CÔNG HÀM 14/9/1958 DO THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG KÝ LÀ "CÁI BẪY" NGOẠI GIAO CỦA CT
HỒ CHÍ MINH LỪA CHU ÂN LAI
LS
Nguyễn Trọng Quyết
Lời dẫn của nhà
văn Phạm Viết Đào:
- Ngày 14 tháng
9 năm 1958 lại là ngày
Chủ nhật. Đây là ngày nghỉ hàng tuần của các cơ quan Nhà nước, trong đó có
Chính phủ ?
- Tại thời điểm
năm 1958, quyền hạn của chức danh Thủ tướng được quy định theo Hiến pháp năm
1946.
- Điều 44 Hiến
pháp năm 1946 ghi rõ:
“Chính phủ gồm
có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch và Nội các.
Nội các có Thủ
tướng, các bộ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng”.
Quy định trên
cho thấy: Thủ tướng chỉ là người đứng đầu nội các, là một thành viên trong số rất
nhiều thành viên của Nội các, do Chủ tịch nước chọn và đưa ra Nghị viện biểu
quyết. Các quy định khác của bản Hiến pháp xác nhận vị trí người đứng đầu Chính
phủ khi ấy là Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa...
- Như vậy chữ ký
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 14/9/1958 hoàn toàn không có giá trị
pháp lý, tư cách pháp nhân thay mặt Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp 1946!
Cảm ơn Ls Nguyễn
Trọng Quyết đã phát hiện ra "cái bẫy" pháp lý có giá trị này?
Ngày 14 tháng 9 năm 1958
từ Hà Nội, “Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” Phạm Văn
Đồng gửi Chu Ân Lai – Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có
nội dung như sau:
“Thưa đồng chí Tổng
lý,
Chúng tôi xin
trân trọng báo tin để đồng chí Tổng
lý rõ:
Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm
1958, của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của
Trung Quốc.
Chính phủ nước
Việt nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan
Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan
hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể…
Hà Nội, ngày 14
tháng 9 năm 1958 …”
Xét về mặt câu chữ cho
thấy: văn bản này được làm tại Hà Nội vào ngày 14 tháng 9 năm 1958. Diễn giải
theo trình tự có thể suy luận: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhóm
họp, biểu quyết nhất trí ghi nhận và tán thành tuyên bố về hải phận của Chính
phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; cuộc họp có thể diễn ra vào ngày 14 tháng
9 năm 1958 hoặc trong khoảng thời gian 10 ngày trước đó (từ ngày 4 tháng 9 năm
1958 đến ngày 13 tháng 9 năm 1958). Trên cơ sở đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký
văn bản thông báo quan điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho
Chu Ân Lai. Vì văn bản được ký vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 nên đương nhiên,
con dấu của Chính phủ cũng được đóng vào ngày này.
Nhưng ngày 14 tháng 9
năm 1958 lại là ngày Chủ nhật.
Đây là ngày nghỉ hàng tuần của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Chính phủ. Có
đúng là ngày Chủ nhật 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và bộ máy
giúp việc vẫn tới Phủ Thủ tướng làm việc bình thường, soạn thảo và ký ban hành văn bản gửi Chu Ân Lai? Hay sự thật, văn bản này đã được soạn
rồi ký sẵn một hoặc nhiều ngày trước đó, thậm chí là sau đó?
Quyền hạn của Thủ
tướng!
Tại thời điểm năm 1958,
quyền hạn của chức danh Thủ tướng được quy định theo Hiến pháp năm 1946.
Cần nhấn mạnh rằng, văn
bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 ghi chức danh “Thủ tướng Chính phủ” trong
phần người ký là chưa chính xác. Điều này rất dễ gây ra sự hiểu lầm tai hại: Thủ
tướng chính phủ là người đứng đầu chính phủ và có quyền đại diện cho chính phủ ấy.
Thế nhưng, quy định của
Hiến pháp năm 1946 lại hoàn toàn không phải như vậy.
Điều 44 Hiến pháp năm
1946 ghi rõ: “Chính phủ gồm có
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ
tướng, các bộ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng”.
Quy định trên cho thấy:
Thủ tướng chỉ là người đứng đầu nội các, là một thành viên trong số rất nhiều
thành viên của Nội các, do Chủ tịch nước chọn và đưa ra Nghị viện biểu quyết.
Các quy định khác của bản Hiến pháp xác nhận vị trí người đứng đầu Chính phủ
khi ấy là Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Không có một điều luật
riêng biệt quy định quyền hạn cụ thể của chức danh Thủ tướng và thậm chí, người
giúp đỡ Chủ tịch nước là Phó Chủ tịch mà không phải là Thủ tướng. Nói cách
khác, quyền hạn của Thủ tướng theo Hiến pháp 1946 rất hạn chế, bó hẹp trong một
số công việc như: chọn Bộ trưởng
để đưa ra Nghị viện biểu quyết; chọn thứ trưởng để Hội đồng Chính phủ chuẩn y;
chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các. Bản Hiến pháp cũng
không có điều khoản quy định về thẩm quyền của Nội các.
Thay vào đó, Hiến pháp
1946 lại quy định rất cụ thể quyền hạn của Chủ tịch nước và quyền hạn của Chính
phủ. Trong số các quyền hạn của Chủ tịch nước theo quy định tại Điều 49, có các
quyền hạn sau:
-
Thay mặt cho nước;
-
Chủ tọa Hội đồng Chính phủ;
-
Ký hiệp ước với các nước;
Rõ ràng, Chủ tịch nước mới
là chức danh đại diện cho nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa nói chung, cho Nhà nước
và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nói riêng trong quan hệ bang giao với
các nước mà Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không phải là ngoại lệ. Thủ tướng chỉ
là một thành viên của nội các – một cơ quan của Chính phủ và không có các quyền
hạn này.
Cũng không có bằng chứng
cho thấy Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hội đồng chính phủ khi ấy
đã ủy nhiệm cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng được quyền đại diện ra văn bản phúc đáp
tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung
Hoa.
Chính phủ có họp?
Văn bản ngày 14 tháng 9
năm 1958 nêu rõ là: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và
tán thành …”. Do vậy theo
logic, sau khi có Tuyên bố về hải phận ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có một cuộc họp và nội dung cuộc họp đã thể hiện ý
chí “ghi nhận”, “tán thành” tuyên bố của Trung Quốc.
Như đã trích dẫn một phần
Điều 49 Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền “chủ
tọa Hội đồng Chính phủ”. Dựa trên tư liệu từ báo Điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam (dangcongsan.vn), nhật ký làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 04
tháng 9 năm 1958 đến ngày 14 tháng 9 năm 1958 được ghi lại như sau:
- Ngày 4 tháng 9
năm 1958:
+ Sáng: tiếp
đoàn Đại biểu bóng đá Campuchia;
+ Trong ngày, dự
họp ban Bí thư bàn một số vấn đề về báo Nhân dân và công tác dân vận;
+ Trong ngày: tiếp
đoàn đại biểu cán bộ trường thiếu sinh quân Quế Lâm và bệnh viện Nam Ninh;
- Ngày 5 tháng 9
năm 1958:
+ Dự họp Bộ
Chính trị để bàn về công tác tổ chức Đảng, Chính phủ và công tác thủy lợi;
- Ngày 6 tháng 9
năm 1958:
+ Gửi đện mừng
các vị lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ Triều Tiên nhân dịp kỷ niệm lần thứ 10 quốc
khánh nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên;
- Ngày 7 tháng 9
năm 1958:
+ Sáng: đi thăm
công trình thủy nông Gia Thượng, xã Ngọc Thụy, quận 8 (huyện Gia Lâm), ngoại
thành Hà Nội;
+ Cùng ngày, đến
thăm Trường sỹ quan hậu cần;
- Ngày 8 tháng 9
năm 1958:
+ 7 giờ, tiếp
đoàn đại biểu hòa bình Miến Điện;
+ Trong ngày: dự
họp Bộ Chính trị bàn về đấu tranh thống nhất nước nhà;
+ Cùng ngày: gửi
huy hiệu tặng ông Phùng Quang Chiểu và Thanh niên xã Thống Nhất (Lào Cai);
- Ngày
9 tháng 9 năm 1958: không ghi lịch làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
- Ngày 10 tháng
9 năm 1958:
+ Dự họp ban Bí
thư để bàn về chính sách phân bón cho nông nghiệp và một số vấn đề khác;
+ Cùng ngày, ký
quyết định số 86/QĐ giảm án tử hình xuống tù chung thân cho một phạm nhân can tội
giết người;
- Ngày 11 tháng
9 năm 1958: không ghi lịch làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
- Ngày 12 tháng
9 năm 1958:
+ Dự họp bộ
Chính trị bàn về quản lý gạo vụ mùa năm 1958 và về con số kiểm tra kế hoạch Nhà
nước năm 1959;
- Ngày 13 tháng
9 năm 1958:
+ Sáng: thăm lớp
học Chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc tổ chức tại Hà Nội;
+ Sau đó, thăm
triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1958;
+ Chiều: tiếp
giao sư người Miến Điện U.Oong la và phu nhân;
- Ngày 14 tháng
9 năm 1958:
+ Bài viết của
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề: Công xã nhân dân, ký bút danh Trần Lực, đăng báo
Nhân dân, số ra 1645 giới thiệu về quá trình hình thành và những đặc điểm của
công xã nhân dân ở Trung Quốc.
Không có tư liệu phản
ánh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa bất cứ cuộc họp nào của Hội đồng chính phủ
trong khoảng thời gian từ ngày 4 tháng 9 năm 1958 đến ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Cũng không thể nói có việc Phó Chủ tịch nước thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh để
chủ tọa Hội đồng chính phủ vì thời kỳ này, không ai được bổ nhiệm giữ chức danh
Phó Chủ tịch nước.
Nếu điều này là sự thật
thì văn bản của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi “Chính phủ nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính
phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quy định về hải phận…” là hoàn toàn
không chính xác; và tiếp nữa, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng không có quyền đại
diện cho Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa để hứa hay cam kết với Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa về mọi vấn đề có liên quan đến thực thi tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958 vì thẩm quyền này thuộc về Hội đồng Chính phủ và Chủ tịch nước
Việt nam dân chủ cộng hòa.
Nếu điều này là sự thật
thì văn bản do ông Phạm Văn Đồng ký hẳn nhiên không phải là “công hàm ngoại
giao” như kẻ xâm lược đã thổi phồng, cường điệu hóa mà thực chất chỉ là một lá thư viết vội của cá nhân Thủ tướng nội các thuộc
Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hòa gửi Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, có nội dung hoàn toàn không phản ánh quyết định của Chính
phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khi ấy. Theo cách nói dân gian, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã nói dối Chu Ân Lai và thật lực cười khi Trung Quốc lại lấy những lời
nói dối đó đó làm căn cứ để khẳng định chủ quyền phi lý đối với Hoàng Sa và Trường
Sa.
**
Cho đến chừng nào Hoàng
Sa và một phần Trường Sa vẫn còn nằm trong tay ngoại bang, lá thư viết vội của ông Phạm Văn Đồng vẫn được kẻ xâm
lăng sử dụng như một bằng chứng để biện hộ cho hành vi bành trướng của chúng
thì chừng đó, mỗi người con đất Việt vẫn kiên quyết và thẳng thừng bác bỏ văn bản
vô giá trị này.
LS. Nguyễn Trọng Quyết
Phụ
lục: Danh
sách Chính phủ mở rộng
Chính phủ mở rộng (từ
kỳ họp thứ 5 đến kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá I)
(Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Quốc hội khoá I, Kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 20/9/1955 và được tiếp tục bổ sung cho đến Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa I, ngày 27-5-1959) |
Chủ tịch nước
|
Cụ Hồ Chí Minh
|
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
|
Ông Phạm Văn Đồng (từ 9-1955)
|
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ
|
Ông Phan Kế Toại (từ 9-1955)
|
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng
|
Ông Võ Nguyên Giáp (từ 9-1955)
|
Phó Thủ tướng
|
Ông Trường Chinh (từ 4-1958)
Ông Phạm Hùng (từ 4-1958) |
Bộ trưởng Bộ Công an
|
Ông Trần Quốc Hoàn
|
Bộ trưởng Bộ Giáo dục
|
Ông Nguyễn Văn Huyên
|
Bộ trưởng Bộ Tài chính
|
Ông Lê Văn Hiến (đến 6-1958)
Ông Hoàng Anh (từ 6-1958) |
Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện
|
Ông Nguyễn Văn Trân (từ 9-1955)
|
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Kiến trúc
|
Ông Trần Đăng Khoa (từ 9-1955 đến 4-1958)
|
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi
|
Ông Trần Đăng Khoa (từ 4-1958)
|
Bộ trưởng Bộ Kiến trúc
|
Ông Bùi Quang Tạo (từ 4-1958)
|
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp
|
Ông Lê Thanh Nghị (từ 9-1955)
|
Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp
|
Ông Phan Anh (từ 9-1955 đến 4-1958)
|
Bộ trưởng Bộ Nội thương
|
Ông Đỗ Mười (từ 4-1958)
|
Bộ trưởng Bộ Ngoại thương
|
Ông Phan Anh (từ 4-1958)
|
Bộ trưởng Bộ Y tế
|
Ông Hoàng Tích Trí (đến 5-1959)
Ông Phạm Ngọc Thạch (từ 5-1959) |
Bộ trưởng Bộ Lao động
|
Ông Nguyễn Văn Tạo
|
Bộ trưởng Bộ Tư pháp
|
Ông Vũ Đình Hòe
|
Bộ trưởng Bộ Văn hoá
|
Ông Hoàng Minh Giám
|
Bộ trưởng Bộ Thương binh
|
Ông Vũ Đình Tụng (đến 5-1959, vì giải thể)
|
Bộ trưởng Bộ Cứu tế
|
Ông Nguyễn Xiển (từ 9-1955 đến 5-1959, vì
giải thể)
|
Bộ trưởng Bộ Nông lâm
|
Ông Nghiêm Xuân Yêm
|
Bộ trưởng Phủ Thủ tướng
|
Ông Phạm Hùng (từ 9-1955 đến 4-1958)
Ông Nguyễn Duy Trinh (từ 4-1958 đến 12-1958) Ông Nguyễn Khang (từ 5-1959) |
Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
|
Ông Nguyễn Văn Trân (từ 4-1958 đến
12-1958)
Ông Nguyễn Duy Trinh (từ 5-1959) |
Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước
|
Ông Lê Văn Hiến (từ 12-1958)
|
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước
|
Ông Trường Chinh (Phó Thủ tướng kiêm chức
từ 4-1958)
|
Bài do LS Nguyễn Trọng Quyết gửi cho Phamvietdao.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét