh niên nói tuy nhỏ nhưng nghe rõ mồn một. Giận tím mặt, Tín Mã Nàm đứng phắt dậy lao qua bàn thanh niên. Chẳng biết từ lúc nào trên tay người thanh niên đã xuất hiện cặp kiếm thép trắng… Tín Mã Nàm quay lưng bỏ chạy dù trong bụng luôn lận khẩu ruleau nhưng không tài nào dừng lại để móc ra nếu không muốn bị chém thành paté!

Người thanh niên quả là cao thủ về sử dụng kiếm nên Tín Mã Nàm dù hết sức né tránh và bỏ chạy vẫn dính luôn 4 nhát!

Sau khi ôm đầu máu về đến sào huyệt, Tín Mã Nàm dò hỏi và khi biết đối thủ là Hải Phoòng Kin, gã lập tức động binh rửa hận. nhưng khi tiến quân vào vùng Hải Phoòng Kin kiểm soát, lần nào cũng thua thiệt. Tín mã Nàm quyết định bỏ cuộc. Nỗi nhục mất số đeo đẳng theo Tín Mã Nàm cho đến ngày Hải Phoòng Kin qua đời vì bệnh trong trại cải tạo.

Thanh Bang sau ngày giải phóng gần như tan rã. Những tên lão tiền bối của bang hội này, lớp chết già trong nghèo khổ, kẻ bị thu gom cải tạo “mút mùa lệ thủy”, kẻ quay về cố hương gậm nhấm nỗi ăn năn một thời hắc đạo. Tín Mã Nàm, trở thành một tên cướp trộm vớ vẩn và đền tội nơi pháp trường sau khi quan thầy bỏ chạy, không còn xe Jeep và súng ống để ra oai. Một kết cục tất yếu của giang hồ thời nay, đã trở thành quy luật!

HẾT

Ngô Nhật Đăng: LẠI QUANG TRUNG

LẠI QUANG TRUNG

Vào khoảng năm 1963 đến 1964 đã có một cuộc tranh luận giữa 2 miền Nam, Bắc về lịch sử với hai nhân vật Quang Trung và Gia Long.

Một bên là Văn Tân, viện Sử học Hà Nội, một bên là Linh mục Nguyễn Phương phụ trách Phòng nghiên cứu Sử của Văn khoa Đại học Huế. Chủ đề : "Ai là người thống nhất Việt Nam : Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh?". Từ năm 1964 trở về trước (1954), giới học thuật và các ấn phẩm của hai miền vẫn được trao đổi qua trung gian là các trí thức Việt  ở Paris, trong đó có học giả Hoàng Xuân Hãn.

Cho đến thời kỳ này, lịch sử  Việt Nam hầu như chỉ nói về Quang Trung mà không nói về Tây Sơn vì có nhiều ý kiến cho rằng một số người đã xuyên tạc lịch sử nhằm biến Tây Sơn thành một thần tượng cho một cuộc khởi nghĩa nông dân. Cuộc tranh luận giữa hai miền Nam - Bắc đã tạo ra một cảm hứng cho các sử gia nghiên cứu về nhà Tây Sơn.

Riêng Quang Trung, người ta hầu như bỏ qua tất cả mọi vấn đề khác mà chỉ nhằm vào hai võ công hiển hách chống ngoại xâm là quân Xiêm phía Nam và đặc biệt là quân Thanh ở phía Bắc. Hầu như hào quang này của Quang Trung đã che khuất các chính sách đối nội và đối ngoại của ông, vì vậy nhà Tây Sơn cần phải được xem xét một cách đầy đủ.

Sau khi thành công, nhà Tây Sơn chia nước ra làm 3. Nguyễn Nhạc xưng Đế đóng ở Quy Nhơn chia cho 2 em Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương, quản từ Phú Xuân trở ra, Nguyễn Lữ là Đông Định Vương giữ vùng Gia Định đến Bình Thuận. Nhưng Lữ chỉ ở ngôi được 1 năm thì bị Nguyễn Ánh chiếm lại, Lữ chạy về Quy Nhơn rồi chết ở đây. Trước khi ra Bắc phá quân Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế xưng là Quang Trung, vậy là nước ta có 2 ông Hoàng đế. Và hai ông Hoàng Đế này sẽ đánh nhau chí tử.

 Một triều đại tiến bộ hay không tất nhiên là ở các chính sách cai trị và ngoại giao của nó. Những chính sách cai trị trong nước của Quang Trung như thế nào?

Về mặt hành chính :

Trong giai đoạn Nguyễn Huệ Bắc tiến lần đầu, lãnh thổ cai trị của ông là từ Nghệ An trở vào không thấy có ghi chép về mặt thay đổi hành chính. Từ sau khi đánh Tôn Sỹ Nghị ta thấy Hoàng Đế Quang Trung đã quản lý toàn bộ lãnh thổ Đại Việt của vua Lê Thánh Tông (thế kỷ 15). 

Từ năm 1786 Nguyễn Huệ đã mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp giúp, trong đó có việc sẽ đóng kinh đô ở Nghệ An “Đóng đô ở Nghệ An vừa có thể cai trị trong Nam ngoài Bắc, mặt khác ai kêu kiện đi về cũng tiện”. 

Trong các thư từ giao dịch với La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp, ta thấy Quang Trung bắt đầu dùng chữ Nôm trong các văn bản "Hán, Nôm lẫn lộn", có điều lại theo cú pháp Hán, ví dụ một đọan Nguyễn Huệ nói về việc xây dựng kinh đô ở làng Phú Thạch (Nghệ An) như sau:

“Hành cung sảo hậu gần núi. Kỳ chính địa bởi tại dân cư ư gian, hay đâu mới là cát địa khả đô, duy (chỉ có) Phu tử đạo nhẫn giám định. Tảo tảo bốc thành. Ủy cho trấn thủ Thận tạo lập cung điện. Kỳ tam nguyệt nội phải hoàn thành, đắc tiên giá ngự”- Trích: La Sơn Phu tử - Hoàng Xuân Hãn.

Quang Trung đổi Thăng Long thành Bắc Thành và có 7 trấn, Sơn Nam chia ra thành Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ, ngoài ra có các trấn Thanh Hóa ngoại, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương và Phụng Thiên. Trấn có quan trấn thủ và hiệp trấn, dưới Trấn là Huyện, bên văn là Phân tri, bên võ là Phân suất cai trị và Tả hữu quản lý, dưới Huyện là Tổng và Xã, đứng đầu là Tổng trưởng và Xã trưởng.

Chính sách quản lý :

Các xã lập sổ điền (ruộng đất) và sổ đinh (dân số). Điền 3 bậc, Đinh 3 hạng. Từ 9 - 17 tuổi gọi là “vị cập cách”, từ 18 - 55 là “tráng hạng”, từ 56 - 60 là “lão hạng”, từ 61 tuổi trở lên là “lão nhiêu”.

Thuế : ruộng công hạng nhất 1 mẫu nộp 150 thạch, hạng nhì 80 thạch, hạng ba 30 thạch, ruộng tư thuế đóng bằng khoảng 60% ruộng công. Ngoài ra một mẫu phải đóng “thập vật” 1 quan tiền và khoán thổ 50 đồng (nửa quan tiền).

Từ đây dân Bắc hà được nếm mùi “Tín bài” đã áp dụng từ trước ở Đàng Trong của nhà Tây Sơn. Đó là 1 tấm thẻ, mặt trước ghi họ tên, tuổi, quê quán, địa chỉ và dấu tay của người mang thẻ, mặt sau có 4 chữ “ Thiên hạ đại tín”. Mọi người đi đâu đều phải mang theo, ai không có sẽ bị khép vào hạng “dân lậu” bị bắt đi làm phu dịch. Ai có mà không mang theo sẽ bị phạt tiền.

Một người dân Nghệ An tên là Trần Bỉnh Phương kiên quyết không chịu đeo “tín bài” dân làng La Khê tôn ông làm quân sư và định nổi dậy, quan Thủ trấn là Nguyễn Quang Diệu cho quân đến đánh, Trần Bỉnh Phương thua chạy vào một ngôi chùa trên núi, viết một bài tứ tuyệt lên pho tượng rồi tự sát bằng cách tự mổ bụng. Bài thơ viết :

Giữ nước không kế sách

Nhưng thân đã có dao

Ngẩng đầu nhìn Hồng Lĩnh

Chín mươi chín ngọn cao.

Với sổ đinh và tín bài, Quang Trung bắt lính, cứ 3 đinh lấy một, nơi nào ít đinh thì bắt lính từ tuổi 15. Nhiều người dân phải chạy trốn vào rừng. Một Giáo sỹ ghi lại “ Việc đi lại rất khó khăn vì hễ ai không có thẻ đều bị tống vào ngục. Mỗi làng phải làm hai cái trạm để xét tín bài khách qua lại. Nhờ cách này họ có thể bắt được tất cả dân đi lính (tận suất). "

Chính sách nông nghiệp :

Ruộng đất bị bỏ hoang, dân trễ nải cầy bừa, Quang Trung xuống chiếu Khuyến nông kêu gọi dân lưu tán trở về làng cũ để làm ăn nhưng nó chỉ có giá trị về mặt tuyên truyền mà không hiệu quả thực tế, ai trở về chắc chắn sẽ bị bắt lính vì lúc đó Quang Trung đang chuẩn bị chiến tranh. Anh hùng chiến trận như ông không thích hợp cho thời bình. 

Khi cùng Ngô Thì Nhậm từ Bắc Thành về Phú Xuân, Cao Huy Diệu có làm bài thơ “Đông lạp Thăng Long thượng mã hồi”

Dịch thơ :

“Thăng Long tháng chạp ra về

Trời xuân đã đến kinh kỳ mừng Xuân

Cờ bay phấp phới hồn oan

Lúa hoa xanh tốt để quan thu vào

Sưu cao bạc thuế càng cao

Con oanh không thẻ xuyên lầu liệng quanh - (chỉ có chim là không phải đeo thẻ tín bài)

Áng xuân ghi mấy sự tình

Cửa khuyết che kín cho mình ngẩn ngơ.”

TIẾNG VỌNG TỪ NỀN VĂN MINH BỊ BỎ LẠI

TIẾNG VỌNG TỪ NỀN VĂN MINH BỊ BỎ LẠI

(của Gã Khờ)

Mới hôm nào thôi, người Trung Quốc còn đi bộ. Họ đi bộ ra khỏi cơn điên của Cách mạng Văn hóa, đi bộ qua những năm đói nghèo và kiểm duyệt, đi bộ giữa tro tàn của tri thức bị đốt cháy và tượng Khổng Tử bị chôn sâu. Rồi hôm nay - họ đáp xuống Mặt Trăng. Và ngày mai, có lẽ họ sẽ ghé vào Hỏa Tinh.

Còn chúng ta, Việt Nam anh hùng, bốn nghìn năm văn hiến, sau năm mươi năm thống nhất, ta đang ở đâu?

Có lẽ vẫn còn đang tranh cãi xem nên gọi Nguyễn Ánh là “thằng” hay “vua”. Vẫn còn bận phân biệt ai yêu nước theo đúng quy trình. Vẫn loay hoay tổ chức những cuộc thi “tự hào dân tộc” trong khi nền giáo dục dạy trẻ con sợ đặt câu hỏi, và nền truyền thông sợ nói sự thật.

Người viết bài “Nghe tiếng vọng từ nền văn minh bị chôn vùi” đã nói hộ một nỗi niềm mà ít ai dám nói thẳng: rằng văn minh không nằm trong khẩu hiệu, mà trong cách ta ứng xử với quá khứ và với sự khác biệt.

Gã đọc, rồi ngẫm, rồi tự hỏi: có phải dân tộc mình đang cố sống bằng bản sao của lòng tự hào, thay vì bằng chính lòng tự trọng?

Chúng ta vẫn hô “bốn ngàn năm văn hiến”, nhưng thử hỏi, nền văn hiến ấy đang ở đâu khi một học giả bị chụp mũ chỉ vì dám nói khác? Ở đâu khi người ta dạy học sinh học thuộc “tinh thần yêu nước”, nhưng lại không cho chúng biết yêu sự thật?

Cái bi hài là, giữa thế kỷ 21, người Việt Nam vẫn dễ nổi nóng với một bài viết nói ngược, nhưng lại bình thản trước chuyện cả một vùng biển mất dần từng hòn đảo.

Người Trung Quốc từng trả giá đắt cho cơn điên của mình - họ đã giết tri thức, đập văn hóa, xóa lịch sử. Nhưng rồi họ dám sám hối. Họ biết cúi đầu trước Beethoven, học lại Mozart, dựng lại Khổng Tử. Còn ta, ta chưa từng sám hối điều gì.

Ta vẫn nói về “đổi mới tư duy”, nhưng lại bắt mọi tư duy phải đi cùng một hướng. Ta nói về “phát triển khoa học”, nhưng còn chưa dám tin vào nhà khoa học hơn là vào nghị quyết. Ta nói “hòa hợp dân tộc”, nhưng lại không chịu hòa giải với chính lịch sử của mình.

Trung Quốc có thể đáng ghét, nhưng không thể phủ nhận rằng họ đã biết biến tri thức thành sức mạnh. Còn Việt Nam, chúng ta biến tri thức thành nghi ngờ, và nghi ngờ thành công cụ kiểm soát.

Một người bạn của gã nói: “Người Việt mình không nghèo tiền, chỉ nghèo niềm tin vào nhau.”

Gã thấy đúng. Vì một dân tộc văn minh không thể sống bằng sự sợ hãi. Không thể cứ né tránh mọi câu hỏi nhạy cảm, rồi tự ru mình bằng bài hát Tự hào Việt Nam.

Có khi, chúng ta cần ít khẩu hiệu hơn, và nhiều câu hỏi hơn.

Cần ít lời tự khen hơn, và nhiều sự sám hối hơn.

Cần ít những “lễ kỷ niệm” hơn, và nhiều buổi lắng nghe hơn - lắng nghe tiếng của chính lương tri.

Khi nhìn thấy những ngón tay người Trung Hoa chơi Chopin giữa Warsaw, gã chợt nghĩ: âm nhạc ấy đâu chỉ là giai điệu, nó là tuyên ngôn của một dân tộc biết học lại cách làm người sau cơn điên của mình.

Còn chúng ta - vẫn chưa học được điều giản dị ấy: rằng muốn bước vào thế giới, trước hết phải bước ra khỏi sự ngu dốt được tổ chức như một tín điều.

Văn minh, sau cùng, không phải là những tượng đài bằng đồng, mà là khi con người dám tôn trọng lẫn nhau bằng trí tuệ và sự thật.

Và nếu có một tiếng vọng nào còn văng vẳng từ nền văn minh bị bỏ lại, thì đó chính là lời nhắc:

“Một dân tộc không biết sám hối cho những gì đã lãng quên, sẽ mãi chỉ là người đi bộ trong giấc mơ của kẻ khác.”

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2025

Nhân Tuấn Trương: Tại sao dân Bắc kỳ có khuynh hướng không thích nhà Nguyễn ?

Tại sao dân Bắc kỳ có khuynh hướng không thích nhà Nguyễn?

Có nhiều lý do mà lý do chính có lẽ vì nhà Nguyễn dời đô từ Hà Nội về Huế. Tình thần "hoài Lê" trong tầng lớp sĩ phu Bắc kỳ rất sâu đậm. Sĩ phu Bắc hà coi việc này là một sự xúc phạm. Nhiều thập niên giặc giã liên tục nổi lên chống nhà triều đình Huế mà hầu hết là hậu duệ nhà Lê ở đất Bắc. Đặc biệt dưới thời Tự Đức. Ta có Lê Duy Minh, Lê Duy Huân, Lê Duy Ân, Lê Duy Phụng...

Dữ kiện lịch sử quan trọng, chưa bao giờ thấy các sử gia VN ghi nhận, là sự nổi dậy của Lê Duy Phụng khiến Tự Đức phải nhượng các tỉnh Nam kỳ cho Pháp năm 1862. 

Sử gia VN đổ cho Phan Thanh Giản và vua nhà Nguyễn "bán nước cho giặc". Nhưng nếu xét tường tận, VN mất đất cho Pháp, sau đó bị lệ thuộc vào Pháp, là do việc Lê Duy Phụng và hậu duệ nhà Lê "đánh Nguyễn giúp Pháp", một kiểu "nối giáo cho giặc". 

Sử gia VN cũng ít thấy ghi lại chuyện hậu duệ nhà Lê nhiều lần cầu thân với Pháp, đề nghị đứng về phía Pháp để lật đổ nhà Nguyễn. 

Tất cả những kẻ "nối giáo cho giặc" "chống Nguyễn phò Tây" triều Tự Đức đều là sĩ phu Bắc hà. 

Tháng rồi tôi có viết tút tựa đề: Người Hà nội không yêu nước nhiều lắm đâu... Thực ra phải nói là dân Bắc kỳ không yêu nước nhiều lắm đâu! Tôi nói có sách, mách có chứng...

Xét lại lịch sử, thời kỳ tiền Pháp thuộc. Hai lần Hà nội bị quân Pháp tấn công. Hai tướng giữ thành Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu lẫn lượt tự vẫn. Với quân số, lần đầu khoảng 150 người, Francis Garnier đã chiếm thành Hà nội. Lần hai Henri Rivière, phá thành Hà nội với khoảng 400 quân. Quân trong thành hai lần đều trên ngàn người. 

Ở đây tôi không phân tích nguyên nhân vì sao quân ta thua. Vấn đề tôi muốn tìm hiểu là thái độ của dân Bắc kỳ, đặc biệt dân Hà nội lúc đó ra sao?

Sự thật sẽ làm nhiều người nhảy nhổm. Dân Hà nội kéo như trẩy hội ra coi quân giặc đánh quân ta ! Dân Hà nội "hồn nhiên" đứng coi quân giặc đánh quân ta như coi diễu binh, như coi một trận đá banh...

Tại sao? 

Là vì Nguyễn Tri Phương là người gốc Huế và Hoàng Diệu gốc Quảng Nam. 

Câu hỏi khác: ai đã trả thù cho Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu ?

Xin thưa không phải dân Hà nội. Giặc Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đã giết tuần tự Francis Garnier và Henri Rivière, trả thù cho Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Lưu Vĩnh Phúc người Hoa, là tàn binh của Thái bình thiên quốc từ bên Tàu dạt qua VN. 

Bà con muốn kiểm chứng thì tìm đọc cuốn sách theo hình ở đây.


Comment của Nghĩa Bùi :

Biến cố Lê Duy Phụng 1862 xảy ra *sau khi* nhà Nguyễn nhượng ba tỉnh cho Pháp chứ không phải trước đó. Sử gia Phạm Văn Sơn có bàn về vụ này như sau:

Nhà sử học Phạm Văn Sơn (1915–1978), trong Việt sử tân biên (tập 5, Sài Gòn, 1962), là một trong những người đầu tiên ở miền Nam viết kỹ về Lê Duy Phụng và biến cố 1862 dưới góc nhìn dân tộc học và chính trị. Dưới đây là tóm lược và trích đoạn từ công trình của ông, kèm giải thích để bạn thấy rõ cách ông phân tích phong trào này trong tổng thể lịch sử Việt Nam giữa thế kỷ XIX.

🧭 I. Bối cảnh theo Phạm Văn Sơn

Trong Việt sử tân biên, chương “Tình hình Bắc Hà sau hiệp ước Nhâm Tuất”, Phạm Văn Sơn viết: "Từ khi triều đình ký hòa ước với Pháp, lòng dân tan nát, sĩ phu phẫn uất. Ở Nam Kỳ, dân không chịu để mất đất; ở Bắc Hà, người ta lại mơ đến bóng xưa nhà Lê. Từ ý tưởng ấy, phong trào phò Lê – chống Nguyễn – chống Tây nổi dậy.”

Ông nhận định: Bắc Hà (tức miền Bắc) vẫn còn nặng tình với nhà Lê, trong khi triều Nguyễn “chưa được lòng dân ngoài Bắc như ở Thuận–Quảng.” Khi Huế “nhún nhường trước Tây”, người Bắc coi đó là mất chính danh, nên việc “phò Lê” có cơ sở tâm lý, chứ không chỉ là loạn thần tặc tử.

⚔️ II. Lê Duy Phụng – con người và phong trào

Phạm Văn Sơn mô tả khá sinh động: "Lê Duy Phụng, hậu duệ nhà Lê, vốn lưu lạc ở vùng Sơn Tây – Hưng Hóa, tính cương trực, học rộng, được dân quanh vùng tin yêu. Khi nghe tin triều đình ký hòa ước, ông tự xưng là Minh Đức Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thiên Hưng, hạ chiếu cáo thiên hạ, nêu khẩu hiệu ‘Phục Lê, diệt Nguyễn, kháng Tây’. Dân gian hưởng ứng khá đông, kẻ vì lòng yêu nước, người vì oán triều đình, tất cả cùng tụ nghĩa.”

Phạm Văn Sơn nói rõ: tuy “phò Lê” là danh nghĩa, nhưng thực chất là một hình thức yêu nước sơ khai, vì chưa có khái niệm “độc lập dân tộc” kiểu hiện đại. Người dân chỉ biết dựa vào biểu tượng cũ (nhà Lê) để chống lại “triều đình đầu hàng và người ngoại quốc”.

⚖️ III. Cuộc đàn áp và phản ứng của Huế

“Triều đình Huế, thay vì nhận ra lòng dân, lại cho là loạn, sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Bá Nghi ra Bắc tiễu trừ. Quân triều lấy danh nghĩa ‘bình giặc phản’, nhưng thực ra là đánh dân mình, khiến lòng người càng xa cách. Phụng bị bắt tại vùng Hưng Hóa, bị xử trảm; nhiều tướng sĩ của ông bị giết hoặc đày đi. Cuộc nổi dậy tan, nhưng tàn lửa yêu nước còn cháy trong dân gian suốt hai chục năm sau.”

🌾 IV. Phân tích và đánh giá

Phạm Văn Sơn viết tiếp: "Nếu xét dưới con mắt chính trị, Lê Duy Phụng là người chưa đủ tầm lãnh tụ quốc gia. Nhưng xét dưới góc độ lịch sử dân tộc, ông là người đầu tiên ở Bắc Hà dám đứng lên phản kháng Pháp và triều đình đầu hàng. Sự kiện này chứng tỏ dân tộc Việt Nam không khuất phục dễ dàng sau hiệp ước 1862. Tinh thần ấy sẽ kế tiếp trong phong trào Cần Vương (1885–1896).”

Ông kết luận bằng một câu ngắn gọn và sâu sắc: "Triều Nguyễn chém đầu Lê Duy Phụng, nhưng lịch sử không chém được tinh thần Lê Duy Phụng.”

Nguồn: chatGPT

Trần Nguyên Duy Thịnh: Nguyễn Hữu Chỉnh- Kẻ Cơ Hội Chính Trị Đàng Ngoài – Bi Kịch Của Tham Vọng Thời Loạn

Nguyễn Hữu Chỉnh: Kẻ Cơ Hội Chính Trị Đàng Ngoài – Bi Kịch Của Tham Vọng Thời Loạn

Nguyễn Hữu Chỉnh (1741–1787), người con của xứ Nghệ An (vùng đất biên thùy thuộc Đàng Ngoài), là một điển hình bi kịch của tham vọng cá nhân trong thế kỷ XVIII đầy biến động. Ông là một võ tướng kiệt xuất về thao lược, nhưng chính cuộc đời ông lại là sự phản chiếu rõ nét nhất của chủ nghĩa cơ hội chính trị và sự thiếu vắng đạo đức nghĩa hiệp trong tầng lớp quan lại Bắc Hà suy tàn.

Khởi nghiệp dưới trướng chúa Trịnh (Đàng Ngoài), Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng chứng tỏ tài năng quân sự và chính trị vượt trội. Ông là người hiểu rõ tường tận hệ thống, quy tắc, và cả những điểm yếu của triều đình Lê – Trịnh ở Thăng Long.

Tuy nhiên, khi quyền lực của chúa Trịnh bắt đầu lung lay và chính quyền mục ruỗng, lòng trung thành của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng dần phai nhạt. Với bản tính thực dụng của người vùng biên, ông nhận ra rằng việc bám víu vào một triều đại đang hấp hối chỉ dẫn đến sự hủy diệt cá nhân.

Khi thất thế, thay vì tìm đường phục hưng cho chính quyền cũ, Nguyễn Hữu Chỉnh đã thực hiện bước đi táo bạo và bị lên án nhất: Đầu hàng Tây Sơn (lực lượng Đàng Trong) và trở thành quân sư đắc lực cho Nguyễn Huệ.

Hành động này, dù giúp ông thoát hiểm, lại mang đậm màu sắc cơ hội chính trị:

Ông đã dùng toàn bộ sự hiểu biết về địa hình, nhân sự và điểm yếu của quân Trịnh để giúp Nguyễn Huệ dễ dàng tiến quân ra Bắc, chấm dứt quyền lực của họ Trịnh (1786).

Mục đích của Chỉnh không phải là vì Tây Sơn hay vì dân chúng, mà là để dùng sức mạnh Tây Sơn để diệt trừ đối thủ và tạo lập chỗ đứng mới cho mình ở Thăng Long.

Sau khi Nguyễn Huệ rút quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh được giao nhiệm vụ quản lý Bắc Hà dưới danh nghĩa phò vua Lê Chiêu Thống. Đây là lúc bản tính cơ hội của ông bộc lộ hoàn toàn:

Chỉnh nhanh chóng biến Lê Chiêu Thống thành một vị vua bù nhìn, nắm trọn binh quyền, tự phong tước vị, và hành xử như một lãnh chúa độc lập ở Bắc Hà.

Hành động của ông bị xem là phản bội lại lòng tin của Nguyễn Huệ và mục tiêu thống nhất đất nước của Tây Sơn, đẩy Đàng Ngoài vào hỗn loạn một lần nữa.

Chính sự thao túng và mưu đồ cát cứ này đã buộc Nguyễn Huệ phải quay trở lại Bắc Hà, nhanh chóng tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh (1787). Cuộc đời ông kết thúc bi thảm, bị giết dưới tay tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm.

Nguyễn Hữu Chỉnh là một nhân vật sở hữu tài năng của một người hùng nhưng lại thiếu đi phẩm chất nghĩa hiệp cần có. Ông dùng tài năng của người Đàng Ngoài để phục vụ cho các phe phái đối lập, cuối cùng chỉ vì tham vọng cá nhân không giới hạn.

Cái chết của Nguyễn Hữu Chỉnh là bài học đắt giá: trong thời loạn, kẻ cơ hội chính trị có thể nhất thời được vinh hoa phú quý, nhưng cuối cùng sẽ bị chính lịch sử đào thải khi đặt lợi ích cá nhân lên trên đạo nghĩa và vận mệnh chung của dân tộc.

- Trần Nguyên Duy Thịnh -