Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016

Nguyễn Quốc Tấn Trung: Hậu Brexit – Kỳ 1: Dân chủ trực tiếp đã thất bại hơn 2000 năm trước như thế nào?

Một đám đông giận dữ cũng nguy hiểm không kém kẻ độc tài tàn bạo ngồi trên ngai vàng.
Nền Dân Chủ Athens và Nên Dân Chủ Hiện Đại; Dân Chủ Trực Tiếp và Dân Chủ Gián Tiếp; Đâu là lằn ranh giữa dân chủ và nền độc tài đám đông? Loạt bài viết này sẽ cho bạn đọc một các nhìn toàn cảnh và lý giải sự khác biệt cũng như câu hỏi trên. Để khi có người dẫn chứng lời phê phán của Plato, Socrates hay James Madison về nền dân chủ, hãy nhớ rằng họ không nói về cùng nền dân chủ chúng ta mong muốn ngày nay.
o    Nguyễn Quốc Tấn Trung
Trước tiên, chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa các hình thái dân chủ. Bài viết không nhằm phản đối thể chế dân chủ. Dân chủ luôn luôn là một hình thái nhà nước đáng được tôn trọng nhất bởi trong hình thái nhà nước, do ý kiến của các công dân, kể cả các nhóm yếu thế luôn được cân nhắc, bảo vệ và thể hiện trong chính sách của nhà nước; hình thái nhà nước dân chủ tạo điều kiện cho sự trao đổi, thẩm vấn, kiểm tra và giám sát nhà nước của công dân. Từ đó, công dân tạo nên một hệ thống nhà nước khỏe mạnh, không lạm quyền và thật sự hoạt động vì cộng đồng. Tuy nhiên lại có rất nhiều hình thái dân chủ với các quy chuẩn phân biệt khác nhau, mà nổi bật nhất là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Vậy tại sao dân chủ trực tiếp, vốn xét một cách thuần cảm tính, là nơi thật sự để người dân tham gia quyết định các chính sách quốc gia, với tiếng nói rõ ràng nhất mà không cần thông qua các dân biểu đại diện, lại chưa bao giờ là lựa chọn của các nhà nước dân chủ nổi tiếng nhất trong lịch sử?
Độc tài … số đông: lời tự sự của các triết gia
Khi chúng ta nhắc đến các thể chế độc tài, điều gợi lên trong mỗi người trước tiên là các chính thể theo kiểu Orwellian (gọi theo tác phẩm “1984” của tác giả George Orwell nói về một xã hội toàn trị) hoặc Stalinist – theo thiên hướng nhà độc tài Xô-viết Joseph Stalin, nơi mà một nhóm hoặc một cá nhân thâu tóm gần như toàn bộ quyền lực nhà nước với kiểu ứng xử độc đoán thần giáo như thể quyền năng của họ là của Chúa trời. Tuy nhiên, khi mà các chính thể nhà nước như vậy đã và đang dần mất vị thế của mình trên chính trường thế giới; một con quái vật khác đang trỗi dậy tại sân sau của mỗi gia đình, được nuôi dưỡng bởi sự tự thỏa mãn và mất động lực chính trị của các công dân từ những xã hội tiến bộ – “Độc tài số đông”.
“Độc tài số đông” không phải là khái niệm mới mẻ trong triết lý pháp luật và chính trị thế giới, nhưng vì một số lý do khách quan và cũng có thể là do nhầm lẫn thật, người ta thường lạm dụng sự mập mờ giữa “Độc tài số đông” và “Dân chủ”. Sự làm dụng này ít khi được nhắc đến chi tiết. Mặc dù bóng ma của chủ nghĩa đa số thiếu khôn ngoan, không bị kiềm chế đã ám ảnh sức sáng tạo của hoạt động chính trị dân chủ từ Phiên tòa Socrates (The Trial of Socrates) trong thời cổ đại Hy Lạp, khái niệm và nghiên cứu học thuật chuyên sâu về “Độc tài số đông” chỉ được chính thức hình thành trong kỷ nguyên cách mạng dân chủ hiện đại (modern age of democratic revolutions).
Phiên tòa Socrates diễn ra vào năm 399 trước Công Nguyên, nhằm xét xử một trong những nhà hiền triết danh tiếng nhất Hy Lạp Cổ Đại – cha đẻ của triết học – Socrates. Ông bị buộc tội “làm tha hóa giới trẻ” và “từ chối chấp nhận những vị thần được công nhận bởi nền dân chủ”. Thực tế, việc ông làm là thường thách thức các niềm tin được công nhận rộng rãi tại Athens với kiểu đối thoại Socrates vòng tròn, kể cả việc đặt vấn đề về niềm tin với các vị thần mà người dân Athens đang thờ phụng. Cách ông phản bác nền dân chủ Athens và giảng dạy về bất tuân dân sự cho dân chúng và các môn đệ của mình cũng bị cho là có dính líu đến Critias, một học trò của ông – và cũng là lãnh đạo của nhóm “Tam Thập Bạo Chúa” (The Thirty Tyrants), một chế độ thiểu số lãnh đạo vô cùng tàn bạo nắm quyền kiểm soát Athens trong 8 tháng (404 đến 403 trước Công Nguyên). Điều khiến các học giả hiện đại thất vọng và đặt câu hỏi với nền dân chủ Athens là 500 công dân Athens đã chấp nhận phiên tòa xét xử một nhà hiền triết chỉ vì những điều ông giảng dạy, và trao cho ông hình thức tử hình dù không có bằng chứng rõ ràng chống lại ông – một bản án chỉ được quyết định chỉ vì đám đông chọn như thế.
Bức tranh Cái chết của Socrates (1787) của họa sĩ phục hưng Jacques-Louis David. Socrates chấp nhận hình phạt tử hình bằng cách uống nước sâm độc (hemlock).
Trước tiên bắt đầu với nhà triết gia John Locke (1632-1704), khi ông nhận thấy được sự trỗi dậy mạnh mẽ của một tầng lớp tập hợp các cá nhân “cấp thấp” của xã hội như là nhân tố cực kỳ quan trọng trong những cuộc nội chiến tại Vương Quốc Anh; và chính thức đặt ra quan niệm về nguyên tắc “đa số thắng” (majority rules) trong tác phẩm Hai Luận Thuyết về Chính Phủ (1690).
Một thế kỷ sau đó, kinh nghiệm cách mạng tại Hoa Kỳ và Pháp bắt được ánh sáng mới của chủ nghĩa “đa số thắng” ở một cường độ mãnh liệt hơn. Chủ nghĩa này là thứ khiến các vị khai quốc công thần của Cách Mạng Hoa Kỳ năm 1776 phải trăn trở trong các tranh luận của họ về việc phải xây dựng mô hình nhà nước dân chủ thật sự hoàn hảo như thế nào.
Khái niệm chính thức được đặt tên “Sự độc tài đa số” – “Tyranny of the majority” bởi nhà sử học và lý thuyết gia chính trị danh tiếng Alexis de Tocqueville (1805–1859) trong ấn phẩm thứ hai của tác phẩm Nền Dân Trị Mỹ; cũng như được ghi nhận trong tác phẩm mang dấu ấn đáng kể nhất của John Stuart Mill (1806 – 1873) – Bàn Về Tự Do.
Nền dân chủ cổ đại trong mắt các nhà lập quốc Hoa Kỳ: Quá nhiều khuyết điểm?
Thành bang Athens sống dưới một chế độ dân chủ cực đoan hóa từ năm 508 đến năm 322 trước Công Nguyên. Các định chế dân chủ vẫn được tiếp tục duy trì và phát triển sau đó bởi các nhà nước mới sau này, nhưng đây mới là 186 năm mà thành bang Hy Lạp được sống trong một nền dân chủ tự ý thức, quyết đoán, thịnh vượng, nhưng cũng không kém phần hỗn loạn – thứ được các sử gia gọi là “Nền Dân Chủ Athens” (Athenian Democracy). Nền dân chủ này khác biệt hoàn toàn với những gì chúng ta biết đến ngày nay.
Nhà nước dân chủ kiểu hiện đại được chia ra thành nhiều nhánh kiểm tra, giám sát; quyền công dân được giới hạn một cách có mức độ ở việc bầu chọn ra người đại diện tại các nhánh quyền lực này – vốn là thành quả lý thuyết nhà nước và pháp luât sau kỷ nguyên cách mạng dân chủ hiện đại. Nền dân chủ Athens, ngược lại, thậm chí còn không phải là một nền cộng hòa.
Trong nền dân chủ Athens, khái niệm “Nhân dân tự quản” (People govern themselves) được thực hiện thật sự trên nghĩa đen, nơi mà những công dân đủ tư cách bỏ phiếu (dĩ nhiên, toàn nam giới và không bao gồm nô lệ) sẽ dùng lá phiếu của riêng mỗi người trong số họ để bầu cho mọi quyết định, từ hành pháp đến tư pháp, từ những việc to tát như quyết định tổ chức chiến tranh cho đến những công việc hằng ngày như quy chuẩn dành cho việc đóng một con tàu. Mô hình này khá lý tưởng với thứ “Công Xã” mà nhà triết học Karl Marx từng mong muốn, nhưng cả mô hình dân chủ Athens và “Công Xã” đều có chung nhiều thiếu sót, đó là sự hỗn loạn, kém tổ chức, thiếu tập trung chuyên môn. Cả hai mô hình này đều đã sụp đổ vì những thiếu sót đó.
Nghiên cứu lịch sử cổ đại và những vấn đề mà nền dân chủ Athens gặp phải, James Madison, một trong các nhà lập quốc Hoa Kỳ, đã cảnh báo về chủ nghĩa dân chủ thuần túy (pure democracy) vốn cũng tương tự như “Nhân dân tự quản”. Ông nhận thấy dân chủ kiểu Athens là một nền dân chủ thất thường và ngắn ngủi, trong khi mô hình cộng hòa La Mã lại tồn tại vững chãi và chắc chắn hơn. Một khai quốc công thần khác, John Adams, nhận xét rằng “Dân chủ thuần túy không thế tồn tại lâu dài”, trong khi nhà bác học Benjamin Franklin sau khi được hỏi rằng mô hình chính thể nào là phù hợp với nhà nước Hoa Kỳ non trẻ, ông đáp ngắn gọn: “Nền Cộng Hòa, nếu anh có thể giữ nó được lâu”. Cảm giác của giới tinh hoa và những nhà sáng lập nhà nước Hoa Kỳ tại thời điểm đó có thể được mô tả hoàn hảo bởi câu nói của Alexis de Tocqueville:
“Nếu chúng ta thừa nhận rằng một cá nhân sở hữu quyền lực tuyệt đối có thể lạm dụng quyền lực của mình để làm điều sai trái, tại sao đám đông đa số không phải chịu sự đánh giá tương tự? Con người không thay đổi bản chất của mình chỉ bởi vì họ tụ tập lại với nhau.”
Đây cũng chính là lý do mà nhà nước Hoa Kỳ được hình thành dưới hình thức thể chế cộng hòa, có nền dân chủ được thực hiện bằng cơ chế đại diện, hai cơ quan lập pháp với nhiệm kỳ ngắn cùng chức danh tổng thống quyền lực nhiệm kỳ dài hơn và 9 vị thẩm phán có địa vị phục vụ trọn đời tại Tối Cao Pháp Viện.
Với mô hình này, Hạ Viện và Thượng Viện bao gồm các dân biểu và thượng nghĩ sỹ đại diện cho đám đông dân chúng luôn được thay thế và làm mới thường xuyên mỗi hai hoặc ba năm, tạo điều kiện cho cộng đồng xem xét, trao đổi lại các mục tiêu, quan điểm và thái độ chính trị của mình trong các cuộc bầu cử địa phương.
Tổng Thống là người nắm giữ quyền hành pháp tối cao cũng do người dân bầu chọn, song lại có nhiệm kỳ dài hơn để đảm bảo rằng ông ta có thể làm việc một cách độc lập và được tham vấn, hơn là chỉ để đảm bảo những nguyện vọng nhất thời vốn có thể phi thực tế.
Trong khi đó, những cái đầu lạnh tại Tối Cao Pháp Viện không có quyền lực gì nhiều trong đời sống kinh tế xã hội của nhân dân, nhưng lại là người trọng tài đáng tin cậy để bảo vệ các giá trị pháp lý nguyên thủy nếu hai nhánh quyền lực còn lại vượt quá các định mức cho phép, vốn được vạch ra bởi luật pháp và hiến pháp thành văn.

Điều này đảm bảo rằng mỗi cơ quan, cho dù đại diện cho quyền lực nhân dân, không phải chịu áp lực tuyệt đối từ mong muốn nhất  thời của một đám đông nhân dân nào đó – nó được xem là một lời giải hoàn thiện thể chế dân chủ mà người Mỹ luôn tìm kiếm.

Hà Văn Thịnh : QUỐC HỘI SAI, LẠI ĐỔ TỘI CHO DÂN BẦU SAI?

Cho dù bị ném đá – thậm chí, bị tù tội, tôi vẫn buộc phải nói rằng: Chưa bao giờ, ở đâu, tôi thấy tồn tại một quốc hội kém cỏi, vô trách nhiệm, dốt tệ dốt hại như quốc hội nước ta!
Làm sao có thể xảy ra chuyện 3 ngày trước khi một bộ luật – Luật Hình sự có hiệu lực (1.7.2016), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có phiên họp khẩn với Trưởng đoàn ĐBQH các địa phương để ra quyết định về vấn đề chưa có tiền lệ trong lịch sử tư pháp của loài người, đó là HOÃN việc thi hành vì có 3 lỗi sai nghiêm trọng trong tổng số trên 90 SAI PHẠM CẦN SỬA CHỮA!?
93 triệu người dân cả nước dẫu có nằm mơ cũng không dám nghĩ rằng gần 500 nghị sĩ – élit, tinh hoa chính trị của nước nhà lại có thể u mê đến mức thanh thản bấm nút, vui vẻ thông qua, hể hả thắng lợi khi cho phép ban hành những điều luật chắc chắn sẽ gây ra tai họa thảm khốc cho hàng triệu triệu người.
Đây là điều không thể chấp nhận cho dù, đó là cách thức làm luật thô thiển, ấu trĩ của cả một hệ thống trong chính thể độc tài.
Có rất nhiều điều đáng bàn trước những câu hỏi bức bách cần phải giải quyết NGAY, LUÔN để đổi thay cấu trúc, lề lối, nguyên tắc của nền chính trị vận hành như thể một trò đùa, cứ mãi hoài đem đến khổ đau, bức bối cho dân tộc, giống nòi, làm xấu mặt tổ tiên, làm ủ ê quốc tính…
Thứ nhất, quốc hội phải là nơi hội tụ tinh hoa theo đúng nghĩa đen của từ này. Ông hòa thượng nọ, vị đại tá kia, ngài công nhân ấy…, có biết gì về LUẬT mà dám bấm nút để ban hành luật? Quốc hội chứ có phải là tổ chức mặt trận đâu mà phải “đủ thành phần, giới tính, dân tộc”? Chừng nào vẫn còn cái “tiêu chí” quái đản trên thì chừng đó vẫn còn sai.
Thứ hai, hãy bỏ cái cách BẤM NÚT đi vì, theo đó, chẳng có ai phải chịu trách nhiệm về những điều sai. Dự luật phải mang tên người đề xướng, biểu quyết. Chính họ chứ không phải ai khác phải chịu trách nhiệm trước toàn DÂN về những kém cỏi, tắc trách, thiển cận của chính mình.
Thứ ba, điều đau đớn là hầu như những người ĐÃ SAI (khóa 13) khi bấm nút thông qua bộ luật này lại đang cười rất hả hê vì tái đắc cử trong nhiệm kỳ tới!? Dân chỉ còn biết kêu trời không thấu bởi cái điệp khúc sai – kiểm điểm – rút kinh nghiệm – phê bình – cứt trâu hóa bùn liên chi hồ điệp. Nhất thiết phải KỶ LUẬT Ủy ban Tư pháp và tất cả những ai đã tiền hô, hậu ủng cho cái sự thông qua tẽn tò ấy.
Thứ tư, QUỐC THỂ là điều mà các vị tai to mặt lớn mang danh “cha mẹ” của Dân nên ngẫm kỹ, nghĩ lâu trước khi hành xử với tư cách... chẳng ra gì. Các vị không thấy xấu hổ khi cái sự ê chề này phơi bày trước mắt của hàng tỷ người ở 192 quốc gia khác sao? Chẳng có người dân Việt nào đủ trơ tráo để ngẩng cao đầu khi hết lần này đến lần khác biết rõ chính những nghị sĩ của mình đang làm xấu đất nước.
Thứ năm, dù sao, cũng phải ghi nhận tinh thần… dũng cảm của những người vừa mới biết là nếu không nhận sai thì tai họa chất chồng!
Xin dẫn ra đây một đoạn trên báo Tuổi Trẻ, 28.6.2016,09:57 GMT+7,để thay cho lời kết – và, cũng để cho người dân biết quốc hội ta lẫn, kém đến mức nào:
Trích: “Nguồn tin của Tuổi Trẻ khẳng định trong báo cáo gửi các ĐBQH khóa XIII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết có tới trên 90 nội dung thuộc Bộ luật hình sự cần phải sửa đổi, bổ sung. Trong số đó, theo các chuyên gia, có những sai sót nghiêm trọng và những sai sót “không thể tin được”.
Nguyên chánh tòa hình sự TAND tối cao Đinh Văn Quế từng nêu các ví dụ cụ thể như: ngoài điều 249, điều 250, điều 252 Bộ luật hình sự 2015 bị trùng lặp tình tiết định khung hình phạt thì còn điều 337 quy định tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước.
Tên của điều luật quy định hai tội với bốn hành vi: cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước. Nhưng khoản 1 của điều luật này lại chỉ quy định một tội với một hành vi “cố ý làm lộ hoặc mua bán bí mật nhà nước”, còn ba hành vi: chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước thì không thấy đâu nữa. Nếu nghiên cứu kỹ Bộ luật hình sự 2015, chúng ta còn thấy một số điều luật nếu không có giải thích hoặc hướng dẫn thì không thể áp dụng được.
Ví dụ: điều 175 (điều 140 Bộ luật hình sự 1999) quy định về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã bỏ tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt” trước đây quy định tại điểm a khoản 1 điều 140 Bộ luật hình sự. Vậy kể từ ngày 1-7-2016 (nếu bộ luật có hiệu lực thi hành) trở đi cứ vay mượn, thuê tài sản của người khác rồi bỏ trốn để chiếm đoạt thì không phạm tội sao?!” (Hết trích)
Có lẽ, chẳng còn gì để nói thêm trước sự thật sai phạm tày đình của những người đã thông qua bộ luật này! Nói như ông Nguyễn Sinh Hùng, Dân bầu ra quốc hội thì, nếu quốc hội sai, là lỗi… của Dân!
Huế, 28.6.2016

Tác giả Hà Văn Thịnh

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

Đoan Trang: TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA MÀ CHỈ... ĐẾN THẾ THÔI SAO?

Phạm Đoan Trang

Đây đó tôi có nghe một số nhà báo quốc doanh bày tỏ sự bức xúc khi các khán giả facebook nhiệt thành khen ngợi phóng sự truyền hình của Đài Loan về thảm họa cá chết, mà lại bỏ quên công sức, mồ hôi, nước mắt… của “lề phải”, nhất là của cơ quan truyền hình quốc gia VTV. Như thế phải chăng là không công bằng?

Tôi chia sẻ sự bức xúc của các bạn ấy. Nhưng cá nhân tôi nghĩ những nhận xét và cảm xúc đó của facebooker là công bằng. Bởi vì, so với tất cả các cơ quan báo đài khác, VTV có những lợi thế tuyệt đối về nguồn lực (do ngân sách nhà nước cung cấp), trang thiết bị kỹ thuật, nhân sự, và nhất là tính chính thống – tức cái giấy phép hành nghề hay còn gọi là cái thẻ nhà báo để có thể tự do tác nghiệp trên đất nước Việt Nam… Nói đơn giản là họ có điều kiện hơn hẳn tất cả các đồng nghiệp khác, trong nước cũng như quốc tế, và đặc biệt, họ quá sướng so với các nhà báo lề dân tức cánh facebooker.

Họ có phải tác nghiệp trong tình trạng an ninh, cảnh sát, dân phòng địa phương kè kè xung quanh, sẵn sàng xông vào hỏi giấy tờ, cướp đồ, đập máy, rồi xách nách lôi lên xe về đồn không?

Họ có bao giờ bị công an bắt, đưa về đồn lột quần áo ra và dí máy quay phim, máy ảnh vào chụp; có bao giờ bị côn đồ, người lạ đuổi theo xe, tay lăm lăm tuýp sắt và mắt đỏ ngầu tia máu không?

Họ có đối diện với tình trạng phỏng vấn bất kỳ cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước nào cũng bị từ chối, bị xua đuổi không?

Họ có vừa tác nghiệp, vừa lo tiền nhà, tiền nước, tiền điện, tiền Internet chưa kịp đóng, thậm chí có nguy cơ tiền xăng xe cũng sắp cạn, đêm nay, sáng mai chưa biết ăn gì, nghỉ đâu không?


Với từng đó nguồn lực mà chỉ sản xuất ra được những sản phẩm báo chí ở mức chất lượng như bao lâu nay, thì phải nói là VTV… à mà thôi.

Ước gì tôi đi được mà không phải chống hai tay hai nạng; ước gì chúng tôi có thể tiếp cận bất kỳ quan chức, cán bộ, cơ quan nhà nước nào và có thể phỏng vấn họ mà không lo bị xách cổ quẳng ra cổng; ước gì chúng tôi có thể tự do đi lại ở Vũng Áng, Tây Nguyên, và nhiều nơi khác mà không lo bị đánh toác đầu chảy máu…

Thì tôi dám khẳng định: Tôi, chúng tôi, sẽ làm ra những phóng sự, những tác phẩm báo chí, thậm chí những báo cáo khoa học, mà VTV không bao giờ làm nổi.

Các bạn có muốn thử cạnh tranh không?

(Quên, anh em Tổng cục An ninh để mình được tự do ra khỏi Hà Nội cái nhé).

Các bạn biết vì sao tôi tự tin như thế không? Vì các bạn hơn các nhà báo lề dân mọi thứ: tiền, phương tiện kỹ thuật, địa vị, tính chính thống... nhưng các bạn không có tự do. Chưa bao giờ các bạn nghĩ được cái gì vượt khỏi khuôn khổ mà Đảng và Nhà nước định ra cho các bạn.

Quyền tự do – cái mà giới báo chí quốc doanh Việt Nam chưa bao giờ được hưởng đúng nghĩa – nếu được thực thi, có thể phát triển năng lực cá nhân, tài năng của các bạn đến một mức chính các bạn không thể ngờ. Chỉ có tự do mới có phát triển thôi, các bạn ạ.

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2016

Trần Mạnh Hảo: VIỆT NAM TỨ BỀ THỌ ĐỊCH – NẾU KHÔNG LIÊN MINH VỚI MỸ SẼ MẤT NƯỚC VỀ TAY TRUNG QUỐC TRONG NAY MAI

Trần Mạnh Hảo
Nước Nga của “đại đế” Putin đã chính thức ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, như một mũi dao đâm sau lưng “bạn vàng Việt Nam” một thuở.
Chưa hết, hai “ông em ruột” của Việt Nam là Lào và Cămphuchia cũng đứng hẳn về phía Trung Quốc, gián tiếp ( ngầm) ủng hộ đường lưỡi bò của bọn giặc Trung cộng…
Than ôi, Việt Nam từng moi ông Hunsen từ trong túi quần của bè lũ Pôn Pốt để dựng ông này lên thành “lãnh tụ” hôm nay, hi sinh cả mấy vạn sinh mạng “bộ đội tình nguyện” và tiêu tốn hàng tỉ đô la cho chế độ bạn vàng Hunsen để hôm nay ông này thọc lưỡi dao Trung Quốc vào sườn tây nam đất nước.
Việt Nam cũng đã hi sinh nhiều vạn “bộ đội tình nguyện” và hàng tỉ đô la từ kháng chiến chống Pháp đến hôm nay cho nước Lào đỏ. Nay Lào miệng thì vẫn hô Việt Nam là ruột thịt số một, nhưng đứng hẳn về phía Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, gián tiếp thọc lưỡi dao vào sườn Tây tổ quốc.
Nếu Trung Quốc phát động chiến tranh đánh cướp đảo và đất liền Việt Nam, chắc chắn hai “ông em ruột” Miên – Lào sẽ cho Trung Quốc mượn đất và hợp tác với giặc Tầu bao vây toàn diện nước ta, hòng cho Việt Nam vào rọ thép không đường thoát.
Như vậy , chiến lược ngoại giao của nhà nước Việt Nam : “ làm bạn với tất cả các nước, không liên minh với nước này để chống lại nước khác” đã hoàn toàn thất bại.
Chưa bao giờ Việt Nam bị cô lập như bây giờ, hoàn toàn không có “bạn vàng” hoặc ông lớn nào giúp đỡ bảo vệ khi Trung Quốc tiến đánh.
Cũng chưa bao giờ vận mệnh dân tộc, tổ quốc nguy nan, nghìn cân treo sợi tóc như hôm nay. Buộc người dân yêu nước phải lo lắng và lên tiếng.
Rằng đúng như lời ông Lê Duẩn ( kẻ chống Trung Quốc triệt để nhất) đã nói đại ý : Trung Quốc không chỉ là kẻ thù truyền kiếp của cha ông ta trong quá khứ mà còn là kẻ thù nguy hiểm nhất mãi mãi về sau vì nó không bao giờ bỏ mộng chiếm Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á…
Nhìn vào những diễn biến gần đây trên Biển Đông và trong nước, không cần nhậy cảm cũng có thể biết Trung Quốc sẽ tiến đánh Việt Nam trong nay mai, hòng chiếm tất cả các đảo Trường Sa của Việt Nam, cấm Việt Nam và thế giới bay vào vùng trời lưỡi bò của chúng vẽ ra, trong thời cơ thuận lợi Mỹ đang bận bầu cử tổng thống.
Ngày 17-2-1979 Trung Quốc đã mang hàng chục vạn quân bất ngờ đánh vào dọc tuyến biên giới phía Bắc nước ta nhưng bạn vàng Liên Xô ( ngầm ký kết liên minh quân sự với Việt Nam) vẫn bình chân như vại, không hề làm động tác giả động binh trên biên giới Xô – Trung.
Trong thời gian cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược ấy, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài báo chống Trung Quốc, vạch ra cơ man tội ác của bọn xâm lược phương Bắc với nước ta được in trên các báo : Nhân Dân, Quân Đội nhân dân, Công an nhân dân, Tiền Phong, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng…
Rằng chính Trung Quốc đã phá hỏng cuộc kháng chiến chống Pháp của ta. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Pháp gần như phải hàng thì Trung Quốc ép ta ký hiệp định đình chiến Geneve, đến nỗi ngoại trưởng Phạm Văn Đồng phải vừa khóc vừa ký…Như vậy Việt Nam đâu phải quốc gia độc lập ? Độc lập sao được khi ta đã thắng giặc Pháp sau Điện Biên Phủ, Pháp sắp đầu hàng, lại phải khóc nghe lệnh Trung Quốc ký hiệp định Geneve chia đôi đất nước ?
Rằng trước ngày 30-4-1975, khi Sài Gòn bị Cộng quân bao vây tứ phía, Trung Quốc vẫn nhờ sứ quán Pháp móc nối với ông Dương Văn Minh, hứa nếu ông Minh lên tiếng yêu cầu, Trung Quốc sẽ cho triệu quân đổ bộ vào Sài Gòn cứu Việt Nam cộng hòa, đánh tan năm cánh quân Việt cộng đang bao vây đô thành…
Trung Quốc rất sợ Việt Nam thống nhất, chúng muốn bắt Bắc Việt làm lính đánh thuê cho chúng mãi mãi như lời Mao Trạch Đông : “ chúng ta sẽ đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Ông Lê Duẫn cũng từng nói toẹt ra : “Chúng ta đánh Mỹ cho Liên Xô và Trung Quốc”.
Chiến lược ngoại giao của đảng CS VN từ những năm 50 của thế kỷ trước dựa hẳn vào Liên Xô Trung Quốc, tự mình chui vào cái rọ của chúng, được chúng nuôi bằng quá nhiều tiền, dùng tiền để sai khiến, đưa máu Việt Nam ra làm phương tiện cho mục đích bá quyền của hai đế quốc Xô-Trung đã hoàn toàn thất bại.
Trung Quốc ngay từ thời “Trung Hoa Dân quốc” trước năm 1949 của Tưởng Giới Thạch đã vẽ bản đồ lưỡi bò, toan tính chiếm hết Biển Đông của mấy nước Đông Nam Á : Việt Nam, Philippin, Indonesia, Malaisia…
Năm 1949, Mao Trạch Đông chiến thắng Tưởng Giới Thạch, tiếp nhận bản đồ lưỡi bò của Tưởng, nhất quyết chiếm Biển Đông. Bọn Hán tặc mới này biết rằng nếu vẫn để Mỹ đứng chân ở miền Nam Việt Nam thì mãi mãi chúng không dám xía vào vùng biển mà chúng gọi là lưỡi bò này.
Phải tìm cách đuổi Mỹ đi nên Mao đã chọn Việt Nam làm con bài, chọn xương máu Việt Nam để thực thi ý đồ chiến lược của chúng là chiếm Việt Nam và chiếm toàn bộ Đông Nam Á, bằng cách bày ra trò “giải phóng miền Nam” để Việt Nam làm tiên phong trên bàn cờ bá quyền của chúng. Chúng viện trợ hết cỡ cho Việt Nam, bốc các ông lãnh đạo CS VN là anh hùng thời đại, dám đánh Mỹ cứu mình và cứu thế giới. Do đó Tố Hữu mới làm thơ như sau : “ Ta vì ta ba chục triệu người / Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”, “Vui sướng bao nhiêu trên tuyến đầu diệt Mỹ”…
Năm 1973 Mỹ rút quân khỏi Nam Việt Nam. Năm 1974, Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Lúc này Mỹ đã chơi con bài Trung Quốc để bao vây Liên Xô; vì Mỹ đã thua con bài Trung Quốc là Việt Nam : đánh mãi không thắng !
Không thực hiện được việc chia đôi đất nước Việt Nam vĩnh viễn, Trung Quốc vô cùng căm thù ban lãnh đạo Việt Nam dám thống nhất đất nước, bèn dùng bọn tay sai Pôn Pốt, Iêng xa ri , sai bọn ác ôn Cămpuchia này mở cuộc chiến tranh đánh vào sườn Tây Nam đất nước gây bao tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam.
Trung Quốc dìm Việt Nam trong biển máu chiến tranh với Khơ me đỏ, để năm 1979 chúng tổng tấn công, đánh toàn diện biên giới phía Bắc gây ra núi xương sông máu cho nhân dân Việt Nam. May mà cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, Việt Nam chống cự mãnh liệt, khiến Trung Quốc của Đặng Tiểu bình bị thiệt hại quá mức nên chúng phải rút.
Năm 1990, thấy tình hình cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam bí mật “hàng” Trung Quốc bằng hiệp ước Thành Đô mờ ám…Trung Quốc chỉ dùng vũ khí có tên là chủ nghĩa cộng sản mà không cần dùng xương máu đã thâu tóm được Việt Nam trong cái thòng lọng có tên là “ bốn tốt và mười sáu chữ vàng”…
Năm 1988, Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma của Việt nam ( là một đảo lớn trên quần đảo Trường Sa của VN)…Đoạn, Trung Quốc liên tục chiếm các đảo đá ngầm bồi đắp đất làm các đảo nhân tạo trên vùng biển của Việt Nam, đưa máy bay và vũ khí ra các đảo mới chiếm tuyên bố sẽ mở vùng nhận dạng phòng không ( ADIZ) trên biển Đông, khóa hẳn đường ra biển của Việt Nam. Mối quan hệ hữu hảo giữa Việt Cộng và Trung cộng hiện nay chỉ bằng lỗ miệng, còn thực chất vẫn là chiến tranh ngầm, chiến tranh không tuyên bố…
Giờ đây, việc Trung Quốc sắp mở vùng nhận diện phòng không trên Biển Đông sẽ là lời tuyên chiến với Việt Nam.
Việt Nam không liên kết với Mỹ, sẽ mất nước trong nay mai. Nếu không có Mỹ liên tục đưa tàu đến Biển Đông để tuần tiễu, Việt Nam đã bị bạn vàng Thành Đô là bọn xâm lược Trung Quốc chiếm lâu rồi.,.
Sài Gòn ngày 25-6-2016
T.M.H.

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2016

Bùi Quang Vơm: Mất Trường Sa lớn và thông điệp gửi Hà Nội

“Thông điệp khẩn cấp mà chúng ta muốn chuyển tới những kẻ đang nắm trong tay quyền lực của chế độ tại Hà Nội, rằng đảo đã mất, sắp mất hết, biển đang mất và đất nước sẽ mất chỉ do sự mê muội của ý thức hệ cộng sản, mê muội bạn – thù. Hãy thức tỉnh, không còn thời gian nữa! Phía sau các vị không còn dân nữa đâu, đừng ảo tưởng, không còn ai hết, không một người! Không thể có mặt trận nhân dân, không thể có thế trận toàn dân nữa…
Giặc Tàu đến, con cháu của những người bị các vị, bị cái lý tưởng viển vông của các vị lừa bịp, ba mươi năm làm bia đỡ đạn để các vị ngồi trên vinh quang, chia nhau quyền lực, vơ vét làm giàu, bây giờ họ sẽ không bị lừa dối nữa. Nếu giặc đến, các vị hãy mang những lâu đài, biệt thự giát vàng của các vị ra mà đỡ đạ̣n”.
_____
Báo Vnexpress.net đưa tin, “Mỹ hôm qua (22/06/2016), lên tiếng cảnh báo Trung Quốc không nên ‘thực hiện thêm các hành động khiêu khích’, sau khi tòa trọng tài thường trực ra phán quyết về vụ kiện ở Biển Đông. Colin Willett, phó trợ lý ngoại trưởng Mỹ khu vực Đông Á, cho biết, Washington có “rất nhiều cách” để đối phó với bất kỳ động thái nào của Trung Quốc trong khu vực, theo Reuters. Bà nói thêm rằng trong bối cảnh tòa trọng tài thường trực (PCA) ở The Hague sắp đưa ra phán quyết về vụ kiện của Philippines đối với Trung Quốc liên quan đến đường 9 đoạn mà Bắc Kinh tự vẽ ra trên Biển Đông, Mỹ đang tích cực làm việc với các đối tác và đồng minh khu vực nhằm đảm bảo thiết lập một mặt trận thống nhất”.
Chú ý rằng, lời cảnh báo này nhấn mạnh chữ “thêm”, có nghĩa là đã có khiêu khích.Và có thể thấy rằng vụ khiêu khích vừa rồi của Trung Quốc, vụ bắn hạ hai máy bay của Việt Nam, đã không che mắt được ai, nhưng công bố một quy kết lại không thể đơn giản là “biết” hoặc “chắc chắn”, nhất là chính Hà Nội, người bị nạn lại không muốn quy tội cho ai, và âm thầm nuốt hận, hay cắn răng chịu trận. Và Mỹ thì “chúng tôi tôn trọng quyền quyết định của các bạn”như lời Đại sứ Mỹ Ted Osius. (Những phân tích về âm mưu của Trung Quốc, xin xem bài “Chiến tranh biển Đông đã bắt đầu?”).
Bắn hạ hai chiếc máy bay hiện đại của không quân Việt Nam trong hai ngày 14/06 và 16/06, Trung Quốc đã thực hiện một âm mưu khiêu khích.Việt Nam biết và có bằng chứng, Việt Nam có thể công bố và quy kết trách nhiệm cho Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc bồi thường, và theo tập quán ngọai giao, Hà Nội sẽ buộc phải có động thái đáp trả hành vi khiêu khích này. Nhưng nếu công bố kết tội Trung Quốc, Bắc Kinh sẽ lu loa lên rằng ‘Hà Nội vu khống và khiêu khích. Hà Nội lợi dụng Mỹ để công khai chống lại Trung Quốc. Chế độ Hà Nội đã phản bội lại láng giềng, phản bội chủ nghĩa Mác. Hà Nội đã trở thành kẻ thù của nhân dân Trung Quốc, Hà nội phải bị trừng phạt‘.
Tiếp đến, sẽ xảy ra các sự cố tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc “bị bắn”, ngư dân Trung Quốc trên biển thuộc lãnh hải Việt Nam “bị đánh chìm”, tàu chiến tuần tra của Trung Quốc đột nhiên “bốc cháy” gần đảo Trường Sa lớn của Việt Nam, có “bằng chứng tên lửa của Việt Nam được phóng đi từ Trường Sa lớn”, v.v… Tất cả những cái cớ bịa đặt đó mục đích dẫn đến việc Trường Sa lớn của Việt Nam phải bị Trung Quốc trả đũa, và điều sẽ xảy ra là Trường Sa lớn, thủ phủ huyện đảo Việt Nam còn lại trên biển Đông, sẽ bị tiêu diệt và chiếm đọat chỉ trong một đêm, bằng hoả lực không gì cản được.
Bằng việc giả như phớt lờ gợi ý trợ giúp của Mỹ, kêu gọi sự giúp đỡ của chính Trung Quốc, Hà Nội đã hoá giải âm mưu gây chiến đó của Bắc Kinh. Bắc Kinh không thể từ chối một hành động hỗ trợ nhân đạo, và buộc phải làm ngơ, như chưa hề có chuyện cố tình gây chuyện. Đó là biến “mưu của địch làm mưu của ta”, là “tương kế tựu kế”.
Âm mưu khiêu khích của Trung Quốc là tạo cớ gây chiến, lợi dụng hỗn lọan để chiếm đọat tất cả những thực thể còn lại trong quần đảo Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam, trước khi Toà Trọng Tài PCA đưa ra phán quyết, thực hiện chiến thuật “chuyện đã rồi”, nhằm tạo thế không thể đảo ngược và bằng cách này hoàn thành mục tiêu độc chiếm biển Đông.
Nhưng ngay sau khi chiếc SU-30MK2 bị nạn rơi ngày 14/06/2016, Mỹ bằng một cách nào đó, có lẽ đã biết được. Ngày 15/06/2016, Mỹ đã cấp tốc điều 4 tầu chiến điện tử cùng với 120 nhân sự kỹ thuật tới biển phía đông Philippines, có nhiệm vụ gây nhiễu radar đối phương, và liền ngay sau đó, ngày 18/06/2016, cùng một lúc, Mỹ đã điều hai tàu sân bay John C. Stennis và Ronald Reagan hoạt động cùng nhau tại biển Philippines trong tình trạng sẵn sàng tác chiến.
Trong bài phát biểu hôm qua tại một diễn đàn kinh tế ở thành phố Davao, ông Rodrigo Duterte gợi ý rằng “Hiệp định Tương trợ Quốc phòng năm 1951 của các đồng minh không tự động buộc Washington phải giúp Philippines ngay tức thì, nếu nước này đối đầu với Trung Quốc do một xung đột về lãnh thổ. Duterte nói ông đã hỏi Đại sứ Mỹ Philip Goldberg trong cuộc gặp gần đây. “Các vị có sát cánh bên chúng tôi hay không?”, ông Duterte hỏi và ông Goldberg đáp: “Chỉ khi các vị bị tấn công”.
Philippines cũng đã cảm thấy một điều gì khác thường đang đến từ phía Trung Quốc?! Cũng như Việt Nam, họ tất nhiên cũng có tình báo quân sự tại Trung Hoa đại lục.
Như vậy, có thể thấy, ngay cả Philippines, dù được gọi là đồng minh lâu đời của Mỹ, nếu không có một Hiệp định an ninh chung thay cho Hiệp định Tương trợ Quốc phòng, thì khi Philippines có xung đột với Trung Quốc nhằm thu hồi lại Scarboroug, Mỹ vẫn không có quyền tự động can thiệp, trong khi nếu đã thành “chuyện đã rồi” thì không thể đảo ngược tình thế, nghĩa là không thể lấy lại, nếu không bằng một cuộc chiến tranh có tuyên bố với kết thúc bằng sự đầu hàng vô điều kiện của Trung Quốc.
Mỹ đã hoạt động hết sức tích cực. Với bốn tầu chiến điện tử và hai tàu sân bay có mặt tại biển Đông, trong tình trạng sẵn sàng, và với những công bố gần như nói thẳng bản chất những hành vi có chủ đích của Trung Quốc, Mỹ góp phần quyết định hoá giải một phần những thủ đọan không có gì ghê gớm nhưng hung bạo của Bắc Kinh. Sự có mặt của Mỹ có thể khống chế sự hung hăng của Trung Quốc, nhưng Mỹ không có quyền đương nhiên can thiệp những xung đột song phương. Vì vậy, những thủ đọan gây sự cố châm ngòi cho việc sử dụng vũ lực, đặc biệt, riêng với Việt Nam, liên quan tới Trường Sa lớn, có thể vẫn xảy ra. Và trên nguyên tắc, Mỹ chỉ có thể đưa ra thông điệp “luôn luôn có mặt bên cạnh và sẵn sàng giúp đỡ bằng mọi cách, nhưng chúng tôi tôn trọng quyền quyết định của các bạn”. Nếu chỉ có thế thì ngay cả khi chuyện xảy ra, đảo mất, biển mất, thậm chí, không thấy Mỹ hành động, thì nước cũng có thể mất. Hà Nội chỉ có thể ngồi nhìn và Mỹ không thể làm gì ngoài “cực lực phản đối”.
Nhưng phải hỏi, ở phía Việt Nam, khi đã biết Trung Quốc tập trận bắn đạn thật trên biển Đông từ ngày 13/06 tới ngày 17/06, tại sao lại cho tập luyện bay trên biển Đông vào ngày ngày 14/06? Việt Nam răn đe Trung Quốc, hay Việt Nam thông đồng với Trung Quốc để tạo ra sự kiện? Ai đã ra lệnh xuất kích trong tình huống như vậy? Tại sao khi tín hiệu SOS kêu cứu phát ra từ vùng biển Nghệ An, chỉ cách bờ khoảng 20 km theo lời thuật của thiếu tá Nguyễn Huy Cường, lại điều máy bay tuần thám CASA 212 tới đảo Bạch Long Vĩ, sát phía đông đường phân giới vịnh bắc bộ với Trung Quốc để bị rơi? Và tại sao phải cần một ê kíp tới 9 người? Người ra lệnh này là ai? Nhằm mục đích gì? Có thể tin được rằng gián điệp của Trung Quốc nằm ngay trong bộ tư lệnh phòng không, không quân, ngay trong bộ chỉ huy tìm kiếm cứu nạn, và trong bộ tổng tham mưu? Trước mắt, có thể cách chức, thậm chí bắt giam ngay, chờ điều tra người ra quyết định xuất kích bay tập trong khi Trung Quốc đang diễn tập bắn đạn thật tại biển Đông. Xử bắn công khai, nếu là gián điệp Trung Quốc. Nếu là một kế hoạch được chuẩn bị trước, thì hãy hình dung, những kẻ phản bội này táng tận lương tâm đến mức nào và thực tế chất lượng của quân đội Việt Nam hiện nay ra sao.
***
Thông điệp khẩn cấp mà chúng ta muốn chuyển tới những kẻ đang nắm trong tay quyền lực của chế độ tại Hà Nội, rằng đảo đã mất, sắp mất hết, biển đang mất và đất nước sẽ mất chỉ do sự mê muội của ý thức hệ cộng sản, mê muội bạn thù. Hãy thức tỉnh, không còn thời gian nữa. Phía sau các vị không còn dân nữa đâu, đừng ảo tưởng, không còn ai hết, không một người. Không thể có mặt trận nhân dân, không thể có thế trận toàn dân nữa. Cái từng đem lại cho các vị “chế độ”, đã chuyển sang phía bên kia chiến tuyến, đối diện với chính các vị rồi. Họ đã từng nâng thuyền và bây giờ họ sẽ là những người lật thuyền.
Giặc Tàu đến, con cháu của những người bị các vị, bị cái lý tưởng viển vông của các vị lừa bịp, ba mươi năm làm bia đỡ đạn để các vị ngồi trên vinh quang, chia nhau quyền lực, vơ vét làm giàu, bây giờ họ sẽ không bị lừa dối nữa.
Nếu giặc đến, các vị hãy mang những lâu đài, biệt thự giát vàng của các vị ra mà đỡ đạ̣n. Sau những việc cướp đọat làm giàu trên xương máu người dân, các vị vẫn tin rằng người dân sẽ bảo vệ các vị, để các vị tiếp tục có chức có quyền, tiếp tục bòn rút xương tuỷ người lao động nghèo đói nữa hay sao?
Đành rằng không ai có quyền quy kết tất cả, trong các vị vẫn có những con người chính trực. Chúng ta đang chờ những con người đó hành động. Hãy tỉnh táo và suy ngẫm. Cái gì làm nên sự đổ vỡ của lòng dân, cái gì, nguyên nhân nào làm ra sự suy sụp nền đạo đức của một dân tộc giàu nhân bản, giàu lòng vị tha và yêu công lý như dân tộc Việt Nam?
Các vị trông chờ vào cứu cánh của ý thức hệ cộng sản, của chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhưng những tên đồ tể đại Hán ở Trung Nam Hải không còn là những đồ đệ của Mác nữa, chúng chiếm biển Việt Nam, đất Việt Nam không phải để bảo vệ “lý tưởng tương đồng” với các vị, mà là để chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ.
Hãy tỉnh lại, chủ nghĩa Mác chết rồi, bản chất xã hội loài người đã thay đổi, không còn man rợ như những gì in trên nhận thức đơn sơ và chết cứng của Mác. Nếu lịch sử là một quá trình tự hoàn thiện mình, thì hình ảnh gần nhất với mơ ước của Mác chính là các xã hội phát triển nhất trên hành tinh, không phải một Trung Quốc đang vật vã với những tư duy của những triều đại phong kiến trung cổ, tham lam và mông muội.
Không có cái “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mà các vị suốt 35 năm tìm kiếm. Không biết các vị thật tâm lần mò hay các vị cố tình tự lừa dối mình và lừa dối mọi người. Nếu thật tâm các vị mò mẫm tìm kiếm cái quái thai không tồn tại ấy, thì hãy xem lại cái phần não bộ, quả thật là có vấn đề thiếu hụt. Thị trường là Tự do cá nhân cộng với sở hữu Tư nhân. Những gì Việt Nam có hôm nay, những cái đã cứu cái chế độ của các vị thóat chết, chính là những gì đến từ cái phần thị trường trong cái nền kinh tế nửa dơi nửa chuột mà các vị chủ trương. Nó còn phôi thai, nhưng sẽ chết dần bằng các chủ trương tập thể hóa và quốc hữu hoá sở hữu, để tiến tới nền kinh tế phi sỡ hữu xã hội chủ nghĩa. Đó là sản phẩm của một lối tư duy ấu trĩ về lý thuyết kinh tế và siêu hình của lôgíc thực tiễn.
***
Đành rằng những thông điệp này xuất phát từ giả thuyết hai máy bay của Việt Nam bị nạn do Trung Quốc cố tình bắn hạ, nhằm âm mưu tạo sự kiện để gây chiến, nhưng bất kể sự kiện đã xảy ra như thế nào và nguyên do từ đâu, thì nguy cơ biển đảo Việt Nam mất vào tay Trung Quốc vẫn là nguy cơ có thật, chỉ là chuyện mất lúc nào và mất như thế nào. Việc căn bản là xác định ai là thù và ai là bạn. Một điều không người Việt Nam nào không biết, rằng kẻ thù trực tiếp và truyền kiếp của dân tộc Việt Nam là vua chúa các triều đại Trung Hoa và những kẻ cầm quyền hiện nay tại Bắc Kinh. Nguy cơ mất biển, mất đảo, dần tới mất nước là tư tưởng bá quyền thâm căn, không thể thay đổi của chủ nghĩa bành trướng đại Hán Trung Quốc. Đó là kẻ thù. Hợp tác với kẻ thù là tạo điều kiện cho kẻ thù thực hiện dã tâm từ trong nhà, lợi dụng hợp tác để thiết chặt các trói buộc lệ thuộc, để đoạt quyền kiểm soát trong tình huống xảy ra xung đột, để kiến trúc dần những điều kiện chiếm đọat cuối cùng.
Cần phải quy thành tội tất cả những hành vi hợp tác với kẻ thù thư tội gián điệp, tội phản quốc. Khi đã xác định Trung Quốc cộng sản là kẻ thù, thì tất cả những kẻ thực hành các hoạt động hợp tác với Trung Quốc cộng sản đều là tội phản quốc. Thực chất, tình trạng Việt Nam bị lệ thuộc Trung Quốc cả về tư tưởng lẫn kinh tế như hiện nay, nhất là tình trạng chiếm cứ các khu vực có địa thế hiểm yếu, tạo thành thế xen cài răng lược, là sản phẩm của hợp tác với Trung Quốc, sản phẩm của sự mê muội ý thức hệ và lòng tham hèn hạ trong hàng ngũ những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam.
Không cần biết người ta định nghĩa diễn biến hoà bình là gì, nhưng những kẻ lẫn lộn giữa man rợ và văn minh nhân loại, giữa nô lệ và tự do nhân bản, giữa lòng bao dung và hận thù, phải bị coi đầu tiên là kẻ thù của mọi diễn biến. Đến với tiến bộ, đến với nền văn minh chung, hoà nhập vào hệ thống giá trị chung của nhân lọai phải là một diễn biến mong đợi. Nếu diễn biến đó xảy ra một cách hoà bình thì là một quá trình diễn biến hợp lòng người, hợp thời đại. Các vị chẳng nên lo sợ. Chỉ có những người bạn mới tìm cách đến với các vị một cách hoà bình, kiên nhẫn chờ đợi sự chuyển biến chậm trễ của các vị. Ngược lại, hãy nhìn những gì Trung Quốc làm, đó không phải là diễn biến hoà bình, đó là một diễn biến cũng đến từ từ nhưng man rợ, biến các vị và đồng bào của các vị ban đầu thành những tên nô lệ, rồi sau đó mất hẳn khỏi loài người.
Cần phải có ngay lập tức một Hiệp định an ninh tương hỗ cho phép Mỹ quyền đương nhiên và tức khắc can thiệp, mỗi khi Việt Nam có xung đột vũ trang đe dọa an ninh biển đảo và chủ quyền quốc gia. Không còn thời gian nữa. Nguy cơ tổn thất tài sản và hy sinh con người trên các đảo và đá có quân đội túc trực và dân cư sinh sống thuộc quần đảo Trường Sa, đặc biệt là Trường Sa lớn, thủ phủ của huyện đảo Trường Sa đang hiện rõ từng ngày, có khả năng xảy ra trước ngày phán quyết của Toà trọng tài PCA ngày 07/07/2016.
Không cho phép bất kỳ ai chần chừ. Trách nhiệm về chủ quyền quốc gia và sinh mạng những con người này trước hết và trên hết thuộc về những cá nhân trong Thường vụ Quân uỷ Trung ương, bao gồm Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch, Tổng cục trưởng Tổng cục chính trị Lương Cường, Tổng tham mưu trưởng Phan Văn Giang và Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh.

Không có gì có thể cứu vãn được tình thế hiểm nguy của đất nước trong lúc này, ngoài một Hiệp định với Mỹ, kể cả một Hiệp định không công bố.

Bài Thơ Hay của Nguyên Thạch - THỨC DẬY ĐI ANH!

THỨC DẬY ĐI ANH!
Thức dậy đi anh mai lên đường chinh chiến
Phận làm trai phải dâng hiến cho non sông
Dân Tộc Quê Hương? Nhìn tan nát cõi lòng
Mẹ rướm lệ chờ mong con cứu nước.
Hỡi những mảnh đời lầm than xuôi ngược
40 năm dài, hỏi dân được gì chăng?
Khố rách, áo ôm, cơ cực, nhọc nhằn...
Mà cuộc sống vẫn khó khăn tiếp nối.
Thức dậy đi anh, cùng anh em đồng đội
Cùng toàn dân mở lối thoát đọa đày
Trùng điệp đau thương khắp chốn bủa vây
Vận mệnh đất nước? Trong tay anh, tay chị.
Ngọc bất trác thì ngọc kia nào quí
Là thanh niên, ý chí nhẽ lãng quên?
Nợ nước, con dân, há chẳng phải đáp đền?
Vai u thịt bắp... ngại lằn tên mũi đạn?.
Thức dây đi anh, chớ ngủ vùi năm tháng
2020 giặc Hán chiếm non sông
"Mật Nghị Thành Đô", đảng đã đồng lòng
Đẩy dân tộc vào cùm gông nô lệ.
Nhẽ cúi mặt chịu qui hàng đồ tể?
Há sinh ra làm giun dế phận hèn?
Lẽ nào mò mẫm mãi trong tăm tối đêm đen?
Kiếp trâu ngựa... dần quen cuộc sống!
Hãy thức dậy dẹp Hán nô phản động
Noi gương cha ông diệt Hán Tống Mông Nguyên 
Vùng lên đấu tranh hỡi trai gái khắp ba miền
Xóa bỏ cộng sản, đem bình yên cho đất mẹ.
Mau thức dậy và đứng lên anh nhé
Là thanh niên chớ là kẻ cúi đầu
Việt tộc kiêu hùng, chẳng là ngựa, chẳng là trâu
Há chấp nhận kiếp nô hầu nhục nhã?
Hãy thức dậy để giữ gìn non sông biển cả
Thức dậy đi và vội vã tiến lên đường
Góp bàn tay để gìn giữ Quê Hương
Dựng nước Việt trên con đường Dân Chủ.

Mai thanh bình hương hoa đơm nụ
Đã sạch tan bóng cờ rũ mưa sa
Cứu lấy Việt Nam, gìn giữ sơn hà
Khắp đất nước vang lời ca chiến thắng.
 
Nguyên Thạch

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2016

Tuấn Khanh: Đời làm chó, người làm báo

Một ngày 21/6 nữa đã bước qua, thêm một vạch kỷ niệm về báo chí Việt Nam thật ảm đạm. Có lẽ là lần đầu tiên trong lòng Báo chí Cách mạng, người ta nói trắng ra, việc làm nghề báo được coi như đời của chó. Và rồi thì báo giới rúng động, nói với nhau về chuyện húy kỵ chữ nghĩa, khiến người thì bị rút thẻ, người mất chỗ. Và quan trọng hơn là cả một năm dài, ngoài các đỉnh điểm trên, nghề báo không có gì tỏa sáng hơn được trên đất nước này, bao gồm cố rườm rà các câu chuyện lịch sử ẩn khuất, cá nhiễm độc, biển chết, cho đến việc tử nạn trên biển lạ thường của các sĩ quan quân đội.
Kỷ niệm nền báo chí cách mạng, người ta còn rút ra được một bài học lớn của báo chí Việt Nam: làm báo hôm nay, không phải để mở rộng biên giới của thông tin và ngôn luận. Làm báo phải học cách chuyên sâu tay nghề, rằng có viết ngàn con chữ, cũng phải luyện đủ công phu để khiển bao nhiêu ngôn từ ấy phải tự trói mình vô nghĩa, vô thanh.
Nghề báo bị ví với chó. Thậm chí được khuyên là đừng buồn nếu bị coi là chó, vì bởi dù sao cũng có sự cao quý của nó, do biết vâng lời và trung thành.
Chuyện làm báo biết vâng lời, gợi nhớ về vụ án Slansky (1952) tại Prague, thủ đô Tiệp Khắc cũ, bây giờ là Cộng hòa Czech. Đó là vụ án các nhà lãnh đạo CS Tiệp xử nhau, mà có đến 11 người bị xử treo cổ, 3 người tù chung thân. Trong số đó, Rudolf Slansky (1901-1952) là nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản đồng Phó chủ tịch Quốc hội. Một trong những lý do ngầm của việc thanh trừng, do ông Slanksy là một người gốc Do thái.
Cũng từ phiên tòa này, “phát minh” có một không hai của tòa án Cộng sản Tiệp đã trở thành sách giáo khoa về truyền thông thú tội trong thế giới tòa án và báo chí của Cộng sản. Tội nhân được cho thu sẳn lời thú tội vào băng nhựa, sau đó, khi ra tòa, thì băng được mở rì rì thay cho phần tội nhân tự nói (tội nhân mặt đối với quan tòa, quay lưng lại người đến dự phiên tòa với một khoảng cách xa). Nếu tội nhận có ý muốn phản cung, băng sẽ bị ngắt, tội nhân sẽ bị cho ngồi xuống với 2 công an kề bên cặp nách, kiểu như vì mệt quá hay do bị tạm ngất đi.
Nhiều thập niên liền, phương thức “nhận tội” hiện đại ấy lan rộng các phiên xử của chế độ cộng sản, được bổ sung bằng bản viết tay, video cắt xén qua thẩm vấn. Các buổi xử “công khai” ấy chỉ truyền thanh hay truyền hình qua phòng bên cạnh, chứ không cho vào xem trực tiếp, dù chỉ nhau cách một cánh cửa. Sau khi Liên Xô và cộng sản Đông âu sụp đổ, hiện còn một vài quốc gia áp dụng hình thức thô bỉ này.
Nói về chuyện này, để nhắc cho các bạn tôi nhớ rằng nhiều thập niên trước, không ít “con chó” của các triều đại cộng sản vẫn chép lại trên báo các nội dung ghi âm đẫm máu và nước mắt đó, chép lại các bản tin do công an gửi đến, và gọi đó là nghề làm báo thời sự – tường thuật. Họ vẫn được vinh danh, được thưởng không khác gì đã khó nhọc đi săn tin. Quả là không có gì so sánh sống động hơn nghề làm báo trong các triều đại cộng sản như vậy, là thời huy hoàng những loài chó săn tin và báo tin, trung thành và cao quý.
Thế còn những người làm báo tự do? Tôi nghĩ có bổng lộc đến mấy, chắc họ cũng không nhận mình là chó. Vì chó thì phải có chủ và được cho ăn. Còn người làm báo tự làm chủ tư duy của mình, họ kiếm sống lương thiện để phục vụ cho sự thật, cho con người nói chung.
Trong Luận ngữ viết vào năm 2015 của ông Lưu Hiểu Ba: “Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa”, người nhận giải Nobel Hòa bình năm 2010 này có nói về những loại chó học đòi một lý tưởng nhưng lại không có nổi một quê hương tinh thần trong đời mình, vì vậy chỉ còn cách chọn chủ để sủa hay cắn xé một ai đó theo lệnh. Nếu xui rủi mất chủ thì cũng chỉ là một loài chó lang thang hèn hạ, chứ không thể nào có được sự tự do kiêu hãnh của một con chó sói trên đồng hoang hay núi cao.
Nói chuyện chó, chợt thấy ngạc nhiên vì trùng hợp đến lễ ăn thịt chó hàng năm ở Ngọc Lâm (Quảng Tây, Trung Quốc), cũng vào cuối tháng Sáu hàng năm. Nơi đó, chó trung thành hay cao quý cũng đều bị đem làm thịt. Vì bản chất nuôi và tuyển chọn chó ở một số nơi, rốt cuộc chỉ là để mua vui và kiếm lợi cho kẻ làm chủ. Chó có được tuyển chọn và huấn luyện tốt như nào, cũng là phần để hy sinh cho mục đích cuối cùng của lễ hội. Phần ăn hôm qua, luôn bị trả giá cho hôm nay.
Chắc chắn chó thì không thể có nỗi đau như của con người, nên trong vụ án Slansky 1952, người ta chỉ thấy giá trị phục vụ chứ không thấy giá trị đạo đức truyền thông của ngành báo chí. Nói đến đây, tôi lại muốn kể với bạn rằng những ngày biểu tình của người dân đòi minh bạch lý do cá chết, có những nhà báo âm thầm xuống đường ghi nhận mọi thứ dù không được tòa soạn phái đi. Những con người đó bị thúc đẩy bởi tính đạo đức nghề nghiệp nên xông vào chỗ mà họ cũng không có quyền được đến. Họ cũng bị bắt, bị đánh, bị nhốt vào sân Hoa Lư đến tận đêm, chỉ vì muốn chia sẻ mọi hiện trạng khốn cùng của người dân. Có những nhà báo bị đuổi việc, mất chỗ làm khi cùng đứng với nhân dân. Dù có bị ví hay răn đe là phải sống như “chó”, họ cũng không thể là vậy.
21 tháng 6 năm nay, chẳng có ai vinh danh các nhà báo không ăn lương nhà nước. Nhưng nếu nhiều năm nay, không có họ, những con người làm báo tự nguyện ấy, không biết người dân sẽ sống sao với đất nước đang dẫy đầy chuyện mù mờ. Chính họ là người đã điều chỉnh mọi thứ về cái đúng. Từ chuyện giải dịch đúng “tàu lạ” thành “tàu Trung Quốc” cho đến “sai quy trình” thành “vấn nạn.” Bóc trần từ ngữ “công trình thế kỷ” thành “bê-tông cốt tre” hay “ra văn bản” rõ thành “lạm quyền.” Những nhà báo đó góp phần tố cáo những kẻ đạp trên luật pháp, minh bạch những án oan và giải cứu cả tử tù.
Biển nhiễm độc, cá chết, các loại quan tham giấu mặt bằng ngôn từ mị dân… kể cả các loại quan lớn luôn thích tuyên ngôn mà không giữ được lời đều bị đưa ra trước ánh sáng và nhân dân. Video về biển miền Trung của Nguyễn Lân Thắng có lẽ là tường trình duy nhất minh bạch hiện trạng môi trường và con người khốn cùng lúc này, trong buổi truyền thông chung bị khép chặt mọi thứ, cùng tiếng sỉ vả “với động cơ nào?.” Nhờ truyền thông tự do của con người – dành cho con người – như trang Ba Sàm hay trang Nguyễn Xuân Diện…, mà nhân dân mới biết được kẻ mang lon tướng như Phạm Xuân Thệ, cướp công đồng đội Bùi Văn Tùng, đã đạo đức giả như thế nào khi lên giọng về tình chiến hữu. Và âu cũng là dịp để người người được biết về đức phục vụ và trung thành như thế nào của ông Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn, khi mau mắn rút thẻ của nhiều nhà báo như Đỗ Hùng, Mai Phan Lợi… giúp chứng minh rõ hơn những gì người ta ví von về đời làm báo ở Việt Nam.
Ngày kỷ niệm nhà báo cách mạng nghe mỗi lúc càng nhạt. Chính làng báo chí nhà nước cũng cảm thấy ngại ngùng khi tự ca hát về mình trong ngày này. Không còn cách mạng trong truyền thông. Mà chỉ còn nẹp lưng vào tường, lần mò theo định hướng, lần mò tự kiểm duyệt để không ốm đau từ các con chữ mang dấu sắc cho đến lúc tan xác.
Thật buồn cho một nền báo chí mà từ thời khai sinh, đã luôn xiển dương ý thức tự do. Buồn cho một nền truyền thông chỉ còn sứ mạng xô đẩy các phong trào cảm xúc đời sống, để tiện che chắn cho những điều mà nhân dân cần được biết, cần được nói tới. Buồn cho những nhà báo dẫu có ăn lương nhà nước nhưng trái tim trong sáng, vẫn phải lặng nghe miệng kẻ ví von mình là chó.

Hãy mơ đến một ngày mới. Tôi và bạn nhất định phải ước mơ đến, nhé. Ngày của người làm báo bình thường và chân chính chỉ muốn tận hiến cho sự thật và cho quê hương. Ngày đó chẳng có ai sẽ phải bị gọi tên là “chó”. Và dù có bị khoác áp lên mình bộ lông sặc sỡ đến đâu, họ cũng sẽ rũ sạch và đứng lên, bắt đầu lại với một sứ mạng duy nhất: chuyển tải sự thật và lẽ phải. Ngày đó, mới thật sự là của những con người làm báo.
Tuấn Khanh

Bùi Quang Vơm: Chiến tranh Biển Đông đã bắt đầu?

Trung Quốc không còn lựa chọn
Phán quyết của Trung tâm trọng tài quốc tế La Haye PCA, dự kiến sẽ công bố vào ngày 7/7/2016. Khả năng Toà sẽ bác bỏ chủ quyền đường lưỡi bò do Trung Quốc tự ý đặt ra. Âm mưu độc chiếm biển Đông của Trung Quốc đối mặt với nguy cơ phá sản. Sau phán xét, nếu tiếp tục gây hấn, chiếm đọat các hòn đảo đá còn lại, Trung Quốc sẽ rơi vào tình trạng cố tình vi phạm luật pháp quốc tế. Không chỉ thể diện, hình ảnh của Trung Quốc bị tổn thương, uy tín quốc tế về mặt ngọai giao bị giảm sút, mà có khả năng Trung Quốc đối diện với một lệnh cấm vận quốc tế toàn diện.
Cuộc cấm vận do nhóm G7 và Liên hiệp châu Âu trừng phạt việc sáp nhập phi pháp bán đảo Crimé, đã làm cho nền kinh tế của Nga điêu đứng. “Các nhà lãnh đạo thuộc Nhóm 7 nước có nền công nghiệp phát triển (G7) hôm 7/6/2016 tiếp tục duy trì trừng phạt đến khi nào Tổng thống Nga Vladimir Putin và phe ly khai tuân thủ hoàn toàn thỏa thuận hòa bình Minsk”. Đây là ý chí duy trì luật pháp quốc tế của nhóm quốc gia đại diện cho Hành tinh. Cũng là một quyết tâm ngăn chặn một tiền lệ sử dụng sức mạnh cho tham vọng chủ quyền. Trừng phạt Nga, nhưng trên thực tế là một cảnh báo trực diện đối với các toan tính của Trung Quốc.
Với một nền kinh tế dựa chủ yếu vào xuất khẩu hàng hoá, sản lượng công nghiệp chiếm 42,6% tổng GDP và 24 triệu lao động, trong khi 70% nguyên liệu nhập từ nước ngoài, nếu chịu một cuộc cấm vận toàn diện, Trung Quốc khó tránh khỏi sụp đổ. Chỉ cần giảm 50% sản xuất công nghiệp, 12 triệu người rơi vào thất nghiệp sẽ là một đe dọa bạo loạn xã hội.
Vì vậy, trước khi Trọng tài Quốc tế PCA phán xét, Trung Quốc buộc phải tìm mọi cách để thực hiện xong chương trình chiếm đọat hoàn toàn biển Đông để tạo thành thế đã rồi. Bất kể PCA phán xét như thế nào, khi Trung Quốc đã chiếm được Trường Sa, thì việc lật lại tình thế là không thể. Kinh nghiệm đã cho thấy như vậy cho đến thời điểm hiện tại. Phản ứng của Mỹ và thế giới dù gay gắt, quá trình bành trướng của Trung Quốc chỉ dừng, rồi tiếp tục, chứ chưa bao giờ lùi lại.
Mục tiêu chiếm đoạt sẽ là Scarborough của Philippines và toàn bộ các hòn đảo, đá của Trường Sa đang trong tay Việt Nam.Trường Sa và Scarborough chiếm được, sẽ cùng Hoàng Sa tạo ra tam giác lõi của biển Đông, kiểm soát trên thực tế hoàn toàn vùng biển bên trong đường lưỡi bò, biến phán quyết của Toà trọng tài PCA thành vô hiệu. Mỹ chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh trực tiếp với TQ, trong khi Việt Nam, dù đang nỗ lực sáp gần Mỹ, vẫn còn đơn độc, chưa liên kết được với Nhật và với Mỹ bằng một Hiệp định phòng thủ chung, vì vậy, Trường Sa của Việt Nam phải được chiếm trước khi việc này trở thành phi pháp sau phán xét của Trọng tài và trước khi một liên minh phòng thủ với Mỹ Nhật được hình thành.
Từ sau Shangri-la 15, và sau hội nghị đặc biệt các bộ trưởng ngoại giao ASEAN Trung Quốc tại Côn Minh, dù có sự phản bội công khai của Cămpuchia,Trung Quốc thấy rõ tình thế bất lơị. Trung Quốc đang bị cô lập. ASEAN đa số đứng về phe Mỹ và Nhật, bảo vệ luật pháp quốc tế.
Bất kể bà Hillary hay ông Trump trúng cử, sau bầu cử tổng thống tháng 11/2016, chính sách của Mỹ chống lại mưu toan bành trướng của Trung Quốc sẽ cương quyết và gay gắt hơn rất nhiều. Bà cũng không hề giấu diếm thái độ không nhân nhượng, trong khi Trump không ngại dùng vũ lực.
Cơ hội rõ ràng đang mất dần. Thời gian không ủng hộ Trung Quốc. Tham vọng chiếm đọat biển Đông hoặc phá sản, hoặc phải trả giá rất đắt.
Trung Quốc cần một lý do để phát động một cuộc chiến trừng phạt, giống như từng “dạy cho Việt Nam một bài học”năm 1979. Và như mọi cuộc chiến tranh, Trung Quốc cần một sự kiện, giống sự kiện vịnh Bắc bộ năm 1964.
Thủ phạm là Trung Quốc?
Tờ Quân giải phóng Trung Quốc ngày 17/6 đưa tin, “ngày 13/6 một biên đội chiến hạm hạm đội Nam Hải đã triển khai tập trận bắn đạn thật 4 ngày đêm liên tục ở Biển Đông. Lực lượng này đã diễn tập các nội dung tấn công tàu ngầm, phòng ngự phòng không, bắn đạn thật”. Cùng một lúc với lệnh huy động tái ngũ các quân nhân hải quân có kinh nghiệm và tinh thông kỹ thuật.
Ngày 15/06, có vẻ như thấy được điều gì đó, Mỹ lập tức điều 4 máy bay tấn công điện tử cùng với 120 sĩ quan tới Philippines. Scarborough của Philippines đã được đề phòng.
Sáng ngày 14/06/2016, chiếc máy bay SU-30KM2 cất cánh lúc 6h30 và đến 7H29 thì mất liên lạc, bị rơi sau “một tiếng nổ lớn trong khoang lái” theo lời kể của thiếu tá Cường, khi chỉ còn cách mục tiêu tập luyện 15 km, và cách bờ chỉ khoảng 20 km. Cả hai phi công đều kịp bung dù và rơi xuống biển. Sau đó thông tin xác minh SU-30KM2 bị vỡ thành nhiều mảng vụn.
3h30’ sáng ngày 15/06, thiếu tá Nguyễn Hữu Cường được một ngư dân Lê Văn Cương phát hiện và đưa vào bờ. Nguyễn Hữu Cường sức khoẻ tốt, chỉ xước tay do dây dù.
9h30’ ngày 16/06 chiếc máy bay thứ hai CASA 212 cất cánh từ Gia Lâm bay ra đảo Bạch Long Vĩ, tìm kiếm thượng tá Trần Quang Khải, khi “phát hiện một vật giống phao bơi, xin phép hạ độ cao, bay vòng xuống thì mất liên lạc, rơi xuống biển vào lúc 12h30’”.
Trên máy bay có 9 người, do Đại tá Lê Kiêm Toàn, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 918 điều khiển. Sau đó, trong hai ngày tiếp theo, người ta tìm thấy rất nhiều mảnh vụn của CASA 212.
“Theo nguồn tin của Thanh Niên, trong tối qua 16.6, các tàu tham gia tìm kiếm cứu nạn đã phát hiện một số mảnh vỡ nghi là của máy bay CASA 212 gặp sự cố mất liên lạc với sở chỉ huy lúc 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi đang làm nhiệm vụ bay tìm kiếm phi công của máy bay Su-30MK2. Máy bay CASA 212 được cho là đã rơi xuống biển gần với đảo Bạch Long Vĩ và nằm ở độ sâu khoảng 58 m về phía đông đường phân định Vịnh bắc bộ. Trong đêm ngày 15.6, Bộ Quốc phòng đã giao cho Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn, Cục Cứu hộ cứu nạn (Bộ Quốc phòng) và Quân chủng Hải quân lập kế hoạch và lên phương án chi tiết để trục vớt máy bay CASA 212. Trong đêm qua, khoảng hơn 10 tàu của các lực lượng tìm kiếm túc trực xung quanh vùng biển nói trên để bảo vệ và phong toả hiện trường. Các nguồn tin từ chối bình luận các thông tin liên quan đến tính mạng của 9 cán bộ, chiến sĩ trên CASA 212 khi máy bay này gặp sự cố và rơi xuống biển”.
Báo Thanh niên ngày 17/06/2016: “Đã xác định chính xác vị trí Su-30MK2 rơi – Chuẩn bị phương án trục vớt.
Cho đến sáng nay, lực lượng tìm kiếm cứu nạn đã xác định tương đối chính xác vị trí máy bay Su-30MK2 trên vùng biển Nghệ An”.
Nhưng ngày 20/069, cũng báo Thanh niên lại đưa tin:“Lúc 8 giờ 15 sáng qua (19.6), tàu CSB-4039 thuộc Bộ Tư lệnh Vùng cảnh sát biển 1 phát hiện nhiều dấu hiệu nghi là của máy bay CASA212 số hiệu 8983”.
Ngay từ đầu, người ta đã nghi vấn hai chiếc máy bay này đều cùng bị bắn, nhưng đuổi theo thông tin chính thống thì mật hướng.
Bình luận với BBC hôm 17/6/2016, trước hết ông Nguyễn Thành Trung, nguyên Phó Tổng Giám đốc Vietnam Airlines cho rằng chiếc CASA-212 ‘chắc chắn đã bị một va đập rất mạnh’ khi rơi xuống biển qua những thông tin mà ông biết được, trong đó có các hình ảnh về các mảnh xác của phi cơ tìm kiếm, cứu hộ của Cảnh sát biển Việt Nam.
Dựa trên những hình ảnh nhận được, ông Nguyễn Thành Trung nói, «có thể khẳng định được là chiếc phi cơ CASA-212 đã bị tai nạn khiến vỡ ra».
“Nếu chủ động được thì đã có thể hạ cánh trên biển, và tôi nghĩ là phi cơ đã không vỡ như thế. Còn với các mảnh vỡ như thế thì chắc chắn đã có những va chạm rất mạnh của máy bay với mặt nước,”(?!), không loại trừ nguyên nhân ‘thời tiết thay đổi đột ngột’, tuy rằng ông nói “khu vực Bạch Long Vĩ là một khu vực bay ‘bình thường’ như nhiều địa điểm khác dọc bờ biển Việt Nam”.
Không do thời tiết, máy bay đang hoạt động bình thường, ở độ cao thấp, “Cùng tham gia tìm kiếm với tổ bay Casa-212, còn có 5 tổ bay khác gồm hai chiếc DHC-6 của Không quân Hải quân, một chiếc Mi171 của Sư đoàn Không quân 371 và hai chiếc AN-26 của Lữ đoàn 918. Trong khi DHC-6 bay ở độ cao 500m thì Casa-212 bay ở độ cao 150m để quan sát mục tiêu” phát hiện vật giống phao bơi và đang quay vòng hạ độ cao, thì rơi xuống và “vỡ do va đập mạnh với nước”?!“Cụ thể, vị trí máy bay được xác định ở phía Đông đường phân định giữa Việt Nam và Trung Quốc”, nghĩa là thuộc lãnh hải và không phận của Trung Quốc.
Tại sao ngay tối 16/06 đã xác định điạ điểm CASA 212 rơi và nằm ở độ sâu 58 m, bộ chỉ huy đã họp để bàn kế hoạch trục vớt, và bố trí hàng chục tầu phong toả bảo vệ, sau đó lại tiếp tục tìm kiếm và vẫn chưa tìm thấy? Theo báo Thanh niên, “Lúc 8 giờ 15 sáng qua (19.6), tàu CSB-4039 thuộc Bộ Tư lệnh Vùng cảnh sát biển 1 phát hiện nhiều dấu hiệu nghi là của máy bay CASA212 số hiệu 8983”.
Tại sao khi đã biết Trung Quốc tập trận bắn đạn thật ngoài biển Đông mà còn cho máy bay chiến đấu tập trên biển, thậm chí vi phạm vùng trời thuộc không phận Trung Quốc? Lệnh xuất kích bay tập vào thời điểm như vậy, có mục đích gì?
Vị trí rơi đã xác định được ngay từ đầu “Ngày14/06/2016, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An cho biết vị trí cuối cùng mà chiếc máy bay Su-30MK2 mất liên lạc ở phía Đông, cách đảo Hòn Mắt khoảng 6-7km, cách đất liền khoảng hơn 26 hải lý.
Theo báo Thanh Niên, “Ngư dân Lê Văn Cương đang đánh bắt cá trên biển cho biết, lúc 8 giờ 30 phút cùng ngày, ngư dân phát hiện 1 máy bay rơi tại vùng biển khoảng 18-19 độ vĩ bắc, 106,4 độ kinh đông, cách đảo Mắt (thị xã Cửa Lò, Nghệ An) về phía đông khoảng 4-6 hải lý“. Nhưng mặc dù huy động mọi phương tiện, đến “ngày hôm nay 20/06, vẫn chưa xác định được vị trí rơi của SU-30KM2”?!
Tại sao thiếu tá Nguyễn Huy Cường, “tôi sức khoẻ tốt chỉ bị xước tay do cọ sát dây dù” mà phải nhập viện quân y 108, với lý do để kiểm tra sức khoẻ, nhưng đến nay vẫn chưa được về nhà, phải chịu bỏ lễ tang đại tá Trần Quang Khải và không được tiếp xúc với giới truyền thông? Chỉ cần gặp hỏi Nguyễn Hưũ Cường có thể xác định ngay nguyên nhân SU-30 KM2 bị nạn, nhưng Trung tướng Phan Văn Giang nói “nguyên nhân tai nạn phải tìm được máy bay mới xác định được”. Thiếu tá Nguyễn Hữu Cường có khả năng sẽ điều trị lâu dài, và có nguy cơ bị mất trí nhớ. Trong nhiều giờ trên thuyền cùng ngư dân Lê Văn Cương, chắc chắn đã vô tình tiết lộ. Chắc chắn ông Lê Văn Cương sẽ bị chính quyền thẩm vấn, và nếu ông này biết được điều gì, thì nhất định ông này cũng sẽ bị đưa đi biệt tăm, hoặc bị bệnh cấm khẩu.
Sẽ có người nói, người viết theo thuyết âm nưu. Đúng, chúng ta rất khó để tránh được một ngộ nhận về thuyết âm mưu, vì diễn biến chính trường Việt Nam thực chất là diễn biến của những âm mưu, âm mưu chiếm đoạt của Trung quốc, và âm mưu kéo dài sự tồn tại của chế độ cộng sản, được xếp đặt, chế biến thông tin truyền thông bằng những âm mưu của ban tuyên giáo. Không có cách nào khác là phải mò mẫm đoán nhận sự thật sau những chồng chéo âm mưu đó. Nguyên tắc của chúng ta là lợi ích dân tộc trên hết, cho dù có thể đúng, có t̉hể sai.
Thái độ của Việt Nam
Tối ngày 16/06/2016, lúc 17h30′, tại bộ Trụ sở bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch triệu tập họp thường vụ Quân uỷ Trung ương, yêu cầu tập trung trước hết vào việc ổn định tư tưởng bộ đội. Lúc 21h30′, tại trụ sở Bộ Quốc phòng, thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh, Thường vụ Quân uỷ bao gồm:
– Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kiêm bí thư Quân uỷ Trung ương
– Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia
– Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, phó chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia
– Bộ trưởng Bộ quốc phòng Ngô Xuân Lịch, phó bí thư Quân uỷ Trung ương
– Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Thượng tướng Lương Cường.
– Tổng tham mưu trưởng, Trung tướng Phan Văn Giang
– Thứ trưởng thứ nhất Bộ quốc phòng, phụ trách đối ngoại và phát ngôn, thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh.
Xét thành phần họp khẩn cấp này, người ta liên tưởng tới một quyết định liên quan tới vấn đề chiến tranh và hoà bình của đất nước. Một quyết định có thể được đưa ra, và lựa chọn là tránh một xung đột, tạo ngòi chiến tranh với Trung Quốc.
Lúc 21h30′, thượng tướng Vịnh gặp Đại sứ Trung Quốc gặp Đại sứ Trung Quốc đề nghị phía Trung Quốc cho phép phương tiện Việt Nam đi lại trong hải phận phía Đông đường phân giới vịnh Bắc bộ và đề nghị Trung quốc hỗ trợ tàu thuyền tìm kiếm tai nạn.
Gặp đại sứ vào lúc 21h30′ tại Trụ sở Bộ Quốc phòng phải có lệnh triệu tập của Chính phủ. Nếu chỉ để xin phép sử dụng lãnh hải và không phận, và nhờ hỗ trợ tìm kiếm, có thể triệu tập khẩn đại diện ngoại giao của một nước không?
Nếu chỉ do tại nạn, có hệ trọng tới mức triệu tập khẩn cấp họp Thường vụ Quân uỷ, vào lúc cuối buổi chiều không?
Sáng ngày 17/06, Đại sứ Mỹ Ted Osius thông báo “Hôm nay, nước Mỹ cùng sát cánh đoàn kết với Việt Nam khi các bạn tìm kiếm một phi công bị mất tích, Thượng tá Trần Quang Khải, và những con người dũng cảm trong đội tìm kiếm và cứu nạn trên máy bay CASA 212 8983. Nước Mỹ sẵn sàng hỗ trợ các bạn bằng bất cứ cách nào mà chúng tôi có thể” . Nhưng chính phủ Việt Nam không có phản hồi. Không hề có tiết lộ gì về thái độ của Việt Nam với lời gợ̣i ý của Mỹ. Đại sứ Mỹ sử dụng kênh Facebook để gửi thông điệp cho thấy, Mỹ muốn chuyển thiện ý của Mỹ tới người dân Việt Nam, và thông điệp ông gửi phải hiểu thế này: “chúng tôi biết cả rồi, chúng tôi sẵn sàng, nhưng chúng tôi tôn trọng quyền quyết định của các bạn”.
Tuy nhiên, lực lượng của hải quân Mỹ vẫn được huy động với tư thế sẵn sàng, đã sẵn sàng.
Ngày 20/06/2016, báo Petrotimes đưa tin “Mỹ điều một lúc hai binh đội hải quân, dẫn đầu bởi hai tàu sân bay hạt nhân John C. Stennis và Ronald Reagan đến vùng biển phía nam của Philippines, nhằm ngăn cản những hoạt động của hải quân Trung Quốc ở Biển Đông, tờ báo Nhật Bản Asahi dẫn nguồn tin từ Bộ chỉ huy Hạm đội 7 của Mỹ”. “Để tăng áp lực lên Trung Quốc, theo Asahi, trong tháng này Mỹ cũng đã triển khai tại căn cứ quân sự Clark Field ở Philippines bốn máy bay tác chiến điện tử. Nhiệm vụ của chúng là gây nhiễu các radar mà Bắc Kinh triển khai trên những hòn đảo nhân tạo”.
Những sự việc liên tiếp, ban đầu đơn giản và dễ dàng phán đoán, càng về sau càng trở nên rắc rối như có vẻ như cố tình sắp đặt và chuyển hướng dư luận.
– Rõ ràng, hai chiếc máy bay của Việt Nam đều do tên lửa thuộc lực lượng hải quân Trung Quốc đang tập trận bắn đạn thật tại biển Đông bắn hạ. Sự cố đều xảy ra đột ngột trong lúc đang hoạt động bình thường và thời tiết tốt. Xác của chúng vỡ thành những mảnh vụn, rơi từ một độ cao thấp và phía bên trong hải không phận của Việt Nam.
– Việt Nam đã có đủ căn cứ để khẳng định, nhưng Việt Nam quyết định không tạo cớ cho Trung Quốc lợi dụng tạo thành xung đột. Kéo Trung Quốc vào chiến dịch tìm kiếm, trong khi thực chất đã tìm được là “tương kế, tưụ kế”.
– Không nhờ Mỹ và không để Mỹ tham gia tìm kiếm là để tránh đổ thêm dầu vào lửa.
– Xác hai chiếc máy bay đang được tiếp tục trục vớt, có thể xác 9 nạn nhân CASA 212 đã được vớt, nhưng chưa được phép công bố. Và cả hai máy bay này sẽ bị rơi trên hải phận của Trung Quốc, để nếu không giấu được nguyên nhân do tên lửa Trung Quốc bắn hạ thì lỗi do phía Việt Nam.
– Việc hoá giải âm mưu gây chiến của Trung Quốc, nếu đúng như dự đóan của chúng ta, là quyết định đúng, “cao tay”, nhưng chỉ đúng với tình huống. Nguyên nhân của sự kiện vẫn còn nguyên.
– Thời gian còn lại trước phán quyết của PCA không còn nhiều. Sẽ có những sự kiện khác. Sẽ tiếp tục có các cuộc tập trận bắn đạn thật. Sẽ có tàu Việt Nam Hải quân Việt Nam bị bắn chìm do nhầm lẫn vi phạm hải phận. Sẽ có tàu thuyền Trung Quốc bị Cảnh sát biển Việt nam bắt giữ, sẽ có binh lính hải quân Trung Quốc bị bắn chết tại biển của Trường Sa lớn, hay Song Tử Tây, v.v…. Nếu không kịp trước thì sự cố sẽ xảy ra ngay sau công bố của PCA, tức là sau 07/07/2016. Bằng mọi cách, đảo Trường Sa lớn của Việt nam sẽ phải bị tiêu diệt, và Trung Quốc sẽ đổ bộ xuống toàn bộ những hòn đảo, đá đang hiện diện của quản lý Việt Nam. Lính hải quân và dân cư trên những hòn đảo nhỏ này, khó tránh thóat những biến cố tới đây.
– Thể diện và uy tín quốc tế của Trung Quốc là không thể giữ được. Trung Quốc nhất định đổi nó bằng lợi ích chiến lược lâu dài. Chiếm đoạt chủ quyền toàn bộ biển Đông, những lợi ích của nó cho phép Trung Quốc chiếm lại ngôi vị bá chủ chia đôi Thái Bình Dương, sẽ biến những mất mát tình huống thành vô nghĩa.
Giải pháp nào?
Với Việt Nam, hiển nhiên biển Đông là toàn bộ sự sống còn của quốc gia dân tộc. Chế độ có thể đến rồi đi, thể chế chính trị có thể có rồi hoán đổi. Nhưng đất nước, dân tộc không thể mất. Lựa chọn đất nước thay cho chế độ là lựa chọn bắt buộc.
Cuộc chiến tranh trên biển sẽ kết thúc chóng vánh, vì Việt Nam chưa có một Hiệp định an ninh chung với Mỹ, chưa có một Hiệp định đồng minh với Nhật. Nếu Mỹ, Nhật không có căn cứ pháp lý để can thiệp thì Trường Sa của Việt Nam chỉ một đêm là về tay Trung Quôć. Và một khi đã lọt vào tay Trung quốc, thì Trường Sa lớn, Song tử Tây, Sơn Ca v.v… sẽ trở thành Đá Chữ thập, Gạc Ma, thành Vành khăn, thành Hoàng Sa, không bao giờ còn trở về với Việt nam được nữa, nếu không có một cuộc chiến tranh chính thức và kết thúc bằng sự đầu hàng vô điều kiện của Trung Quốc.
Bao giờ và lúc nào, Việt Nam đủ sức đơn phương chiến tranh với Trung quốc? Sẽ đến lúc nào đó, con cháu Việt giàu có và mạnh hơn Trung Quốc! Nhật bản đang mạnh hơn Trung quốc về kinh tế và trình độ phát triển, nhưng một cuộc chiến, thì Nhật đơn phương không phải là đối thủ.
Một cuộc chiến, dù chỉ trên biển Đông, và dù có thể kết thúc trong vài giờ, nhưng nguy cơ lây lan không thể tránh, và nguy cơ mất nước không thể không tính đến. Người Việt có thói quen dọn dẹp nhà cửa trước khi đón khách. Trước khi đối phó kẻ địch đến từ bên ngoài, phải dọn dẹp kẻ địch bên trong.
Phải đóng cửa biên giới, phải phong toả tất cả những nơi có người Trung Quốc. Trước khi có chiến tranh 1979, Lê Duẩn và Nguyễn Đức Tâm đã dọn sạch người Hoa tại Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Nhưng làm những việc này, sẽ gây ra những thiệt hại mà nền kinh tế Việt Nam không thể chịu nổi. Và không còn kịp được nưã. Trước khi dọn xong, thì nhà chắc đã mất.
Phải vô hiệu hoá tay chân, gián điệp Trung Quốc nằm trong bộ máy đảng và chính phủ. Nhưng bọn này đang có mặt mọi nơi, ngay trong bộ chính trị, ngay trong bộ quốc phòng, bộ công an, dọn được lũ này, liệu chế độ còn không.
Cần gấp một cơ chế để Mỹ có quyền can thiệp trong bất kỳ một tình huống khẩn cấp nào. Bởi vì nguyên tắc bất di bất dịch của Trung Quốc là bằng mọi giá tránh chiến tranh trực tiếp với Mỹ. Trung Quốc sẽ dừng lại ngay trước khi Mỹ tham chiến, dàn xếp tay đôi với Mỹ, nếu không bị ràng buộc bằng một hiệp định, Mỹ hay bất cứ quốc gia nào đều có thể không thoát được nguyên lý, “nếu không mua được bằng lợi ích thì sẽ mua được bằng rất nhiều lợi ích”. Trong khi Mỹ rất cần một lý do đủ quan trọng để có thể áp dụng lệnh cấm vận toàn diện với Trung Quốc, bằng cách đó làm cho Trung Quốc suy sụp, không còn sức để tham vọng bá chủ. Nếu không có một Hiệp định để công khai trấn áp Trung Quốc, Mỹ sẽ không can thiệp để sau đó lấy cớ trừng phạt. Kẻ thua thiệt là Việt Nam.
Không thể để mất đảo, mất biển, vì nếu mất đảo, mất biển vào tay Trung Quốc, đảng cộng sản sẽ không gánh nổi trách nhiệm. Dân sẽ nổi dậy, chế độ cộng sản sẽ biến mất. Một Chính phủ mới lâm thời sẽ được lập ra ngay tức khắc ký Hiệp định yêu cầu Mỹ, Nhật, Liên Hiệp Quốc, thậm chí cả NATO can thiệp.
Đây là thông điệp mà chúng ta muốn chuyển tới những kẻ đang cầm quyền tại Hà Nội.

Paris ngày 21/06/2016