Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

JB Nguyễn Hữu Vinh - CHÂN DUNG MỘT "LÃNH TỤ VĨ ĐẠI" CỦA ĐÁM DƯ LUẬN VIÊN

Theo Facebook JB Nguyễn Hữu Vinh

Lời nhận xét của JB Nguyễn Hữu VinhTrần Nhật Quang, một cái tên nổi lên thời gian qua như một ví dụ hài hước về tầm nhận thức của những người được đảng sử dụng làm công cụ.
Anh ta là ai? ngoài những hình ảnh thể hiện ở nơi công cộng, các bài viết trên fb, thì anh ta như thế nào?
Một người bạn trên fb gửi cho tôi những dòng tin nhắn là các đoạt text chat với Trần Nhật Quang để hiểu rõ hơn về anh ta. Tôn trọng người gửi, tôi không để tên họ vì có thể làm mất mối tình đoàn kết giữa họ và TNQ.
Mời các bác xem và đánh giá đúng con người TNQ đỡ mất công, mất thời gian với dạng người này.











Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

Bá Dương - Kẻ thù của người Trung Quốc

Xin gioi thieu voi cac ban mot bai viet hay lay tren mang.
Kẻ thù của người Trung Quốc
May 22, 2014 at 8:46pm
(Bài do một trí thức Trung quốc viết.)

Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Trung Quốc, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Trung Quốc, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy-Lạp thời nay với người Hy-Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai-Cập cũng vậy. Nhưng người Trung Quốc hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Trung Quốc cổ đại. Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo nguợc, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.
Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương - thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: "Làm người Trung Quốc ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa". Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.
Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ hồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận.
Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!
Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn "chối tai", có một người đứng dậy nói: "Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?". Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: "Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!" Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: "Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!" Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: "Tiền đồ Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!"
Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời ? Đến đời nào thì mới thật khá lên được ? Tại Trung Quốc đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, dầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú.
Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng-Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.
Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế?
Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Trung Quốc (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?
Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái. Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:
"Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!"
Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: "Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử". Lại nhìn về trẻ con ở Trung Quốc lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?
Người ta thường nói: "Mình nắm tương lai mình trong tay mình". Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.
Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi-măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.
Lúc chết, Chúa Giê-Su (Jesus) bảo: "Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu". Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Trung Quốc sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.
Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì ? Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.
Tôi nghĩ người Trung Quốc chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Trung Quốc thoát khỏi khổ nạn?
Nguyên do vì sao?
Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Trung Quốc có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh.
Có người sẽ bảo: "Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!". Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng "Quần ma" (Những con ma) của Ibsen (íp-sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: "Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?" Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta.
Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Trung Quốc chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!
Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Trung Quốc đến ở là những người khác phải dọn đi. Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Pa-ri sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: "Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!" (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Trung Quốc). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: "Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?" Cô ta đáp: "Làm sao nổi!"
Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn.
Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: " Chúng tôi đang thì thầm với nhau".
Tại sao tiếng nói người Trung Quốc lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?
Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Trung Quốc bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.
Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Trung Quốc. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.
Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại người Trung Quốc không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Trung Quốc mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.
Cho nên, có thể nói, mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Người Trung Quốc ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi - nơi không cần quan hệ với người khác - thì lại có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Trung Quốc có biệt tài đấu đá lẫn nhau.
Chỗ nào có người Trung Quốc là có đấu đá, người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Trung Quốc không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: "Anh có biết người Trung Quốc vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!" Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.
Người Trung Quốc không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.
Ở Trung Quốc có câu: "Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống". Người đông thì dùng để làm gì? Người Trung Quốc trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết.
Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học - anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước... - Ngày hôm sau tôi bảo:
"Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!". Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: "Anh đưa tôi đi một lát nhé!". Anh ta bảo: "Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!".
Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Hoa cắn xé nhau là một đặc trưng nghiêm trọng.
Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Trung Quốc với nhau. Bán rẻ người Trung Quốc, hăm dọa người Trung Quốc lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Tại Ma-lai-xi-a có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Ma-lai-xi-a tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: "Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?". Người kia bảo: "Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?"
Cho nên kẻ thù của người Trung Quốc lại là người Trung Quốc.
Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Trung Quốc với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói "người Trung Quốc và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù". Điều này phải chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy nghìn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ "Tứ nhân bang" (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.
Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Trung Quốc thường đăng: "Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau", nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng I-xra-en vẫn tổ chức bầu cử.
Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.
Tại Trung Quốc chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco. Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở I-xra-en cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Trung Quốc thì một người sẽ bảo: "Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!"
Người Trung Quốc không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Trung Quốc ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ.
Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: "Chết cũng không chịu nhận lỗi". Có ai nghe thấy người Trung Quốc nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Trung Quốc nói: "Việc này tôi đã sai lầm rồi!" Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.
Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: "Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!" Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.
Người Trung Quốc không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che dấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: "Đóng cửa suy gẫm lỗi lầm" (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai ? Dĩ nhiên của đối phương.
Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: "Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!". Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu?
Người Trung Quốc không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Trung Quốc không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Trung Quốc thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.
Họ liên miên khoa trương về dân Trung Quốc, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Trung Quốc, nào là có thể khuếch trương thế giới,v.v...Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.
Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Trung Quốc thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu "Em yêu, em cưng" [Bá Dương dùng chữ "đường mật" và "ta linh" để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh -ND] thì người Trung Quốc gọi nhau là "kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc" (sát thiên đao đích).
Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: "Tại sao người Trung Quốc lại độc ác và hạ lưu đến thế?"
Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: "Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!". Còn người Trung Quốc sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là "Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!" Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời.
Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: "Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!" Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.
Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.
Trung Quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi.
Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Trung Quốc có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Trung Quốc không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?
Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.
Mọi người Trung Quốc đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: "Bỏ qua cho rồi!"
Mấy chữ "bỏ qua cho rồi" này đã giết hại không biết bao nhiêu người Trung Quốc và đã biến dân tộc Trung Quốc thành một dân tộc hèn mọn.
Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi.
Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa bạo quan ở Trung Quốc không bao giờ bị tiêu diệt.
Trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, các vị có thể xem ở "Tư trị thông giám" (Một pho sử của Tư Mã Quang tóm hết chuyện hơn 2.000 năm để làm gương cho người đời sau), cái việc bo bo giữ mình đã được xem là kim chỉ nam và nhấn mạnh năm lần bảy lượt. Bạo chúa, bạo quan cũng chỉ cần dân chúng cứ bo bo giữ mình là được, cho nên người Trung Quốc mới càng ngày càng khốn đốn đến như thế.
Nơi nào người Trung Quốc đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Trung Quốc trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được? Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật "thích xem" (người khác đau khổ), hoặc "chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác".
Họ luôn mồm "nhân nghĩa" mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu: "Phải tử tế với người và súc vật!", trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau.
Tóm lại, người Trung Quốc đúng là một dân tộc vĩ đại, vĩ đại đến độ làm cho người đời nay không có cách nào hiểu nổi tại sao họ có thể tồn tại được trên quả địa cầu này những 5.000 năm?
Bá Dương

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

Trần Hồng Tâm – Điêu tàn


Ông vừa xuất hiện trên trên vòm trời chính trị Việt Nam. Gương mặt ông đỡ lem luốc bởi khói lửa chiến tranh, đỡ hốc hác của thời đói khát, đỡ nhàu nát bởi hận thù nghi kị, đỡ căng thẳng vì không lo diễn biến hòa bình, đỡ hung hăng bởi không phải chống thế lực thù địch.
Tôi cũng như bao nhiêu người Việt khác đặt lên vai ông vài tia hy vọng. Nhưng chiều nay, đọc được lời ông phát biểu về một giàn khoan “Lạ” ngoài biển Đông, thì những tia hy vọng mong manh kia lịm tắt.
Một nhà khoa học trẻ hỏi: Việt Nam có nên xây dựng quan hệ đồng minh với nước nào không? Ông trả lời: “Không liên minh với nước nào để chống lại một nước thứ ba.”
Ôi thưa ông! Tôi muốn khóc. Khóc cho sự suy tàn trí tuệ. Chống xâm lăng và chống nước thứ ba là hai hành động khác biệt. Nó khác nhau như bóng tối và ánh sáng. Nó rạch ròi như trắng với đen. Lẽ nào ông không phân biệt nổi. Lẽ nào ông lầm. Hay ông định bao che, dung túng. Hay ông định đánh tráo khái niệm.
Một nhà khoa học trẻ khác hỏi: Có nên kiện nước “Lạ” ra tòa án quốc tế không? Ông trả lời: “Mang nhau ra tòa, như bát nước đổ xuống lấy lại rất khó”.
Họ “dạy cho Việt Nam một bài học”. Họ “cho Việt Nam nếm mùi tan vỡ”. Họ chửi: “Chúng mày là lũ du côn của phương Đông”, “Bọn tiểu bá. Quân ăn cháo đái bát”.
Không chỉ bằng lời nhục mạ, mà bằng bạo lực. Họ hất đổ bát cơm trên tay dân. Họ đập vỡ hộp sọ dân ông. Giờ đây, họ không những lấy lại được bát nước chan chứa tình đồng chí, mà còn được thêm cả một nồi nước lèo hầm bằng xương thịt của anh chị em ông.
Kiện nhau và giết nhau là hai cung bậc rất xa nhau của tình cảm và hành động. Không lẽ ông lầm.
Kiện họ ư? Ông sợ họ buồn, họ giận. Ông muốn giữ gìn “đại cục”. Ông muốn hiếu hòa. Ông muốn vớt lại chút nước cặn. Nhưng họ phá nhà ông. Họ giết đồng bào của ông. Mà ông vẫn không giận không hờn, vẫn cười tươi, ôm hôn, thắm thiết, vẫn nâng niu, dâng hiến tình đồng chí, cao hơn cả xương cốt của tổ tiên.
Ôi! Đấng Bồ Tát hay Chúa Giê-su cũng chưa thể có lòng từ bi cao thượng được bằng ông.
Bài phát biểu của ông chỉ khoảng chừng 500 chữ, mà có đến sáu lần ông nhắc nhở: “Phải tuân thủ luật pháp quốc tế”, “Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế”, “Con cháu chúng ta sẽ đòi được theo đúng luật pháp quốc tế”, “Từ trước tới nay luôn theo luật pháp quốc tế”, “Tất cả các giải pháp theo luật quốc tế”.
Chưa bao giờ luật pháp quốc tế lại được tôn trọng ở Việt Nam như hôm nay.
Cách đây không lâu, quốc tế nhắc: Phải tôn trọng nhân quyền. Ông chửi: Câm mồm. Nước ông có định chế riêng. Quốc tế bảo: Không được bắt người, tra tấn, xét xử tùy tiện. Ông cãi: Đừng chúi mũi vào ống khóa nhà riêng. Quốc tế khuyên: Nên có tự do tôn giáo. Ông phủ nhận: Xứ sở ông có tập quán riêng. Quốc tế phàn nàn: Nên tôn trọng tự do ngôn luận. Ông bào chữa: Đất nước ông có nền văn hóa đặc thù
Thì ra ông chỉ dùng luật pháp quốc tế khi nó mang lại lợi lộc cho ông, còn khi mang lại quyền lợi cho người khác thì ông chỉ việc ngồi xổm lên tất cả.
Hơn nữa, ông là người ỉa vào luật pháp, đái vào quốc tế, vậy mà bây giờ ông lại kỳ vọng anh bạn vàng chấp hành luật pháp quốc tế sao.
Họ hung hăng, ngang ngược vi phạm luật pháp quốc tế xâm lược biển Đông. Còn ông cũng hung hăng, ngang ngược đàn áp người biểu tình chống quân xâm lược. Hai hành vi này đâu mấy khác nhau.
Có lẽ, tôi đã không viết những dòng này, nếu người nghe ông bữa đó, không phải là những nhà khoa học trẻ. Tôi cũng không viết nếu những nhà khoa học trẻ không khóc xúc động khi nghe ông nói.
Tôi viết vì nỗi xót xa cho tuổi trẻ quê hương tôi tin vào một nền chính trị vừa Điêu trá vừa Tàn bạo.

18 tháng Năm, 2014

Trần Hồng Tâm

Alan Phan – Âm Thanh Của Im Lặng


People talking without speaking
People hearing without listening
People writing songs that voices never share
And no one dared
Disturb the sound of silence
(Simon & Garfunkel)

Tôi còn nhớ lúc lên 5, 6 tuổi gì đó, có một đám bạn chạy theo tôi theo như một “lãnh tụ”, vì tôi là thằng con nít rất sáng tạo, bày ra nhiều thú chơi độc đáo. Người lớn thì chỉ kết tội tôi là thằng quậy nhất đám. Cho đến một hôm, lãnh tụ Alan lên mặt can ngăn và dạy dỗ cho 2 thằng đệ tử đang choảng nhau vì một tranh dành nào đó tôi không còn nhớ. Hai thằng quên mất chuyện xích mích của nhau và cùng quay lai, đập tôi một trận nhừ tử có lẽ vì lối lên mặt dậy đời xấc láo của tôi (có nên Email cho John Kerry về câu chuyện này?).

Đó là bài học đầu tiên của tôi về sự can thiệp ngu xuẩn trong khi các địch thủ đang có cảm xúc cao độ, dù hoàn toàn phi lý, về bất cứ vấn đề gì. Khi con người đang nóng giận, trí tuệ là nạn nhân đầu tiên. Cho nên, con người khôn ngoan là con người biết “câm miệng”. (Xét trên khía cạnh này thì 90 triệu dân Việt là những con người khôn ngoan nhất thế giới).

Lớn lên, nghĩ sâu xa thêm về những hành xử trước những đụng chạm tranh cãi của xã hội, tôi thấy sự im lặng không những cần thiết cho những kẻ đứng ngoài cuộc, mà còn cần thiết cho mọi người trong trận đấu.

Năm 1964, tài tử vô danh Clint Eastwood xuất hiện trong một cuốn phim cao bồispaghetti (gọi vậy vì đây là phim cowboy đầu tiên của Mỹ quay tại Ý) gọi là A Fistful of Dollars. Anh hùng Eastwood gần như không nói một lời nào trong suốt cuốn phim, lầm lì giết từng kẻ thù one-by-one với khuôn mặt lạnh như đồng. Cái im lặng chết người đó đánh trúng một tâm lý nào của đám đông, và một sớm một chiều, Clint Eastwood trở thành một hình tượng của phim ảnh không kém John Wayne lúc xưa. Anh hùng đích thực trong mọi trận chiến dường như là loại người không thích nói nhiều, chắc chắn không phải là một cái loa phát thanh suốt ngày lải nhải chuyện chiến thắng vĩ đại, hy sinh vì đại nghĩa hay sống chết cho nhân loại đại đồng…

Không phải chỉ tại Mỹ, mà Khổng Tử ngàn xưa của văn hóa Tàu cũng ca ngợi cái “Dũng” của thánh nhân là “cùng cực của sự điềm đạm. Điềm đạm, tức là cái tính “như như bất động”, thản nhiên bình tĩnh, “không thể cho ngoại vật động đến tâm của mình”. Người điềm đạm, tức là người đã làm chủ được tính dục và ý chí của mình. Nói một cách khác, người điềm đạm, tức là người “chủ động”, không “bị động” vì những vật không theo mình nữa.” (trích Thu Giang Nguyễn Duy Cần).

Gần đây, trong cuộc tranh chấp lãnh hải giữa 2 bên Trung Quốc và Việt Nam, một người ít nói khác đã viết nên một trang sử bi hùng bằng một hành động vị tha thật cảm động. Bà Lê Thị Tuyết Mai tự thiêu để làm một ngọn đuốc soi sáng con đường trước mặt cho những người đang lần mò phía sau:

“Suốt mười ngày qua tôi sống thầm lặng và sôi sục lòng yêu nước, hôm nay tôi quyết chí đốt thân mình hòa ánh đuốc soi đường do những người xâm lược và ngoan cố chiếm đóng lãnh hải chúng tôi… Nguyện hồn thiêng đất nước cho con làm một việc yêu nước không gặp trở ngại, không có gì ngăn cản và đừng tìm cách cứu sống… Xưa kia hai bà Trưng hy sinh Thy Sách để nung nấu ý chí quân sỹ và nhân dân để chiếm đánh thành Ngọc Hồi, hôm nay tôi nguyện làm ngọn đuốc để hậu thuẫn, thêm sức mạnh cho cảnh sát biển cùng ngư dân” (Trích Lê Thị Tuyết Mai)

Đó là một đởm lược mà chắc chắn cá nhân còn “tham, sân, si” của tôi không bao giờ làm được.

Và cũng là điều mà ông Vũ Mão, quan chức cao cấp và đại diện cho một bộ phận không nhỏ của đất nước Việt Nam, phải bào chữa để lấp liếm những sai lầm của quá khứ, ““Chúng ta nên nói với nhân dân thế nào về phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt trong quan hệ đối ngoại hai nước. Tôi cho rằng, 16 chữ ấy có thể có lúc không đạt được nhưng nó vẫn là cái mong muốn muôn thuở….Mối bang giao với Trung Quốc đã có thời kỳ rất tốt đẹp mà Bác Hồ góp công xây dựng nên. Chúng ta cần giữ và phát huy điều đó. ” (Trích Vũ Mão).

“Cái mong muốn muôn thuở” của ông Vũ Mảo và các đồng chí Việt-Trung làm tôi nghẹn ngào.

Nhiều bạn BCA thăm hỏi tại sao tôi lại quá im lặng trong vài tuần lễ qua. Không phải là tôi không có ý kiến hay sợ không dám nói lên ý kiến của mình. Tuy nhiên, trong những tiếng động và phẫn nộ của đám đông từ nhiều phía, lời nói của một phó thường dân không những bị âm thanh chung quanh làm chìm khuất mà còn có thể tạo một nguyên cớ để gây kích động cho những lợi ích hiểm mưu nào đó. Những con chó sói luôn luôn rình mò và chúng luôn nhìn thấy cơ hội từ những biến động.

Trong khi đánh giá những mưu mô thủ đoạn cũng như những lực chuyển tốt lành cho quê hương, tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn trẻ là hãy giữ mình trong “sự điềm đạm” để còn được hữu dụng khi đất nước đòi hỏi. Các bạn sẽ biết “chân lý” và “dối trá” khi nhiều sự kiện bắt đầu phơi bày rõ hơn trong những ngày tới. Muốn quyết định số phận của mình thì đừng bao giờ làm một con tốt thí.


Nếu không thấy giải pháp nào đúng nghĩa, quay vào vỏ bọc của con rùa, rút đầu chờ đợi cơn bão tố qua đi.

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

LS Nguyễn Trọng Quyết - THÊM PHÁT HIỆN MỚI XUNG QUANH CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG

Link : http://xuandienhannom.blogspot.fr/2013/01/them-phat-hien-moi-xung-quanh-cong-ham.html?spref=fb

CÔNG HÀM 14/9/1958 DO TH TƯỚNG PHM VĂN ĐNG KÝ LÀ "CÁI BY" NGOI GIAO CA CT H CHÍ MINH LA CHU ÂN LAI

LS Nguyễn Trọng Quyết
Lời dẫn của nhà văn Phạm Viết Đào: 
- Ngày 14 tháng 9 năm 1958 lại là ngày Chủ nhật. Đây là ngày nghỉ hàng tuần của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Chính phủ ?
- Tại thời điểm năm 1958, quyền hạn của chức danh Thủ tướng được quy định theo Hiến pháp năm 1946.
- Điều 44 Hiến pháp năm 1946 ghi rõ:

“Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch và Nội các.

Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng”.
Quy định trên cho thấy: Thủ tướng chỉ là người đứng đầu nội các, là một thành viên trong số rất nhiều thành viên của Nội các, do Chủ tịch nước chọn và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Các quy định khác của bản Hiến pháp xác nhận vị trí người đứng đầu Chính phủ khi ấy là Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa...
- Như vậy chữ ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 14/9/1958 hoàn toàn không có giá trị pháp lý, tư cách pháp nhân thay mặt Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp 1946!
Cảm ơn Ls Nguyễn Trọng Quyết đã phát hiện ra "cái bẫy" pháp lý  có giá trị này?

Ngày 14 tháng 9 năm 1958, tại sao?
Ngày 14 tháng 9 năm 1958 từ Hà Nội, “Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai – Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có nội dung như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể…
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958 …”
Xét về mặt câu chữ cho thấy: văn bản này được làm tại Hà Nội vào ngày 14 tháng 9 năm 1958. Diễn giải theo trình tự có thể suy luận: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhóm họp, biểu quyết nhất trí ghi nhận và tán thành tuyên bố về hải phận của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; cuộc họp có thể diễn ra vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 hoặc trong khoảng thời gian 10 ngày trước đó (từ ngày 4 tháng 9 năm 1958 đến ngày 13 tháng 9 năm 1958). Trên cơ sở đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký văn bản thông báo quan điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho Chu Ân Lai. Vì văn bản được ký vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 nên đương nhiên, con dấu của Chính phủ cũng được đóng vào ngày này.
Nhưng ngày 14 tháng 9 năm 1958 lại là ngày Chủ nhật. Đây là ngày nghỉ hàng tuần của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Chính phủ. Có đúng là ngày Chủ nhật 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và bộ máy giúp việc vẫn tới Phủ Thủ tướng làm việc bình thường, soạn thảo và ký ban hành văn bản gửi Chu Ân Lai? Hay sự thật, văn bản này đã được soạn rồi ký sẵn một hoặc nhiều ngày trước đó, thậm chí là sau đó?
Quyền hạn của Thủ tướng!
Tại thời điểm năm 1958, quyền hạn của chức danh Thủ tướng được quy định theo Hiến pháp năm 1946.
Cần nhấn mạnh rằng, văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 ghi chức danh “Thủ tướng Chính phủ” trong phần người ký là chưa chính xác. Điều này rất dễ gây ra sự hiểu lầm tai hại: Thủ tướng chính phủ là người đứng đầu chính phủ và có quyền đại diện cho chính phủ ấy.
Thế nhưng, quy định của Hiến pháp năm 1946 lại hoàn toàn không phải như vậy.
Điều 44 Hiến pháp năm 1946 ghi rõ: “Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng”.
Quy định trên cho thấy: Thủ tướng chỉ là người đứng đầu nội các, là một thành viên trong số rất nhiều thành viên của Nội các, do Chủ tịch nước chọn và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Các quy định khác của bản Hiến pháp xác nhận vị trí người đứng đầu Chính phủ khi ấy là Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Không có một điều luật riêng biệt quy định quyền hạn cụ thể của chức danh Thủ tướng và thậm chí, người giúp đỡ Chủ tịch nước là Phó Chủ tịch mà không phải là Thủ tướng. Nói cách khác, quyền hạn của Thủ tướng theo Hiến pháp 1946 rất hạn chế, bó hẹp trong một số công việc như: chọn Bộ trưởng để đưa ra Nghị viện biểu quyết; chọn thứ trưởng để Hội đồng Chính phủ chuẩn y; chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các. Bản Hiến pháp cũng không có điều khoản quy định về thẩm quyền của Nội các.
Thay vào đó, Hiến pháp 1946 lại quy định rất cụ thể quyền hạn của Chủ tịch nước và quyền hạn của Chính phủ. Trong số các quyền hạn của Chủ tịch nước theo quy định tại Điều 49, có các quyền hạn sau: 
- Thay mặt cho nước;
- Chủ tọa Hội đồng Chính phủ;
- Ký hiệp ước với các nước;
Rõ ràng, Chủ tịch nước mới là chức danh đại diện cho nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa nói chung, cho Nhà nước và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nói riêng trong quan hệ bang giao với các nước mà Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không phải là ngoại lệ. Thủ tướng chỉ là một thành viên của nội các – một cơ quan của Chính phủ và không có các quyền hạn này.
Cũng không có bằng chứng cho thấy Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hội đồng chính phủ khi ấy đã ủy nhiệm cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng được quyền đại diện ra văn bản phúc đáp tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.   
Chính phủ có họp?
Văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 nêu rõ là: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành …”. Do vậy theo logic, sau khi có Tuyên bố về hải phận ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có một cuộc họp và nội dung cuộc họp đã thể hiện ý chí “ghi nhận”, “tán thành” tuyên bố của Trung Quốc.
Như đã trích dẫn một phần Điều 49 Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền “chủ tọa Hội đồng Chính phủ”. Dựa trên tư liệu từ báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (dangcongsan.vn), nhật ký làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 04 tháng 9 năm 1958 đến ngày 14 tháng 9 năm 1958 được ghi lại như sau:
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958:
+ Sáng: tiếp đoàn Đại biểu bóng đá  Campuchia;
+ Trong ngày, dự họp ban Bí thư bàn một số vấn đề về báo Nhân dân và công tác dân vận;
+ Trong ngày: tiếp đoàn đại biểu cán bộ trường thiếu sinh quân Quế Lâm và bệnh viện Nam Ninh;
- Ngày 5 tháng 9 năm 1958:
+ Dự họp Bộ Chính trị để bàn về công tác tổ chức Đảng, Chính phủ và công tác thủy lợi;
- Ngày 6 tháng 9 năm 1958:
+ Gửi đện mừng các vị lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ Triều Tiên nhân dịp kỷ niệm lần thứ 10 quốc khánh nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên;
- Ngày 7 tháng 9 năm 1958:
+ Sáng: đi thăm công trình thủy nông Gia Thượng, xã Ngọc Thụy, quận 8 (huyện Gia Lâm), ngoại thành Hà Nội;
+ Cùng ngày, đến thăm Trường sỹ quan hậu cần;
- Ngày 8 tháng 9 năm 1958:
+ 7 giờ, tiếp đoàn đại biểu hòa bình Miến Điện;
+ Trong ngày: dự họp Bộ Chính trị bàn về đấu tranh thống nhất nước nhà;
+ Cùng ngày: gửi huy hiệu tặng ông Phùng Quang Chiểu và Thanh niên xã Thống Nhất (Lào Cai);
 - Ngày 9 tháng 9 năm 1958: không ghi lịch làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
- Ngày 10 tháng 9 năm 1958:
+ Dự họp ban Bí thư để bàn về chính sách phân bón cho nông nghiệp và một số vấn đề khác;
+ Cùng ngày, ký quyết định số 86/QĐ giảm án tử hình xuống tù chung thân cho một phạm nhân can tội giết người;
- Ngày 11 tháng 9 năm 1958: không ghi lịch làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
- Ngày 12 tháng 9 năm 1958:
+ Dự họp bộ Chính trị bàn về quản lý gạo vụ mùa năm 1958 và về con số kiểm tra kế hoạch Nhà nước năm 1959;
- Ngày 13 tháng 9 năm 1958:
+ Sáng: thăm lớp học Chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc tổ chức tại Hà Nội;
+ Sau đó, thăm triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1958;
+ Chiều: tiếp giao sư người Miến Điện U.Oong la và phu nhân;
- Ngày 14 tháng 9 năm 1958:
+ Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề: Công xã nhân dân, ký bút danh Trần Lực, đăng báo Nhân dân, số ra 1645 giới thiệu về quá trình hình thành và những đặc điểm của công xã nhân dân ở Trung Quốc.
Không có tư liệu phản ánh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa bất cứ cuộc họp nào của Hội đồng chính phủ trong khoảng thời gian từ ngày 4 tháng 9 năm 1958 đến ngày 14 tháng 9 năm 1958. Cũng không thể nói có việc Phó Chủ tịch nước thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh để chủ tọa Hội đồng chính phủ vì thời kỳ này, không ai được bổ nhiệm giữ chức danh Phó Chủ tịch nước.  
Nếu điều này là sự thật thì văn bản của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi “Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quy định về hải phận…” là hoàn toàn không chính xác; và tiếp nữa, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng không có quyền đại diện cho Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa để hứa hay cam kết với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về mọi vấn đề có liên quan đến thực thi tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 vì thẩm quyền này thuộc về Hội đồng Chính phủ và Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hòa.
Nếu điều này là sự thật thì văn bản do ông Phạm Văn Đồng ký hẳn nhiên không phải là “công hàm ngoại giao” như kẻ xâm lược đã thổi phồng, cường điệu hóa mà thực chất chỉ là một lá thư viết vội của cá nhân Thủ tướng nội các thuộc Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hòa gửi Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có nội dung hoàn toàn không phản ánh quyết định của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khi ấy. Theo cách nói dân gian, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói dối Chu Ân Lai và thật lực cười khi Trung Quốc lại lấy những lời nói dối đó đó làm căn cứ để khẳng định chủ quyền phi lý đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
**
Cho đến chừng nào Hoàng Sa và một phần Trường Sa vẫn còn nằm trong tay ngoại bang, lá thư viết vội của ông Phạm Văn Đồng vẫn được kẻ xâm lăng sử dụng như một bằng chứng để biện hộ cho hành vi bành trướng của chúng thì chừng đó, mỗi người con đất Việt vẫn kiên quyết và thẳng thừng bác bỏ văn bản vô giá trị này.
LS. Nguyễn Trọng Quyết 
Phụ lục: Danh sách Chính phủ mở rộng
Chính phủ mở rộng (từ kỳ họp thứ 5 đến kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá I) 
(Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Quốc hội khoá I, Kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 20/9/1955 và được tiếp tục bổ sung cho đến Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa I, ngày 27-5-1959)


Chủ tịch nước
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Ông Phạm Văn Đồng (từ 9-1955)
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Ông Phan Kế Toại (từ 9-1955)
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Ông Võ Nguyên Giáp (từ 9-1955)
Phó Thủ tướng
Ông Trường Chinh (từ 4-1958)
Ông Phạm Hùng (từ 4-1958)
Bộ trưởng Bộ Công an
Ông Trần Quốc Hoàn
Bộ trưởng Bộ Giáo dục
Ông Nguyễn Văn Huyên
Bộ trưởng Bộ Tài chính
Ông Lê Văn Hiến (đến 6-1958)
Ông Hoàng Anh (từ 6-1958)
Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện
Ông Nguyễn Văn Trân (từ 9-1955)
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Kiến trúc
Ông Trần Đăng Khoa (từ 9-1955 đến 4-1958)
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi
Ông Trần Đăng Khoa (từ 4-1958)
Bộ trưởng Bộ Kiến trúc
Ông Bùi Quang Tạo (từ 4-1958)
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp
Ông Lê Thanh Nghị (từ 9-1955)
Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp
Ông Phan Anh (từ 9-1955 đến 4-1958)
Bộ trưởng Bộ Nội thương
Ông Đỗ Mười (từ 4-1958)
Bộ trưởng Bộ Ngoại thương
Ông Phan Anh (từ 4-1958)
Bộ trưởng Bộ Y tế
Ông Hoàng Tích Trí (đến 5-1959)
Ông Phạm Ngọc Thạch (từ 5-1959)
Bộ trưởng Bộ Lao động
Ông Nguyễn Văn Tạo
Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Ông Vũ Đình Hòe
Bộ trưởng Bộ Văn hoá
Ông Hoàng Minh Giám
Bộ trưởng Bộ Thương binh
Ông Vũ Đình Tụng (đến 5-1959, vì giải thể)
Bộ trưởng Bộ Cứu tế
Ông Nguyễn Xiển (từ 9-1955 đến 5-1959, vì giải thể)
Bộ trưởng Bộ Nông lâm
Ông Nghiêm Xuân Yêm
Bộ trưởng Phủ Thủ tướng
Ông Phạm Hùng (từ 9-1955 đến 4-1958)
Ông Nguyễn Duy Trinh (từ 4-1958 đến 12-1958)
Ông Nguyễn Khang (từ 5-1959)
Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
Ông Nguyễn Văn Trân (từ 4-1958 đến 12-1958)
Ông Nguyễn Duy Trinh (từ 5-1959)
Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
Ông Lê Văn Hiến (từ 12-1958)
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước
Ông Trường Chinh (Phó Thủ tướng kiêm chức từ 4-1958)


Bài do LS Nguyễn Trọng Quyết gửi cho Phamvietdao.net