Thứ Tư, 26 tháng 9, 2018

Nguyễn Gia Kiểng : VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ, TỪ MANH ĐỘNG ĐẾN HÀNH ĐỘNG


Hình ảnh: Các cuộc biểu tình lớn tại Đông Âu vào năm 1989

"...Trong lịch sử của các dân tộc, những cuộc đổi đời lớn đều là thành quả của những nhóm nhỏ đã có đủ trí tuệ để nhìn thấy hướng đi phải có cho xã hội và đã kiên trì đấu tranh, chấp nhận mọi cố gắng và hy sinh cho lý tưởng của họ. Sau cùng họ đã đánh bại được những tập đoàn cầm quyền nhiều lần mạnh hơn họ về cả phương tiện lẫn số lượng bởi vì họ là hiện thân của một tương lai bắt buộc phải đến trong khi tập đoàn cầm quyền là hiện thân của một hiện tại phải qua đi. Và vì họ đã có đủ quyết tâm, dũng cảm và kiên trì, để vượt qua mọi thử thách. Sự hưởng ứng của quần chúng sau cùng đã đến như là phần thưởng của thắng lợi."  - Tháng 4/2010
*****
Người dân chủ nào không có cảm tình với Nguyễn Văn Lý khi nhìn tấm hình ông bị bịt miệng giữa phiên toà? Nguyễn Văn Lý đã sống bất khuất trong tù và chỉ được tạm phóng thích trong tình trạng sức khỏe nguy kịch, điều này lại càng làm tăng thêm sự kính phục đối với ông. Vậy mà chỉ sau một vài lời tuyên bố mới đây của ông đa số những người tôi quen biết, ở Việt Nam cũng như tại hải ngoại, trước đây từng ủng hộ Nguyễn Văn Lý rất nhiệt tình đã tỏ ra thất vọng về ông; trong một vài trường hợp tôi có cảm tưởng họ không chỉ thất vọng với Nguyễn Văn Lý mà còn ngoảnh mặt luôn với Khối 8406 mà ông là linh hồn. Sự kiện này chứng tỏ một điều: uy tín là điều khó có nhưng lại dễ mất.
Nói chung người ta phê phán Nguyễn văn Lý đã nhận xét quá hời hợt về tiến trình dân chủ hoá tại các nước trong vùng, đã nói cuộc đấu tranh cho dân chủ chỉ có ý nghĩa và chỉ có hy vọng nếu có một chủ thuyết hoàn chỉnh, một lãnh tụ tài đức vẹn toàn và một tổ chức "phải hội đủ nhiều điều kiện lắm". Chắc chắn đây là những điều Nguyễn Văn Lý đã suy đi nghĩ lại nhiều lần trong tù. Trước đây có lẽ ông cho rằng đấu tranh chính trị không phức tạp, chỉ cần có tấm lòng và sự dũng cảm, không cần tư tưởng chính trị, thành lập và lãnh đạo một tổ chức đấu tranh chính trị cũng không khó. Ông liên tục đưa ra những tuyên ngôn, tuyên cáo, thành lập trong vòng vài tháng ba tổ chức - Đảng Thăng Tiến Việt Nam, Liên Minh Dân Chủ và Nhân Quyền, Liên Đảng Lạc Hồng - với cùng một số người thân tín ít ỏi và bắt đầu vận động quần chúng ngay từ khi chưa có chuẩn bị nào.
Những thất vọng của các thân hữu nói trên đối với Nguyễn Văn Lý đều đúng cả, tuy nhiên riêng tôi thì lúc này tôi lại có cảm tình với ông hơn trước. Nguyễn Văn Lý đã "giác ngộ đấu tranh". Dù chưa nhìn ra giải pháp, các vấn đề Nguyễn Văn Lý nêu ra: tư tưởng chính trị (mà ông gọi là chủ thuyết), tổ chức và lãnh đạo đều là những vấn đề có thực và cho tới nay chưa được tiếp cận một cách nghiêm chỉnh. Người ta vẫn vội vã vận động quần chúng đứng dậy đấu tranh trong khi chưa mảy may chuẩn bị những điều kiện tối cần thiết để có thể động viên quần chúng và để lãnh đạo quần chúng trong trường hợp vạn nhất quần chúng hưởng ứng. Hậu quả chỉ là những tranh đua gây tiếng vang, rồi gây thất vọng. Manh động hơn là hành động. Nguyễn Văn Lý, bằng những phát biểu mộc mạc đã góp phần cảnh tỉnh đối lập dân chủ Việt Nam.
Chung quanh chủ đề đấu tranh chính trị - và vận động quần chúng để giành thắng lợi - đã có rất nhiều thảo luận, nhiều đến nỗi người ta dễ quên những điều cơ bản nhất, những điều mà một người đấu tranh cho dân chủ không được quyền quên hay không biết nếu muốn thực sự hành động thay vì chỉ manh động. Hình như ít ai biết rằng đây là những đề tài đã được nghiên cứu và đã có kết luận. Nhiều tác giả rất nghiêm túc và có thẩm quyền thuộc các đại học danh tiếng đã công bố nhiều công trình nghiên cứu rất có giá trị. Điểm nổi bật của những nghiên cứu này là các tác giả có thể có những ý kiến khác nhau trên tầm quan trọng tương đối của các yếu tố của đấu tranh chính trị nhưng họ đều kết luận giống nhau, điều này lại càng làm tăng lên tính khả tín của những kết luận. Vả lại những kết luận này đều được thực tại xã hội và lịch sử kiểm chứng.
Những kết luận của họ là gì?
Trước hết là kết luận quan trọng nhất: nếu tranh thủ nhân tâm cho cố gắng đổi mới xã hội, để thay đổi một chế độ và một chính quyền không còn lý do tồn tại bằng một chế độ và một chính quyền khác là điều lúc nào cũng có thể làm và phải làm thì ngược lại động viên quần chúng đứng dậy đấu tranh chỉ là giai đoạn cuối cùng của một tiến trình tranh đấu kiên trì, vào lúc những mâu thuẫn giữa chính quyền và xã hội đã chín muồi và những điều kiện cho một cuộc cách mạng đã hội đủ.
Những mâu thuẫn đó tựu trung có ba loại. Có những mâu thuẫn tâm lý do sự kiện đảng cầm quyền không do dân, vì dân mà là dụng cụ áp đặt của một thành phần ưu đãi và thành phần này có nếp sống và những quan tâm khác hẳn phần còn lại của dân tộc; sự khác biệt trong lối sống và trong các quan tâm đó dần dần tạo ra thế tách biệt kình địch. Có những xung đột quyền lợi do sự kiện một thiểu số chiếm đoạt hết những điạ vị thuận lợi và bóc lột hoặc ngăn cản sự thăng tiến của đa số còn lại. Và cũng có những nguyên nhân thuộc về căn cước xã hội. Người ta đấu tranh vì căn cước bị xúc phạm, vì bị coi là thuộc loại công dân hạng thứ, bị từ chối những quyền tự do và những địa vị dành riêng cho một loại người. Tất cả những nguyên nhân xung đột này chỉ đủ mạnh để làm nảy sinh ra ý chí đấu tranh nếu những người bị thua thiệt cảm thấy ràng buộc với nhau trong một thân phận chung. Các cá nhân riêng lẻ không bao giờ là một sức mạnh.
Nhưng ngay cả như thế, nghĩa là mọi người thấy chế độ không thể chấp nhận được và muốn thay đổi, cũng chỉ mới là điều kiện đầu tiên trong bốn điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng, hiểu theo nghĩa một thay đổi chế độ. Điều kiện thứ hai là đảng hay tập đoàn cầm quyền, vì mất lý tưởng chung hay vì bị ung thối, đã chia rẽ, phân hoá và khả năng tự vệ đã yếu đi; điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới; điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới.
Điều kiện thứ ba, đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới, là điều kiện khó khăn nhất vì không thể có được bằng thiện chí, cố gắng và hy sinh, thậm chí ngay cả hiểu biết chuyên môn. Đây là một cố gắng trí tuệ trong đó các nhà tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng chính trị, có vai trò trung tâm và quyết định. Lịch sử cho thấy các dân tộc thiếu tư tưởng chính trị thường sa lầy rất lâu trong bế tắc. Linh mục Nguyễn Văn Lý có lẽ đã cảm nhận được như vậy khi ông nói phải có một chủ thuyết hoàn chỉnh. Ngày nay các chủ nghĩa đã lỗi thời, nhưng sự cần thiết của một tư tưởng chính trị - hiểu theo nghĩa một hệ thống các giá trị nền tảng được hiểu thấu đáo trong ý nghĩa của từng khái niệm và trong quan hệ của chúng với nhau trong hoàn cảnh quốc gia - vẫn còn nguyên vẹn. Nguyễn Văn Lý ít ra đã đã ý thức được tầm quan trọng của tư tưởng chính trị. Những cuộc thảo luận lý thuyết gần đây về các khái niệm tự do, dân chủ, nhân quyền và phát triển cho thấy chúng ta vẫn còn cần nhiều tiến bộ. Những ngộ nhận nhiều khi bộc lộ ngay nơi những trí thức hàng đầu.
Và vẫn còn điều kiện thứ tư, nghĩa là sự xuất hiện một tập hợp - một tổ chức hay một liên minh có lãnh đạo thống nhất của nhiều tổ chức - được nhìn như là có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh đổi đời. Nguyễn Văn Lý tỏ ra đã nhìn thấy những đòi hỏi lớn để có được tập hợp này khi ông nói nó "phải hội đủ nhiều điều kiện lắm".
Nhưng làm thế nào để xây dựng ra tập hợp đó?
Lịch sử của các nước, các thời cũng đã chứng tỏ rằng mọi kết hợp đấu tranh cách mạng muốn thành công đều phải qua năm giai đoạn rõ rệt:
1.Xây dựng một cơ sở tư tưởng;
2. Xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt;
3. Xây dựng và kiểm điểm phương tiện;
4. Xây dựng cơ sở quần chúng;
5. Tiến công giành thắng lợi.
Trong thế giới văn minh hiện nay, khi giải pháp vũ trang đã bị loại bỏ, tiến công giành thắng lợi đồng nghĩa với động viên quần chúng đứng dậy đấu tranh áp đặt thay đổi chế độ, hoặc bằng cách giành lấy chính quyền để thay đổi, hoặc bằng cách buộc chính quyền phải nhượng bộ và chấp nhận thay đổi.
Tiến trình năm giai đoạn này, trong đó xây dựng cơ sở tư tưởng chính trị là bắt buộc đầu tiên, một lần nữa cho thấy tầm quan trọng của tư tưởng chính trị. Một tổ chức chính trị đúng nghĩa phải được quan niệm như một dụng cụ để thể hiện một tư tưởng chính trị và thực hiện một dự án chính trị.
Một nhận xét rất quan trọng là hai giai đoạn đầu, xây dựng một cơ sở tư tưởng và hình thành đội ngũ cán bộ nòng cốt, chiếm gần hết thời giờ và công lao của một cuộc cách mạng. Phải vài thập niên mới có nổi một cơ sở tư tưởng đúng đắn, lành mạnh, được quần chúng chia sẻ và một đội ngũ cán bộ chừng vài trăm người với vài chục người là những cán bộ thực sự nòng cốt, nắm vững cơ sở tư tưởng, có bản lãnh, có quyết tâm, có kỹ thuật và kỷ luật đấu tranh. Nhưng một khi hai yếu tố này đã có, tổ chức có thể dựa vào một vận hội lịch sử mà phát triển rất nhanh chóng và giành được thế chủ động trong vòng vài năm, thậm chí vài tháng.
Tiến trình này cũng cho thấy vận động quần chúng chỉ là cố gắng cuối cùng của giai đoạn cuối cùng của đấu tranh chính trị, dù là điều bắt buộc. Tuy vậy điều bắt buộc không nhất thiết phải là điều quan trọng nhất. Lấy thí dụ một sinh viên đi học và đi thi để lấy bằng tốt nghiệp. Thi là điều bắt buộc nhưng không phải là điều quan trọng nhất, điều quan trọng nhất là học. Nếu đã học kỹ thì thi chỉ là một thủ tục, còn nếu không học mà đi thi thì kết quả đã hiển nhiên từ trước.
Nhưng quần chúng là gì? Quần chúng phải được hiểu là khối đông đảo những người không phân biệt trình độ hiểu biết không dành cho hoạt động chính trị một quan tâm bền bỉ nào và cũng không tham gia một tổ chức chính trị nào. Đặc điểm của quần chúng là không gắn bó, mỗi người sống riêng lẻ, bình thường bất lực, khi được động viên thì ứng xử giống như một đám đông, nghĩa là một khối nhiều người không biết nhau đi theo sự hướng dẫn của những người cầm đầu.
Trong cố gắng động viên quần chúng, một số ngộ nhận cần được cảnh giác.
Ngộ nhận thứ nhất là cho rằng quần chúng là tất cả, quần chúng có thể động viên được một cách nhanh chóng và khi đã có quần chúng là sẽ thành công. Ngộ nhận này khiến người ta hăm hở vận động quần chúng (rải truyền đơn, căng biểu ngữ, kêu gọi biểu tình v.v.) dù chưa có chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức. Có những tổ chức ra đời chỉ để sách động quần chúng.
Ngộ nhận thứ hai là cho rằng nếu quần chúng phẫn nộ vì ý thức được rằng mình bị đàn áp và bóc lột thì họ sẽ đứng dậy đánh đổ chính quyền. Sự thực thì mọi kinh nghiệm đều cho thấy là một khối người dù đông đảo tới đâu và hoàn toàn đồng ý rằng mình bị áp bức cũng không đứng dậy tranh đấu. Họ chỉ đứng dậy tranh đấu nếu có một tổ chức lãnh đạo và tổ chức này phải đủ mạnh và gắn bó để khiến họ tin chắc vào thắng lợi.
Tâm lý đám đông của quần chúng cần được đặc biệt lưu ý vì có hai hệ quả rất quan trọng: một là quần chúng đòi hỏi lãnh đạo, do đó quần chúng chỉ có thể động viên được nếu có một tổ chức mạnh khởi xướng; hai là, cũng như một đám đông, quần chúng được động viên do bị kích thích. Không có sự kích thích nào có thể kéo dài được, bởi vậy quần chúng chỉ có thể động viên được trong một thời gian ngắn. Tổ chức lãnh đạo vì vậy phải chuẩn bị trước kế hoạch để lợi dụng tối đa và tức khắc thời điểm thuận lợi này để đạt những kết quả dứt khoát không thể đảo ngược. Do hai đặc tính này giai đoạn động viên quần chúng là giai đoạn hết sức căng thẳng và sôi nổi. Các nhà nghiên cứu chính trị dùng cụm từ chiến tranh động viên (war of mobilization, guerre de mobilisation).
Một cách cụ thể, nếu bỏ qua những hành động khủng bố, hầu như trong mọi cuộc cách mạng bất bạo động tại mọi quốc gia cuộc chiến tranh động viên diễn ra như sau:
- Một bên là phe đối lập cố gắng thuyết phục quần chúng rằng phải thay đổi chế độ chính trị và tổ chức xã hội để tìm một lối thoát cho cả dân tộc; một bên là đảng cầm quyền cố gắng trấn an quần chúng rằng mỗi người có thể tìm giải pháp thăng tiến cá nhân cho mình trong khuôn khổ chế độ. Đối lập hô hào thay đổi xã hội trong khi chính quyền đề cao sự linh động trong xã hội. Đối lập hô hào một giải pháp chung cho đất nước trong khi chính quyền hứa hẹn những khả năng thăng tiến cá nhân. Tóm lại đối lập kêu gọi đoàn kết để cùng nhau đấu tranh cho một giải pháp quốc gia trong khi chính quyền khuyến khích tâm lý luồn lách để tìm giải pháp cá nhân.
- Đối lập tố giác những sai phạm của chính quyền và những thiệt hại gây ra cho quần chúng. Để chống trả, một chính quyền khôn ngoan không bao giờ nói là tất cả đều rất tốt và không có gì phải thay đổi, vì như thế là vô tình tiếp tay cho đối lập bởi vì khiến người dân thấy là họ không có gì để hy vọng ở chế độ; trái lại nó luôn luôn nhìn nhận là có nhiều sai lầm và tỏ ra cố gắng sửa sai, dù những biện pháp sửa sai chỉ nhằm duy trì hiện trạng.
- Đối lập kêu gọi hoà giải và hoà hợp dân tộc để có đoàn kết và sức mạnh dân tộc, trong khi chính quyền cố hết sức để khơi động những tị hiềm để giữ quần chúng trong thế chia rẽ bất lực. Cuộc nổi dậy nào của quần chúng cũng bắt đầu từ một biến cố khởi động xẩy ra cho một tập thể quần chúng, nếu tập thể này không được sự hưởng ứng của các tập thể khác, thậm chí còn bị chống đối, thì biến cố này không thể trở thành khởi điểm cho một cuộc nổi dậy của toàn dân. Một thí dụ cụ thể, trong nhiều thí dụ khác, là khi người công giáo tranh đấu, như biến cố Tam Toà tại Quảng Bình năm 2009, chính quyền cộng sản đã khơi động tinh thần bài Công Giáo để huy động những phần tử quá khích hành hung các linh mục và giáo dân. Các tập đoàn độc tài không cần người dân thương yêu chúng, chúng chỉ cần người dân đừng thương yêu nhau để tiếp tục bất lực trong sự chia rẽ.
- Đối lập cố gắng thống nhất đội ngũ lãnh đạo vì đó là điều kiện bắt buộc để động viên quần chúng; quần chúng không thể đứng dậy nếu nhận được những lời kêu gọi mâu thuẫn từ nhiều nguồn. Chính quyền cố gắng phân tán và chia rẽ tối đa đối lập bằng mọi phương tiện, kể cả khuyến khích cách làm chính trị nhân sĩ, mua chuộc một số thành phần đối lập hay thành lập những tổ chức đối lập giả hiệu.
- Đối lập cố gắng trấn an những người trong bộ máy chính quyền rằng sự thay đổi chế độ sẽ không đe doạ họ trong khi chính quyền cố gắng tạo tâm lý lo sợ những trả thù báo oán để đoàn kết nội bộ trong phản xạ tự vệ. Hoà giải và hoà hợp dân tộc là ngôn ngữ bắt buộc của một đối lập thông minh. Bằng ngôn ngữ ôn hoà và bao dung đối lập cố gắng thuyết phục và tranh thủ những thành phần tiến bộ trong đảng cầm quyền bởi vì những tiếng nói phản kháng từ trong nội bộ có sức tàn phá đặc biệt; chính quyền cố gắng giữ vững hàng ngũ bằng cách phủ dụ và mua chuộc những người bất mãn, nếu không được thì trừng trị một cách thật nghiêm khắc để làm gương.
Cố gắng động viên quần chúng chỉ thành công nếu hội đủ ba điều kiện :
Điều kiện thứ nhất là quần chúng cảm thấy mình là một thành phần bị một thành phần khác chà đạp và bóc lột. Cần có sự hiện hữu của hai tập thể có căn cước rõ ràng, một tập thể ta trong đó mỗi người cảm thấy mình là thành viên gắn bó và có trách nhiệm phục vụ, đồng thời cũng cảm thấy được hỗ trợ; và một tập thể địch mà tập thể ta nhìn như nguyên nhân của những đau khổ mà mình và các đồng cảnh là nạn nhân.
Tập thể địch có thể được tạm định nghĩa là thành phần thượng lưu trong chế độ. Tập thể ta phải là toàn dân hoặc đại đa số dân chúng. Như vậy muốn xây dựng tập thể này, không có giải pháp nào khác hơn là củng cố lòng yêu nước và đề cao hoà giải và hoà hợp dân tộc. Không có lòng yêu nước thì không thể nói tới dân tộc, yêu nước mà chia rẽ và thù ghét lẫn nhau thì cũng không phải là một lực lượng và sẽ tiếp tục bất lực trong sự chia rẽ.
Điều kiện thứ hai là phải có những hứa hẹn cụ thể. Quần chúng không đủ hiểu biết và suy luận để có thể được hoàn toàn thuyết phục và động viên vì những phúc lợi của đạo đức chính trị, lòng yêu nước, tự do, dân chủ v.v. Họ phải nhìn thấy cuộc cách mạng đem lại cho họ những kết quả cụ thể nào. Các cuộc cách mạng Hoa Kỳ và Pháp cuối thế kỷ XVIII có nguồn gốc là chống thuế. Các đảng cộng sản tại Nga, Trung Quốc và Việt Nam đã có một hứa hẹn rất cụ thể là nếu nắm được chính quyền họ sẽ tiêu diệt giai cấp chủ nhân (hoặc địa chủ) và lấy của người giàu chia cho người nghèo.
Điều kiện thứ ba là quần chúng phải chắc chắn là cuộc đấu tranh sẽ thành công. Quần chúng không lãng mạn. Cũng không thể đòi hỏi sự dũng cảm và kiên trì nơi quần chúng. Dũng cảm và kiên trì là đặc tính của những tổ chức. Nhưng khi nào thì quần chúng tin chắc vào thắng lợi? Câu trả lời của những kinh nghiệm lịch sử và những công trình nghiên cứu là khi quần chúng thấy có một tổ chức vừa đáp ứng đúng nguyện vọng của họ vừa có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Một lần nữa đấu tranh chính trị luôn luôn là đấu tranh có tổ chức và không bao giờ là đấu tranh của những cá nhân. Sức mạnh của tổ chức được hiểu là phương tiện, trí tuệ, đội ngũ nòng cốt, uy tín của lãnh đạo, và nhất là sự gắn bó vì quần chúng nhìn một tổ chức như một người. Một tổ chức yếu về lực lượng hoặc chưa có uy tín dĩ nhiên không động viên được quần chúng. Một tổ chức không có nhất trí dưới mắt quần chúng giống như một người chưa biết mình muốn gì và do đó cũng không thể động viên được quần chúng. Và vì tổ chức lãnh đạo quần chúng phải vừa mạnh vừa gắn bó, nó chỉ có thể là thành quả của những cố gắng thông minh và kiên trì trong hàng thập niên. Một tổ chức vừa mới thành lập được vài năm, chưa nói vài tháng, không có hy vọng nào động viên được quần chúng.
Điều quan trọng cần được nhắc lại và nhấn mạnh là một khi đã được động viên thì lực lượng quần chúng phải được sử dụng ngay tức khắc để đạt thắng lợi. Quần chúng không kiên nhẫn, nếu thắng lợi không đến nhanh chóng khí thế đấu tranh sẽ nhường chỗ cho thất vọng.
Tóm lại, quần chúng chỉ động viên được vào lúc mà mọi cố gắng và hy sinh để thành công đã làm xong, thắng lợi đã chắc chắn và quần chúng không còn chọn lựa nào khác hơn là ủng hộ.
Còn một lấn cấn: một cuôc cách mạng có thể hoàn toàn bất bạo động trong mọi trường hợp được không? Những thay đổi chế độ trong hoà bình tại Đông Âu và Liên Xô cũ phải chăng chỉ là do may mắn?
Quả thực động viên quần chúng là để buộc chính quyền phải nhượng bộ trước đe doạ của những hành động mãnh liệt như biểu tình lớn trên toàn quốc, chiếm đóng và làm tê liệt các cơ quan xí nghiệp, cuối cùng chiếm chính quyền dưới áp lực của đường phố, thậm chí nổi dậy võ trang nếu cần. Điều rất quan trọng cần được nhấn mạnh là trong đại đa số các trường hợp những hành động này không cần thiết. Một đối lập sáng suốt có thể không dùng tới những hành động này trong mọi trường hợp. Chỉ cần có khả năng lật đổ chính quyền bằng áp lực quần chúng là đủ. Chính quyền nào, dù ngoan cố và lì lợm đến đâu, cũng sẽ thoả hiệp thay vì đối đầu nếu biết trước đối đầu sẽ thảm bại.
Như thế tranh thủ và động viên quần chúng là điều phải làm, nhưng đưa quần chúng vào hành động là không cần thiết. Chỉ cần chứng tỏ có khả năng điều động quân chúng nổi dậy là đủ chứ không cần quần chúng thực sự nổi dậy.
Lời cuối: Những ngộ nhận về vận động quần chúng chủ yếu do quan sát hời hợt không khí tưng bừng của những cuộc cách mạng đã thành công, người ta tưởng rằng các cuộc cách mạng này đã thành công vì được quần chúng ủng hộ, trong khi thực ra quần chúng chỉ ủng hộ các cuộc cách mạng đó vì chúng đã thành công. Trong lịch sử của các dân tộc, những cuộc đổi đời lớn đều là thành quả của những nhóm nhỏ đã có đủ trí tuệ để nhìn thấy hướng đi phải có cho xã hội và đã kiên trì đấu tranh, chấp nhận mọi cố gắng và hy sinh cho lý tưởng của họ. Sau cùng họ đã đánh bại được những tập đoàn cầm quyền nhiều lần mạnh hơn họ về cả phương tiện lẫn số lượng bởi vì họ là hiện thân của một tương lai bắt buộc phải đến trong khi tập đoàn cầm quyền là hiện thân của một hiện tại phải qua đi. Và vì họ đã có đủ quyết tâm, dũng cảm và kiên trì, để vượt qua mọi thử thách. Sự hưởng ứng của quần chúng sau cùng đã đến như là phần thưởng của thắng lợi.

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2018

Tuệ Tâm: Cải cách chữ viết – Nếu cái giá phải trả là sự “đứt gãy” văn hóa


Ngôn ngữ, đặc biệt là chữ viết không chỉ là các ký hiệu vô hồn ghi lại âm thanh tiếng nói. Một chữ cái giản đơn thôi cũng có tác dụng gợi lại các kết nối văn hoá, giá trị, và trải nghiệm bồi đắp sau hàng trăm nghìn năm của từng cá nhân và dân tộc.

Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, của giao tiếp. Đối với bất kỳ nền văn hóa nào, ngôn ngữ cũng vừa đóng vai trò là một thành tố, một thành tựu văn hóa tinh thần vô giá; vừa đóng vai trò là phương tiện quan trọng để lưu giữ, bảo tồn và chuyên chở những giá trị, những thành tựu của chính nền văn hóa ấy.
Một quốc gia dân tộc độc lập tự chủ và phát triển phải là một quốc gia dân tộc có một nền văn hóa độc lập với đậm đà bản sắc riêng, phải là một quốc gia dân tộc có tiếng nói và chữ viết với những đặc trưng riêng không dễ bị pha trộn, bị lai tạp, bị đồng hóa.
Chẳng thế mà nhà văn Pháp Alphonse Daudet trong một tác phẩm của mình đã từng khẳng định: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”.
Hay như cụ Phạm Quỳnh ở ta cũng không phải ngẫu nhiên mà đưa ra nhận xét sau đây về kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Đó là một nhận xét đúng đắn bởi Truyện Kiều chính là tinh hoa của ngôn ngữ Việt nói riêng, của văn hóa Việt nói chung.
Cũng bởi ngôn ngữ có vai trò quan trọng như thế đối với đời sống của con người, nên khi một số giáo sư, tiến sĩ đề xuất và cho thí điểm cải cách đối với tiếng Việt, đã gây nên một làn sóng phản đối rộng khắp trong cả nước.
Mọi người đều “sợ” sự thay đổi này, không chỉ bởi sự xáo trộn không cần thiết, mà còn có thể gây ra sự đứt gãy văn hóa giữa các thế hệ, giữa những người chỉ biết cách viết “mới” với di sản tư liệu “cũ”. Ở đây, chúng ta không đi sâu phân tích những mặt lợi – hại khi cải tiến chữ viết, mà sẽ đề cập đến một khía cạnh vô cùng quan trọng của chữ viết đối với tâm thức và đời sống văn hóa của người dân.
Trong một bài viết của PGS.TS Nguyễn Phương Mai, thuộc trường Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam, Hà Lan đăng trên báo VietNamNet, tác giả đã đưa ra khái niệm “Tri nhận nghiệm thân”, tức là cảm nhận của cơ thể ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhận thức.
Trong một thí nghiệm về tri nhận nghiệm thân, hai nhóm người tham gia được yêu cầu cầm hai cốc cà phê khác nhau. Nhóm thứ nhất cầm một cốc cà phê nóng, đúng tiêu chuẩn phương Tây. Nhóm thứ hai cầm cốc lạnh. Cả hai nhóm được yêu cầu đánh giá một nhóm người chính phủ. Nhóm cầm cốc nóng có đánh giá cao hơn, cho rằng người được đánh giá thân thiện và đáng tin cậy hơn so với nhóm cầm cốc cà phê lạnh. Nghiên cứu này chứng minh trải nghiệm thân xác có thể làm đổi thay ý thức. Khi ta ấm áp thì ta thấy người đời cũng đáng yêu hơn. Điều này cho thấy, trải nghiệm thân xác ảnh hưởng ngược lại đến cách chúng ta tư duy.
Vậy tri nhận nghiệm thân có ảnh hưởng thế nào đến đề xuất cải cách chữ viết? Trước tiên hãy quay trở lại lịch sử chữ viết của người Việt khi chúng ta dùng các ký tự tiếng Trung Quốc để phiên âm tiếng Việt. Đây là một hệ thống chữ tượng hình, vì vậy, tri nhận nghiệm thân có tác động sâu sắc hơn nhiều so với hệ thống chữ viết khác.
Khi còn học tiếng Trung lúc nhỏ, cô giáo luôn dạy rằng, một cái cây (chữ Mộc – ) chỉ là một cái cây, nhưng hai cái cây đứng cạnh nhau thì là một khu rừng (chữ Lâm – ). Chữ Ái () ý nghĩa là tình yêu, gồm bộ Tâm (con tim) và chữ Thụ (chịu đựng), tình yêu thương chính là sự chấp nhận và tình nguyện hi sinh.
Khi học chữ viết, người dùng ký tự tiếng Trung dần dần hình thành các trải nghiệm cơ thể và trải nghiệm tư duy cùng tần số với ký tự tượng hình. Chữ viết vì vậy ảnh hưởng đến cả triết lý sống qua con đường vô thức: thế nào là hợp tác cùng nhau vào sinh ra tử, thế nào là tình cảm chân thực khi ngóng đợi tin người thân, thế nào tình yêu và ân nghĩa vợ chồng v.v.
Chúng ta có thể hình dung ra sự bàng hoàng mất mát của dân tộc khi chữ quốc ngữ thay thế chữ Nôm. Để đổi lại sự giản tiện, tốc độ phát triển và chế tài chính trị, chúng ta bị đứt đoạn hoàn toàn với khối tri thức và tình cảm khổng lồ tích lũy vô thức qua chữ viết. Di chứng còn lại cho đến ngày nay là người Hoa vào đền chùa hiểu lời nhắn nhủ của tổ tiên hơn cả chúng ta.
Ví dụ, khi nói về tình yêu, thế hệ cũ sẽ vẫn vô thức bị ảnh hưởng bởi ký tự và các giá trị kết nối “thế nào là yêu” cùng các trải nghiệm thân xác đi cùng chữ “ái” tượng hình. Nhưng thế hệ mới với chữ quốc ngữ sẽ không tiếp nối được tư duy, triết lý, và kết nối đó từ chữ viết. Họ phải bồi đắp các tư duy, triết lý và kết nối mới dựa vào các giá trị đạo đức cùng thời điểm.
Thời đó quan niệm về tình yêu thế nào thì chữ “yêu” sẽ kích hoạt những giá trị tương đương, khác một phần so với những giá trị mà chữ “ái” trong chữ Hán tượng hình hay chữ Nôm tượng hình kích hoạt 𢞅 .
Vì vậy, chữ viết không chỉ là sản phẩm văn hoá mà còn là bánh lái điều khiển thái độ và lối sống văn hoá. Đây chính là lý do khiến nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chúng ta tự động THAY ĐỔI cách giao tiếp khi dùng một ngôn ngữ khác, bộ não kích hoạt những tư duy khác nhau khi đọc một đoạn văn có nội dung như nhau, nhưng bằng một ngôn ngữ khác.
Sáng chế cải cách tiếng Việt đương nhiên sẽ không có ảnh hưởng mạnh mẽ như việc chuyển đổi hệ thống ký tự, nhưng nó sẽ làm người dùng phải thay đổi tư duy và đứt đoạn với các tri nhận nghiệm thân đã được bồi đắp từ cả trăm năm nay.
Trên mạng lan truyền một ví dụ vừa chính xác, vừa ngộ nghĩnh: “Trục trặc” khi viết theo phương thức cải cách, thì hình ảnh đầu tiên hiện ra không phải là “sự khó khăn” mà là một bộ phận cơ thể, các tri nhận liên quan đến cảm giác cũng khác: “buồn cười”, ” thô tục”, “dâm dục” “tiểu tiện” v.v. Tư duy không những bị đứt đoạn mà còn bị phân tán.
Tương tự, khi ta đọc chữ “ty”, vốn văn hoá, trí nhớ và các tri nhận nghiệm thân sẽ gợi ý ta hiểu là “công ty”, nhưng khi đọc chữ “ti”, ta nghĩ đến “ti tiện”. Với cách viết mới, khi đọc “kôg ti”, các tri nhận nghiệm thân của cá nhân tôi gợi lại là: “không (có) ti”, “king kong”, “khỉ đột”, “hoang dại”, “ti tiện”, “cái ti cái vú”. “Công ty” hay “thương nghiệp” là những tri nhận đến cùng hoặc đến sau, và bị phân tán.
Đây chỉ là một ví dụ đơn giản, khoan hãy nói đến những ví dụ phức tạp hơn hay những đứt đoạn có tính tư duy và triết lý cao hơn, có thể vô thức làm bốc hơi nhiều tri nhận và kết nối sâu sắc hơn, tương đương với sự đứt đoạn khi chuyển từ chữ Nôm sang Quốc Ngữ.
Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia từng chịu sự đổi thay mãnh liệt của chữ viết. Người Thổ đoạn tuyệt với lịch sử Hồi giáo và cam kết phát triển theo con đường phương Tây nên dùng ký tự latinh thay vì ký tự Ả Rập. Họ thành công, nhưng mất đi một phần khổng lồ các kết nối giá trị từ nhiều trăm năm là lãnh chúa của thế giới Hồi giáo.
Tương tự, ở Trung Quốc ngay từ những năm 1950, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCS Trung Quốc) đã thúc đẩy phổ biến chữ Hán giản thể, từ bỏ chữ Hán chính thể (phồn thể), gây hỗn loạn hệ thống chữ Hán. Hành động này đã gây làn sóng phản đối rộng khắp, kéo theo vô số tranh luận liên quan đến chữ Hán phồn thể và giản thể.
Tuy nhiên, ngay từ ban đầu việc tranh luận về chữ Hán giản thể và phồn thể đã bị biến dạng dưới sức ép của quyền lực chính trị. Hệ quả là ở Trung Quốc, ĐCS Trung Quốc đã cưỡng chế dùng chữ Hán giản thể, ngăn chặn chữ Hán phồn thể, làm cho đông đảo người Trung Quốc không còn biết chữ Hán phồn thể, không còn khả năng tìm lại hình dạng văn hóa truyền thống Trung Hoa để biết được nó ra sao. Trong khi đó, ở Hong Kong, Đài Loan và Singapore, chữ hán phồn thể vẫn được trân trọng và giữ gìn mà không hề mang đến nạn mù chữ cho dân chúng như ĐCS Trung Quốc tuyên truyền.
Thực hiện đơn giản hóa chữ viết chỉ là một phần kế hoạch của ĐCS Trung Quốc trong việc cắt đứt với văn hóa truyền thống Trung Hoa, sau đó đáng kể hơn là phong trào “cải cách giáo dục”. ĐCS Trung Quốc cho xóa bỏ chương trình học văn học cổ điển, khiến vô số tác phẩm của các nhà hiền triết Trung Quốc cổ đại bị ném vào thùng rác.
Học sinh chỉ có thể học những giáo điều của Mác-Lênin và Mao Trạch Đông cùng những tác phẩm tuyên truyền cho chính sách của ĐCS Trung Quốc do giới “văn nô” bào chế, hệ quả là giới trẻ Trung Quốc chỉ còn biết Mác-Lê – Mao và ĐCS Trung Quốc, không còn biết lịch sử Trung Quốc còn vô số nhà hiền triết, không biết những tinh túy của văn hóa Trung Hoa là gì.
Trong khi đa số người dân không biết chữ phồn thể, không đọc được các ấn phẩm xuất bản trước 1949, càng không thể đọc được những tác phẩm kinh điển cổ xưa, thế là con đường đến với văn hóa truyền thống Trung Hoa bị chặn đứng, thế hệ con cháu Trung Hoa biến thành “con cháu Mác-Lênin”.
Văn tự của đất nước phải được giữ ổn định mới thuận lợi cho kế thừa và phát triển di sản văn hóa. Chữ Hán phồn thể đã trải qua quá trình phát triển và biến hóa lâu dài, các phần hình – âm – ý đã ổn định, các triều đại chỉ thêm hoặc bớt đôi chút để làm cho nó hoàn thiện hơn. Cũng giống với tiếng Việt vậy, đã từng trải qua những năm tháng gắn liền với đời sống của người dân, nó đã trở thành nét văn hóa thấm đẫm vào trong máu của mỗi người, là sợi dây nối liền quá khứ và hiện tại.
Cho nên, khi thay đổi chữ viết, dù là sự thay đổi nhỏ nhất, chúng ta phải thận trọng, phải nắm được quy luật vận động và phát triển của ngôn ngữ, của văn hóa. Cải tiến chữ viết không đúng quy luật phát triển của ngôn ngữ, cũng không tuân theo quy luật phát triển của văn hóa thì rất có thể sẽ đưa cả xã hội trở về điểm xuất phát ban đầu bởi nếu ví xã hội, đất nước, dân tộc như một ngôi nhà thì ngôn ngữ, văn hóa chính là nền móng của ngôi nhà đó.
Chữ viết không chỉ là các ký hiệu vô hồn ghi lại âm thanh tiếng nói. Một chữ cái giản đơn thôi cũng có tác dụng gợi lại các kết nối văn hoá, giá trị, tình cảm, cảm giác cơ thể, và trải nghiệm bồi đắp sau hàng trăm nghìn năm của từng cá nhân và dân tộc. Thay đổi chữ viết là thay đổi những kết nối đó. Nếu cái giá phải trả là đứt gãy, có lẽ chúng ta nên hài lòng với cái que đang có, cho dù nó có hơi … cong.
Tuệ Tâm
Theo tinhhoa.net