Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

Thuyết tiến hóa Darwin : Đã đến lúc chấm dứt sự lừa dối vĩ đại.

Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay, tính ngụy khoa học và phản tự nhiên của thuyết tiến hóa đã lộ ra rõ ràng đến nỗi những người không chuyên ngành về sinh học cũng có thể nhận thấy. Điển hình là trường hợp của Phillip Johnson, một giáo sư luật tại Đại học California ở Berkeley, trở thành một trong những nhà tiên phong trong sự nghiệp giành lại sự thật cho sinh học – tố cáo sự vi phạm luật tự nhiên của học thuyết Darwin. Trong hơn 20 năm qua Johnson liên tiếp cho ra mắt một loạt tác phẩm phê phán thuyết tiến hóa, thậm chí với tư cách một học giả về luật pháp, ông nêu câu hỏi thách thức: “Thuyết tiến hóa có thể chứng minh được tại một phòng xử án hay không?” (Can Evolution be proved in a courtroom?).
Câu hỏi ấy là lời giới thiệu cuốn “Darwin on Trial” (Darwin được đem ra xét xử) xuất bản năm 1991. Năm 1997, ra mắt cuốn “Defeating Darwinism by Open Minds” (Đánh bại học thuyết Darwin bằng tư duy mở). Năm 2006, ra mắt cuốn “Darwinism’s Nemesis” (Sự báo ứng đối với Darwin),….
Richard Dawkins là một nhà tiến hóa học nổi tiếng. Khi được hỏi “liệu ông có bằng chứng nào để chứng minh cho sự tiến hóa hay không?”, Dawkins đã ngớ người ra, im lặng suy nghĩ một lúc rất lâu không trả lời được, đơn giản vì làm gì có bằng chứng (tìm xem video “Richard Dawkins stumped by creationists’ question” (Richard Dawkins bị bí bởi câu hỏi của những người theo thuyết sáng tạo). Còn đây là thêm 2 videos bác bỏ Darwin:
The Great Evolution Hoax (Trò đánh lùa vĩ đại về tiến hóa)
 https://www.youtube.com/watch?v=w8k_Ja34ymQ
DNA is the Greatest Enemy of Evolution Theory (DNA là kẻ thù lớn nhất của Thuyết Tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=ZHQYj3xfo9w
Toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng  phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. Vâng, chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.
Có nghĩa là ngay trong thời của Darwin, người ta đã ra công đào xới, tìm kiếm hóa thạch của các thế hệ chuyển tiếp quá độ, và không tìm thấy gì cả. Từ đó đến nay, 156 năm đã trôi qua, kể từ ngày cuốn “Về nguồn gốc các loài” ra đời, vẫn chẳng hề tìm thấy gì cả. Thời gian đã quá đủ để thấy sự thật, rằng KHÔNG TỒN TẠI những thế hệ chuyển tiếp, đơn giản vì KHÔNG CÓ SỰ TIẾN HÓA. Nói cách khác, phỏng đoán “vĩ đại” của Darwin là SAI – sai vì tin rằng có tiến hóa.
Một lần nữa xin nhấn mạnh rằng Darwin ý thức rất rõ rằng vấn đề hóa thạch sẽ quyết định “sinh mạng lý thuyết” của ông. Bằng chứng là ông dành hẳn một chương trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” để bàn về vấn đề này. Đó là Chương 9, nhan đề “On the Imperfection of the Geological Record” (Về thiếu sót trong hồ sơ địa chất), trong đó ông viết: “Sự giải thích, như tôi tin, nằm trong sự cực kỳ thiếu sót của hồ sơ địa chất”.
Thế đấy, Darwin đã cảnh báo rằng hồ sơ địa chất (tìm hóa thạch) là cực kỳ thiếu sót.
Đó là lý do để các đệ tử của Darwin phải tìm mọi cách lấp đầy khoảng trống tiến hóa từ vượn lên người. Họ dựng lên bức tranh tiến hóa “rất đẹp” từ vượn lên người, rồi cho phổ biến rộng rãi, nhằm tiêm nhiễm vào đầu óc mọi người, đặc biệt là trẻ em, rằng thuyết tiến hóa là một sự thật. Với công nghệ 3D hiện đại, nhiều bức tranh tiến hóa được bịa ra bằng những xảo thuật đánh lừa bậc thầy (hình đi kèm là một ví dụ).
Nhưng những hóa thạch mà họ lấp đầy khoảng trống từ vượn lên người thực ra đều là những là những loài khỉ hoặc vượn 100% đã tuyệt chủng, hoặc đôi khi là hóa thạch người 100% thời tiền cổ đại. Họ lừa được đa số mọi người, vì đa số là những người không chuyên. Nhưng họ không lừa nổi các chuyên gia sinh học trung thực. Chẳng hạn như Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
“Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.
Hoảng sợ trước việc không tìm thấy hóa thạch dưới lòng đất, các nhà tiến hóa nghĩ ra cách tìm “hóa thạch sống”. Đó là trường hợp đầu thế kỷ 20, họ đổ vấy cho người Aborigines (thổ dân) ở Australia chính là một loại “người-khỉ/khỉ-người” – một trong những cái được gọi là missing links (mắt xích chuyển tiếp bị mất tích) mà họ cần tìm kiếm để cứu vãn thuyết tiến hóa. Những cuộc truy lùng, săn bắt, thảm sát thổ dân đã diễn ra nhằm lấy hộp sọ nghiên cứu. Đó là một trang lịch sử đen tối của Úc, một vết thương âm ỉ trong lòng xã hội Úc đến nay vẫn chưa lành. Ngày nay ai cũng biết rõ đó là một tội ác của những kẻ nhân danh thuyết tiến hóa, vậy mà thuyết tiến hóa vẫn được tung hô, bằng cách bịt mắt lại để không nhìn thấy những hậu quả phi nhân mà nó đã gây ra trên thế giới, đỉnh cao là chủ nghĩa quốc xã Đức đầu thế kỷ 20. Phải mất nhân tính đến mức độ nào nữa thì người ta mới đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật để kết tội thuyết tiến hóa? Câu hỏi của Grenville Kent trên tạp chí SIGNS of the Times của Australia: “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler điều gì?) vẫn không có nhà tiến hóa nào dám lên tiếng trả lời. Họ biết trả lời sao đây? Bởi chính ông thầy của họ, Charles Darwin đã dạy họ rằng “trong một thời gian không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh hầu như sẽ tiêu diệt các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới”.
“Không có Học thuyết Darwin, đặc biệt các lý thuyết con của nó như thuyết ưu sinh và Darwin xã hội, cả Hiler lẫn những phần từ quốc xã đi theo hắn đều sẽ không có một chỗ dựa khoa học cần thiết để tự thuyết phục mình và thuyết phục những kẻ hợp tác với chúng rằng một trong những sự độc ác kinh khủng nhất lại thực sự đáng được ca ngợi về mặt đạo đức” (Richard Weikart, nhà lịch sử tại Đại học Tiểu bang California).
Đó là hệ quả tất yếu của lý thuyết đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cái được coi là  động lực của tiến hóa. Hitler chỉ đơn giản là áp dụng lý thuyết đó vào xã hội loài người mà thôi. Chính Darwin đã lát đường cho Hitler! Chính Darwin đã cung cấp cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cơ sở ngụy khoa học để nó tiến hành những hành vi phản nhân loại nhân danh tiến hóa. Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đầu thế kỷ 20 đã vạch trần bản chất phi nhân này trong học thuyết Darwin.
Nhưng học thuyết Darwin mất uy tín không chỉ vì chủ nghĩa quốc xã. Lý do chủ yếu để nó mất uy tín là ở bản chất phi khoa học, hay chính xác hơn, bản chất phản khoa học của nó.
Nó phi khoa học vì vô bằng chứng: “Lý thuyết của Darwin về nguồn gốc các loài không có lấy một sự kiện thực tế nào để xác nhận nó trong thế giới tự nhiên. Nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, mà thuần túy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng” (trích đoạn trang 13, cuốn Witnesses Against Evolution (Những bằng chứng chống lại thuyết tiến hóa) của John Meldau, do Christian Victory Publishing xuất bản năm 1968 tại Denver, Mỹ).
Nó phản khoa học vì toàn bộ lý thuyết của nó dựa trên một cơ chế phi hiện thực – sự chọn lọc tự nhiên dẫn tới những biến dị có lợi qua hàng triệu, hàng tỷ năm biến loài này thành loài khác. Michael Denton gần như giận dữ bác bỏ cơ chế này:
“Không ở đâu Darwin có thể chỉ ra một trường hợp đích thực của chọn lọc tự nhiên đã thực sự gây ra biến đổi tiến hóa trong tự nhiên… Rốt cuộc, lý thuyết tiến hóa của Darwin không hơn không kém một câu chuyện hoang đường về nguồn gốc vũ trụ trong thế kỷ 20” (trích trang 62, 358, “Evolution, A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết trong khủng hoảng) của Michael Denton, NXB Adler & Adler, Maryland, Mỹ, 1986).
Khoa học chưa từng chứng kiến một biến dị có lợi nào. Ngược lại, hầu hết biến dị đều dẫn tới bệnh tật, hủy hoại sinh vật. Chọn lọc tự nhiên, một cơ chế tưởng tượng, không “dại gì” mà lựa chọn những biến dị có hại. Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên không hoạt động, hay chính xác hơn, không có chọn lọc tự nhiên.
Toán học chứng minh rằng xác suất để xẩy ra liên tiếp hàng triệu, hàng tỷ những biến dị “có lợi” trong quá trình “tiến hóa” hàng triệu, hàng tỷ năm là một đại lượng coi như bằng 0, cơ may để biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn KHÔNG CÓ. Chọn lọc tự nhiên là một khái niệm tưởng tượng. Chọn lọc tự nhiên dẫn tới tiến hóa là chuyện hoàn toàn hoang đường!
Các nhà tiến hóa đã tiến hành những thí nghiệm hòng tạo ra những biến dị làm thay đổi loài. Nhưng họ thất bại thảm hại. Chẳng hạn, họ đã thực hiện những thí nghiệm chiếu xạ hoặc tác động hóa học đối với ruồi giấm trong hơn 1500 thế hệ. Kết quả, ruồi vẫn là ruồi, ruồi chẳng hề biến thành bất cứ con vật nào khác. Hơn nữa, trong những thế hệ tiếp nối, rất nhiều con bị chết, nhiều con bị xoăn cánh hoặc cánh cụt ngủn.
Dưới con mắt vật lý, biến dị chính là một biểu hiện của Định luật Entropy (Định luật thứ hai của nhiệt động học) – định luật nói rằng vật chất biến đổi theo chiều hướng càng ngày càng xấu đi, hỗn loạn hơn. Entropy là đại lượng đo mức độ vô trật tự của một hệ thống. Định luật entropy khẳng định entropy chỉ tăng, không giảm (có thể không tăng trong giai đoạn ngắn). Biến dị là một biểu hiện của sự tăng entropy. Vậy biến dị là một biến đổi ngược chiều với tiến hóa, vì tiến hóa là khái niệm cho rằng sự vật ngày càng có tổ chức cao hơn, trật tự hơn. Vậy lý thuyết nói rằng biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn sai lầm, phản tự nhiên.
Tính chất tưởng tượng bịa đặt đó bị tố cáo mạnh mẽ trong cuốn “Evolution and the Emperor’s New Clothes” (Thuyết tiến hóa và bộ quần áo mới của hoàng đế) của N.J.Mitchell, do Roydon Publications xuất bản tại Anh năm 1983. Xin trích đoạn:
“Các nhà khoa học, những người đang truyền bá rằng tiến hóa là một sự thật của cuộc sống, là những kẻ đánh lừa người khác bằng sự cả tin, và câu chuyện họ đang kể là trò lừa bịp hơn bao giờ hết. Trong khi giải thích sự tiến hóa, chúng ta mảy may không có một chút sự thật nào cả”.
Trước trào lưu chống thuyết tiến hóa ngày càng mạnh, thái độ của các nhà tiến hóa ra sao? Hoặc là im lặng, bởi “im lặng là vàng”. Càng làm to chuyện, chân tướng thuyết tiến hóa càng lộ rõ. Đúng ra, những người chống thuyết tiến hóa mới đang là những người muốn làm to chuyện, muốn đưa thuyết tiến hóa ra tòa, như Phillip Johnson chẳng hạn. Thực sự các nhà tiến hóa đã và đang rơi vào tình thế rất lúng túng, như Richard Dawkins đã lúng túng trong cuốn video ở trên. Tuy nhiên, bản chất ngoan cố của con người là điều không làm ai ngạc nhiên. Các nhà tiến hóa vẫn loanh quanh chống chế. Họ kém trung thực so với ông thầy của họ, Charles Darwin.
Thật vậy, dù sao thì Darwin vẫn hơn hẳn các đệ tử của ông vì thái độ trung thực. Nỗi lo lắng của ông về sự thiếu vắng bằng chứng hóa thạch là một ví dụ điển hình. Theo Adrian Desmond và James Moore kể lại trong cuốn “Darwin” (do W.W.Norton and Company xuất bản tại New York năm 1991, trang 456, 475) thì có lần Darwin tâm sự với Asa Gray rằng:
“… Tôi hoàn toàn ý thức được rằng những phỏng đoán của tôi đã vượt quá giới hạn của khoa học thực sự… Nó chỉ là một mảnh vụn của một giả thuyết với nhiều sai lầm và lỗ hổng cũng như những phần đúng đắn” (…I am quite consciuos that my speculations run beyond the bounds of true science… It is a mere rag of an hypothesis with as many flaws & holes as sound parts).
Thú thực, tôi kính trọng Darwin hơn chính vì lời thú nhận nói trên, thay vì ở lý thuyết của ông. Nhưng càng kính trọng sự trung thực của ông bao nhiêu, tôi càng thất vọng với sự ngoan cố của các đệ tử của ông bấy nhiêu. Họ cố tình che đậy những lời thú nhận của Darwin bấy lâu nay. Nhưng internet đã làm họ thất bại! Sự thật đang ngày càng lộ ra, và lời tiên báo của Soren Lovtrup sẽ trở thành sự thât: “một ngày nào đó, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như trò lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học”.
Vậy mà Charles Darwin từng được nhiều sách báo và trang mạng tôn vinh như một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại (!!!). Chẳng hạn, Darwin được coi là một trong 12 người khổng lồ trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg. Trên trang mạng Biography Online, Darwin được tôn vinh như một trong 10 nhà khoa học vĩ đại nhất, vì “đã phát triển lý thuyết tiến hóa bất chấp sự không tin tưởng và nghi ngờ, và đã sưu tập được những bằng chứng trong 20 năm, và công bố các kết luận trong cuốn On the Origin of Species năm 1859”. Thật lố bịch hết chỗ nói. Tôi không tìm được một trường hợp thứ hai nào trong lịch sử khoa học lố bịch như trường hợp này.
Nhưng dù gia công đánh bóng tên tuổi Darwin bằng cách nào đi chăng nữa, hai tác phẩm chủ yếu của Darwin, “Về nguồn gốc các loài” (1859) và “Nguồn gốc loài người” (1871) chính là 2 bằng chứng sẽ chôn vùi thanh danh của Darwin, và đến một ngày không xa, có thể tính bằng số năm tháng, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học. Sự thật sẽ không thể che đậy được mãi!

Nguồn: Pham Viet Hung’s blog

Ô-LÝ & HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA



[Ngày, 9/1 âm lịch, là ngày giỗ của Huyền Trân Công Chúa vĩ đại]

Ô-LÝ & HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA

1. Đêm ngủ ở Quảng Bình 

Chơi Xuân, nên khi ghé qua thì không biết "nắng Quảng Bình"  thực sự thế nào, có thật là chị em khô ngay như lời đồn?! (Dân gian mới có câu rằng: Nắng đâu như nắng Quảng Bình / Chị em vừa đái cửa mình khô ngay)

Nhưng, qua đất này mới thấy xót xa cho công nghiệp của Nguyễn Công Trứ. Cả một đời lên giời xuống biển, khi chó lúc voi, thì cũng chỉ mở mang cho Đại Việt được có 2 huyện. Thế mà, chỉ cần ngủ qua mỗi một đêm, một mỹ nhân, Huyền Trân Công Chúa, đã lấy cho Đại Việt hẳn 2 châu Ô và Lý, đó là miền đất dài khắp Bình-Trị-Thiên [toé lửa] bây giờ. Hỡi ôi, anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường! Chả thế, mà có câu đối:

Hiền tài là nguyên khí quốc gia
Mỹ nữ ấy tinh hoa vũ trụ 

2. Người Chăm chơi khăm người Việt?

Tương truyền là bài "Nước non ngàn dặm" theo điệu Nam Bình, có người cho rằng chính Huyền Trân Công Chúa đã soạn ra trong lúc đi đường sang nước Chăm:

Nước non ngàn dặm ra đi...
Mối tình chi!
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô, Lý.
Xót thay vì,
Đương độ xuân thì.
Số lao đao hay là nợ duyên gì?...

Nghe đồn, câu thơ thở than sau đây cũng của chính Huyền Trân Công Chúa, mà sau này đã bị hậu thế thuổng trắng trợn:

Từ thuở mang lồn đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long 

Người Việt có cái bản chất là luôn tưởng bở. Xưa cứ tưởng Chế Mân dại gái, đem cả mấy tỉnh đổi lấy công chúa Việt. Nhưng mà... Biết đâu, trời, mấy cái tỉnh chang chang cồn cát và bão lốc triền miên ấy (chỉ một cơn giữa tháng 9/2017 đã làm tốc bốn vạn mái nhà) đời đời chẳng đóng được đồng thuế nào nên hồn, luôn phải nhận trợ cấp từ trào đình. Thực sự là cầu mong thằng ếch nào đấy nó lấy mịa đi cho rảnh nợ. Quả là,

Chế Mân trí lự mặc cân, 

Lãi to một lỗ Huyền Trân ngon lành...

Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2018

Người bắn hạ hai anh em ông Ngô Đình Diệm nói gì trước khi chết?

Sưu tầm trên facebook - không rõ tác giả.

Ai ra lệnh giết anh em ông Ngô Đình Diệm? Ai cầm súng cầm dao hạ sát hai ông ấy? Từ trước đến nay dư luận đều đổ vào cho hai người đó là tướng Dương Văn Minh và Đại úy Nguyễn Văn Nhung. Về tướng Dương Văn Minh có nhiều tài liệu đã viết. Còn chuyện đại úy quân đội VNCH Nguyễn Văn Nhung sống chết như thế nào chưa có nhiều người biết.
Đảo chánh lật đổ chế độ Diệm chưa đầy 100 ngày thì các tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh và đại tá Nguyễn Chánh Thi làm cuộc “chỉnh lý 30.1.1964”. Để “trả thù cho ông cụ” (cụm từ của tướng Nguyễn Khánh đã nói với bà Trần Trung Dung-cháu gọi ông Diệm bằng cậu), những người làm “chỉnh lý” bắt ngay thiếu tá Nguyễn Văn Nhung. (Nguyễn Văn Nhung mới lên thiếu tá từ sau ngày đảo chánh 1.11.1963).
Ngày 17.2.1964, sĩ quan báo chí Bộ Quốc phòng của Nguyễn Khánh chính thức tiết lộ: “Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung sỹ quan tổng quát và tùy viên của trung tướng Dương Văn Minh bị bắt giữ hồi đêm 30-1 và giam tại Lữ đoàn Nhảy dù trại Hoàng Hoa Thám, ông Nhung tự vận bằng dây giày”.
Là một trong những người lãnh đạo cuộc “chỉnh lý 30.1.1964”, ông Nguyễn Chánh Thi đã kể lại chuyện nầy trong hồi ký của ông như sau:
“Trời sáng rõ. Các cánh quân bắt đầu đem về Bộ chỉ huy đảo chánh (“chỉnh lý”) những người mà họ cho là không ít thì nhiều “có tội với đất nước” (Sau này ông Khánh đã đặt ra những tội “trung lập” và “thân cộng” gán cho họ). Trong số này tôi (Nguyễn Chánh Thi) thấy có thiếu tá Nhung, viên sĩ quan cận vệ của trung tướng Dương Văn Minh. Thiếu tá Nhung được lệnh phải làm một bản tường trình về việc “tại sao, và bằng cách nào, đã quyết định giết chết ông Nhu và ông Diệm. Thiếu tá Nhung khai hoàn toàn không biết gì về quyết định của Hội đồng Quân nhân Cách mạng cả. Ông ta đã thuật lại việc giết hai ông Diệm, Nhu như sau:
Tờ khai của thiếu tá Nhung - người ám sát anh em Ngô Đình Diệm Khi đó lại thấy tướng Thu đưa lên hai ngón tay (ngón trỏ và ngón giữa) của bàn tay trái, với hai ngón khép lại với nhau, chỉ vào hai ngón tay của bàn tay phải giơ lên. Họ nghĩ rằng ông ra lệnh bắn cả hai anh em ông Diệm. Tôi (thiếu tá Nhung) rút khẩu súng Colt 12, bắn mỗi người 5 phát. “Tôi (Nhung) được lệnh đi theo Đoàn Thiết giáp lên đón hai ông Diệm, Nhu, sau khi được tin hai ông này từ một nhà thờ ở Chợ Lớn gọi điện thoại xin đầu hàng. Đoàn Thiết giáp do trung tá Nghĩa chỉ huy. Có một số sĩ quan ở Bộ Tổng Tham mưu đi theo, trong đó có thiếu tá Đày. Trách nhiệm tổng quát chỉ huy vụ này là thiếu tướng Thu (?). Đoàn Thiết giáp lên đến ngôi nhà thờ Chợ Lớn thì hai anh em ông Diệm ngoan ngoãn lên xe (xe M113 thiết giáp). Xe chạy về ngã Saigòn. Đi được chừng 500 thước thì từ phía Sài Gòn chạy ngược lên một đoàn mấy cái xe Jeep, trên đó có thiếu tướng Thu. Khi hai đoàn xe gặp nhau, đậu cách nhau chừng 30 thước, thiếu tướng Thu và đoàn tùy tùng xuống xe. Lúc đó bên đoàn thiết giáp có ý chờ đợi thiếu tướng Thu cho lệnh về việc xử trí với anh em ông Diệm như thế nào. Từ đằng xa họ thấy tướng Thu đưa lên một ngón tay trỏ. Bên đoàn xe thiết giáp dự đoán rằng ông ta ra lệnh giết một trong hai anh em ông Diệm. Họ còn đang ú ớ muốn hỏi lại cho rõ, xem phải giết người nào, thì đồng bào ùa đến xem quá đông. Bên đoàn xe thiết giáp bắt đầu lo ngại về an ninh của anh em ông Diệm cũng như về an ninh của chính họ (Họ nghĩ rằng dư đảng Cần Lao có thể trà trộn giải vây cho anh em ông Diệm, hoặc dân chúng phẫn uất có thể giết chết hai ông này). Họ muốn chạy băng qua để hỏi lệnh cho rõ, nhưng dân chúng vây chặt, không thể nào đi được. Khi đó lại thấy tướng Thu đưa lên hai ngón tay (ngón trỏ và ngón giữa) của bàn tay trái, với hai ngón khép lại với nhau, chỉ vào hai ngón tay của bàn tay phải giơ lên. Họ nghĩ rằng ông ra lệnh bắn cả hai anh em ông Diệm. Tôi (thiếu tá Nhung) rút khẩu súng Colt 12, bắn mỗi người 5 phát. Sau đó hăng máu bồi thêm cho ông Nhu 3 phát nữa vào ngực. Đồng thời đoàn xe thiết giáp được lệnh dẹp đường chạy về Bộ Tổng Tham mưu. Cùng lúc, tướng Thu cũng cho đoàn xe quay đầu chạy trước đoàn xe thiết giáp cùng hướng về Bộ Tổng Tham mưu. Trong lúc xe chạy thì thiếu tá Đày cúi xuống lấy cái cặp của ông Diệm, nói là sẽ đem về trình Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Dường như trong cặp ấy có nhiều đồ vật, tài liệu quý giá”.
Cuối tờ khai, Thiếu tá Nhung kết luận: “Tôi chỉ vì hăng say theo lệnh cấp trên mà đã làm như thế”. Nội trong đêm, sau khi làm tờ khai, Thiếu tá Nhung trong phòng tạm giam ở Bộ Tổng Tham mưu, đã lấy dây giầy của mình thắt cổ tự sát. Tôi (Nguyễn Chánh Thi) được tin, không khỏi ngậm ngùi cho số kiếp của một sĩ quan trung thành với cấp trên, không lường được hậu quả to lớn của việc mình làm, không có ý thức chính trị hướng dẫn, đến khi một mình chịu tội một mình thác oan…” [1].
Đoạn trích trên đây có lời tự thuật của thiếu tá Nhung - người được xem là xạ thủ đã giết chết anh em ông Ngô Đình Diệm. Không rõ ông Thi ghi lại bản tự thuật đó có trung thực hay không, vì sau lần tự thuật đó thiếu tá Nhung không còn ở trên đời nên không thể kiểm chứng được. Giả như bản tự thuật đó trung thực thì ta thấy thiếu tá Nhung vào giờ phút nguy nan nhất vẫn rất bình tĩnh:
1. Nhận hết trách nhiệm về việc hạ sát anh em ông Ngô Đình Diệm;
2. Khẳng định “không biết gì về quyết định của Hội đồng Quân nhân Cách mạng” để tránh những rắc rối đối với tướng Dương Văn Minh. Tất cả những người có liên quan đến vụ đi bắt và giết anh em ông Diệm đều được khai với những cái tên hoàn toàn không có trong thực tế, về cấp bậc và nhiệm vụ cũng sai để những người nầy khỏi phải bị nêu tên thật trong bất cứ hoàn cảnh nào: Ví dụ Nhung khai:
-Trung tá Nghĩa chỉ huy đoàn thiết giáp (sự thực là đại úy Dương Hoà Hiệp)
-Thiếu tá Đày sĩ quan ở Bộ Tổng Tham mưu đi theo (trong đoàn không có ai tên là Đày cả, chỉ có thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa (lúc đi bắt ông Diệm, Nghĩa mới đeo lon đại úy); theo Nhung thiếu tá Đày là người “lấy cái cặp của ông Diệm nói là sẽ đem về trình Hội đồng Quân nhân Cách mạng”.
-Thiếu tướng Thu trách nhiệm tổng quát chỉ huy vụ nầy (sự thực trong Hội đồng tướng lãnh tham gia đảo chánh không có ai tên là Thu cả mà là thiếu tướng Mai Hữu Xuân - người được tướng Dương Văn Minh cử đi theo dõi đoàn xe “rước anh em tổng thống Diệm”.
Sau ngày chỉnh lý 30.1.1964, có dư luận cho rằng đại tá Thi đã tham gia vào việc đánh đập tra tấn Nguyễn Văn Nhung đến chết. Trong hồi ký, Nguyễn Chánh Thi cho biết:“Sau khi làm tờ khai, thiếu tá Nhung trong phòng tạm giam ở Bộ Tổng Tham mưu, đã lấy dây giầy của mình thắt cổ tự sát”. Và tướng Thi tỏ ra ngậm ngùi thương tiếc: “Tôi được tin, không khỏi ngậm ngùi cho số kiếp của một sĩ quan trung thành với cấp trên, không lường được hậu quả to lớn của việc mình làm, không có ý thức chính trị hướng dẫn, đến khi một mình chịu tội một mình thác oan”. Và cái chết bí ẩn được cho là tự sát bằng dây giày Tướng Thi cố ý viết đọan hồi ký nầy để đính chính dư luận nghi ngờ ông đã tham gia vào việc tra khảo Nguyễn Văn Nhung. Vì thế tôi đã tìm gặp bà Huỳnh Thi Nhi vợ góa của thiếu tá Nguyễn Văn Nhung sống với gia đình ở quận 8 TP.Hồ Chí Minh. Bà quả phụ Huỳnh Thị Nhi cho biết: khi được báo tin chồng chết bà đến nhận xác chồng ở Bệnh viện Cộng Hòa, nhưng các bác sĩ pháp y không ai dám xác nhận chồng bà đã chết bằng cách gì. Ngay cả bác sĩ Nicola Võ Minh Kỵ làm giám đốc Bệnh viện Cộng Hòa có bà con với gia đình bà cũng đóng cửa phòng để tránh việc phải xác nhận về cách chết của Nguyễn Văn Nhung. Nếu ông Nhung tự tử bằng dây giày thì việc xác nhận có gì khó khăn đâu để những người có trách nhiệm trong pháp y sợ hãi phải từ chối né tránh đến vậy?
Bà Huỳnh Thị Nhi cho biết thêm khi khâm liệm ông Nhung bà thấy trên mặt trên đầu trên thân thể ông có hàng chục vết bầm tím, có vết còn in nguyên dấu đế giày bốt-đờ-xô. Có lẽ Nguyễn Văn Nhung bị trả thù bằng những đòn đấm đá của nhiều người nên các bác sĩ pháp y không dám xác nhận chăng? Bà Nhi khẳng định chồng bà bị tra khảo mà chết chứ không phải tự sát bằng dây giày như đại tá Thi đã viết. Theo báo Dân Ý xuất bản ở Sài Gòn, từ số 140 ngày 01.10.1970 đến số 160 thì thiếu tá Nhung đã “bị đá bể lá lách sau khi ông đã khai tất cả những bí mật trong vụ thanh toán anh em tổng thống Diệm. Lời khai của ông được thâu băng và trao cho tướng Khánh”.
Cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm như thế nào báo Hồn Việt số ra mắt (tháng 7-2007) đã đề cập rõ và cái chết của Nguyễn Văn Nhung - người bị dư luận qui kết là thủ phạm đã gây ra hai cái chết trên chưa được bạch hóa. Nguyễn Văn Nhung bị “ép cung” đã phải viết ra bản “cung khai” nêu trên chứng tỏ dư luận qui kết cho Nhung là có cơ sở. Qua bản “cung khai” do kẻ thù của Nhung công bố giúp cho những người quan tâm lịch sử thấy được bản chất “anh hùng hảo hớn” của Nhung. Nguyễn Văn Nhung không phải là một người tầm thường. Người nói đúng được bản chất của Nguyễn Văn Nhung không ai khác là chính đại úy Đỗ Thọ - người đối đầu số 1 của Nguyễn Văn Nhung trước giờ anh em ông Ngô Đình Diệm bị bắt lên xe thiết giáp M113 trước Nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn.
Sau khi nghe Nguyễn Văn Nhung bị bắt và bị giết để trả thù cho anh em ông Ngô Đình Diệm, Đỗ Thọ viết trong nhật ký: “Đối với tôi thiếu tá Nhung nổ súng vào đầu tổng thống Ngô Đình Diệm phải vất vả lắm. Thiếu tá Nhung rất can đảm lắm mới dám bắn như thế…Thiếu tá Nhung còn là người “chịu cam số phận”. Đáng ra trong hồ sơ khẩu cung sau ngày chỉnh lý 30.1.64, thiếu tá Nhung phải khai thêm một sĩ quan đồng lõa tên Nghĩa nữa, nhưng không hiểu tại sao thiếu tá Nhung lại không tiết lộ. Phải chăng vị sĩ quan cận vệ của tướng Dương Văn Minh là một anh hùng vì bạn bè. Dù sao một sĩ quan trung thành như thế cũng đáng trọng vậy” [2]
Chú thích:
[1] Nguyễn Chánh Thi, VIỆT NAM - Một trời tâm sự, Nxb Anh Thư, California (USA) 1987, tr.230-1

[2] “Nhật ký Đỗ Thọ”, Nxb Đồng Nai, SG. 1970, tr.331. Nhân đây cũng xin nói thêm một chút về Đỗ Thọ. Đỗ Thọ nguyên là một phi công lái tàu bay vận tải của quân đội Sài Gòn, được chuyển qua làm sĩ quan tùy viên cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Đỗ Thọ tuyệt đối trung thành và tận tụy với ông Diệm. Sau khi ông Diệm bị bắt và bị giết (2.11.1963), Đỗ Thọ trở lại nghiệp bay. Thọ rất thương tiếc cho cái chết của Tổng thống Diệm và đã thổ lộ tâm sự của mình trong cuốn hồi ký mang tên “Nhật ký Đỗ Thọ”. Ngày 14.2.1964, trong một chuyến bay đón “thủ tướng” Nguyễn Khánh tại Đà Nẵng, Đỗ Thọ đã tử nạn trên không phận Quảng Nam. Năm đó Thọ mới 29 tuổi, chưa có vợ con, chỉ để lại cho gia đình cuốn hồi ký “Nhật ký Đỗ Thọ”. Năm 1970, một người em đã “sưu tầm và xuất bản” tập hồi ký nầy. (Theo Đỗ Mậu, Sđd). Là một sĩ quan tùy viên, Đỗ Thọ đem hết trí lực để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổng thống Diệm. Cho nên, hơn ai hết Đỗ Thọ hiểu được những khó khăn của sĩ quan tùy viên Nguyễn Văn Nhung trong cố gắng hòan thành lệnh của tướng Dương Văn Minh giao. Đỗ Thọ không thù ghét người đã giết chủ của mình mà ngược lại có lời khen đúng đắn đối với một đồng nghiệp. Bởi vì Nguyễn Văn Nhung không những là người rất can đảm trong nhiệm vụ khó khăn mà còn tỏ ra hào hiệp nhận hết trách nhiệm về mình để tránh những hệ lụy cho người khác.