Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Trịnh Hữu Long - Trao đổi với Hoàng Thị Nhật Lệ và Đông La về Tuyên bố 258

Link : http://blog.trinhhuulong.com/2013/09/trao-oi-voi-hoang-thi-nhat-le-va-ong-la.html

Trịnh Hữu Long - 20/9/2013

Tôi đọc các bài viết, bài trả lời phỏng vấn của blogger Hoàng Thị Nhật Lệ và bài viết “Đoan Trang – tuổi nhỏ nhưng sai lầm không nhỏ” trên blog của tác giả Đông La với nhiều cảm xúc và suy nghĩ đan cài. Bài của Đông La sau đó được đăng trên báo Văn nghệ ngày 19-9-2013 nhưng tôi chưa được đọc bản này. Thực tiễn sinh hoạt chính trị ở Việt Nam đang ngày càng đa sắc, và tôi chắc sẽ là sự hối tiếc lớn cho bất cứ nhà sử học nào không có ý định nghiêm túc về việc lưu giữ lại những tháng ngày sôi động này cho hậu thế.

Tôi là người không phản đối nhóm Tuyên Bố 258 hay nhóm Phản Bác Tuyên Bố 258. Họ đều đang thực hiện quyền con người và quyền công dân của mình. Ngay cả các dự luật được trình Quốc hội thông qua cũng có người bỏ phiếu thuận, người bỏ phiếu chống, thì việc một tuyên bố chính trị của nhóm 258 bị phản đối là bình thường.

Với tư cách là một người ủng hộ “Mạng lưới blogger Việt Nam” và Tuyên Bố 258, tôi muốn trao đổi lại với blogger Hoàng Thị Nhật Lệ  và tác giả Đông La về một số lập luận của họ mà tôi cho là chưa thỏa đáng, để góp thêm một ý kiến vào cuộc tranh luận sôi nổi này.

Vấn đề mạo danh, tiếm danh và đại diện

Cả Nhật Lệ và Đông La đều cho rằng, một nhóm nhỏ blogger ký vào Tuyên bố 258 đã mạo danh “mạng lưới blogger Việt Nam”, tùy tiện xem mình là đại diện của cộng đồng blogger Việt Nam (trong đó có họ) để làm những việc mà họ cho là sai trái.

a) Trước khi đi vào phân tích lập luận này, chúng ta hãy khảo sát nhanh một số hành vi tương tự với hành vi của nhóm Tuyên bố 258:

- Năm 1921, nhà cách mạng Hồ Chí Minh (có tài liệu nói rằng khi đó tên là Nguyễn Ái Quốc) cùng với một nhóm nhỏ các nhà hoạt động ở các thuộc địa của Pháp đã lập ra “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa”, ra báo “Người cùng khổ” để đấu tranh cho quyền của các dân tộc thuộc địa. Bốn năm sau, ông cùng với, cũng một nhóm nhỏ các nhà hoạt động khác, lập ra “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”. Không có dữ liệu lịch sử nào cho thấy nhân dân các dân tộc thuộc địa, dân tộc bị áp bức hay những người cùng khổ phản ứng với các tên gọi này.

- Ngày 11-3-1951, Đảng lao động Việt Nam, khi đó là một nhóm không nhỏ, khoảng 760.000 đảng viên, trên dân số Việt Nam khi đó là khoảng trên 23 triệu người, lập ra một tờ báo lấy tên là “Nhân dân” và tự nhận là “tiếng nói của nhân dân Việt Nam”. Hành vi gần tương tự cũng xảy ra với báo Người Hà Nội, Người cao tuổi, Phụ nữ Việt Nam, Doanh nhân, Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Đài tiếng nói Việt Nam và rất nhiều báo đài khác. Mở rộng ra nước ngoài, chúng ta có báo New Yorker (Người New York), People (Dân chúng/Nhân dân), Playboy (Dân chơi),...

- Và cuối cùng, vào trung tuần tháng 9-2013, Nhật Lệ cùng với một nhóm nhỏ các blogger Việt Nam, lập ra, hoặc tự nhận là “Cộng đồng blogger Việt Nam” để phản bác Tuyên bố 258.

Như vậy, nếu chúng ta đồng ý với lập luận của Nhật Lệ và Đông La, thì nhà cách mạng Hồ Chí Minh, Đảng lao động/Đảng cộng sản Việt Nam, Cộng đồng blogger Việt Nam và nhiều cá nhân, tổ chức khác đã thực hiện một loạt các hành vi mạo danh, tiếm danh và đại diện một cách tùy tiện, có hệ thống trong suốt gần một thế kỷ qua.

b) Trong khi đó, TẤT CẢ những người viết blog ở Việt Nam (blogger) chưa từng cùng nhau biểu quyết thành lập ra một tổ chức nào của mình, để quyết định việc sử dụng tư cách “blogger Việt Nam” ra sao. Ở Việt Nam chưa từng có một tổ chức nào đăng ký cái tên “mạng lưới blogger Việt Nam”, nhãn hiệu “mạng lưới blogger Việt Nam” cũng chưa từng có ai đăng ký bảo hộ. Vậy nếu nói rằng nhóm 258 mạo danh, tiếm danh và tùy ý đại diện cho blogger Việt Nam, thì ai là người đang nắm cái “danh” ấy?

Nếu như có một nhóm, cũng nhỏ, các blogger Việt Nam khác đứng lên tuyên bố ủng hộ “mạng lưới blogger Việt Nam” thì Nhật Lệ và Đông La sẽ phản ứng thế nào?

Bên cạnh đó, lập luận của Nhật Lệ và Đông La cũng sẽ không thỏa đáng khi đặt vào tình huống sau: Một sinh viên Việt Nam du học ở nước ngoài phát biểu trước toàn trường rằng anh ta đại diện cho sinh viên Việt Nam nói riêng và đồng bào Việt Nam nói chung gửi lời chúc mừng năm mới đến bè bạn quốc tế. Anh ta có tư cách đại diện không? Anh ta có mạo danh, tiếm danh của ai không? Nếu câu trả lời là Có, thì ai là người có tư cách thưa anh ta ra tòa?

Nhóm nhỏ cá nhân không được phép liên hệ với sứ quán?

Blogger Hoàng Thị Nhật Lệ và tác giả Đông La cho rằng, một nhóm nhỏ cá nhân không thể tùy tiện liên hệ với đại sứ quán nước ngoài, vì đó là việc “quốc gia đại sự” và phải thông qua Bộ ngoại giao mới được tiến hành.

Bất kỳ ai cũng có thể ngay lập tức nảy ra câu hỏi: Những cá nhân muốn xin visa, học bổng du học và nguồn tài trợ từ các đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam có được tự ý thực hiện không? Hay cần phải thông qua Bộ ngoại giao?

Ngược dòng lịch sử, chúng ta dễ dàng tìm thấy những việc làm tương tự như việc nhóm 258 đã làm:

- Ngày 18-6-1919, Nguyễn Tất Thành cùng với một nhóm nhỏ những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, đã gửi đến Hội nghị hòa bình Versailles một văn bản có tên là “Yêu sách của nhân dân An Nam” (được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc) gồm 8 điểm, bao gồm các yêu cầu dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Nếu lập luận của Nhật Lệ và Đông La là đúng, thì việc này phải thông qua triều đình Huế và chính phủ bảo hộ ở Đông Dương.

- Trong suốt quãng thời gian từ 1920 đến 1941, Nguyễn Ái Quốc đã liên tục tự ý liên hệ với các tổ chức nước ngoài như Đảng xã hội Pháp, Đảng cộng sản Pháp, Quốc tế II, Quốc tế III; hoặc với chính phủ nước ngoài như Liên Xô, mà không thông qua triều đình Huế hay chính phủ bảo hộ Pháp ở Đông Dương. Đến đầu năm 1945, trước khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã liên hệ với chính phủ Mỹ và nước này đã cử 8 nhân viên tình báo nhảy dù xuống Việt Bắc để huấn luyện cho Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.

(Xin nói rõ, tôi không đánh giá Hồ Chí Minh và những việc làm của ông cách đây cả thế kỷ là chuẩn mực hay không là chuẩn mực cho việc làm của người Việt Nam ngày nay, mà chỉ có ý liệt kê những sự việc cùng tính chất để so sánh và tranh luận)

Điều lớn nhất tôi băn khoăn là văn bản pháp luật nào quy định công dân Việt Nam muốn liên hệ với đại sứ quán nước ngoài để trao tuyên bố về việc cải cách pháp luật ở Việt Nam lại cần phải thông qua Bộ ngoại giao? Văn bản nào cấm công dân Việt Nam tự ý làm việc đó?

Trao tuyên bố 258 cho sứ quán nước ngoài là cầu viện nước ngoài?

Cả blogger Hoàng Thị Nhật Lệ và tác giả Đông La đều cho rằng, việc nhóm 258 trao Tuyên bố 258 cho các sứ quán và tổ chức nước ngoài là hành động cầu viện nước ngoài.

Riêng điều này, tôi đồng tình với Nhật Lệ và Đông La. Hành động trao Tuyên bố 258 cho các chính phủ và tổ chức nước ngoài chính là hành động kêu gọi sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực của Mạng lưới blogger Việt Nam, như chính trong tuyên bố này họ đã đề cập. Trong một thế giới toàn cầu hóa, việc tranh thủ sự ủng hộ quốc tế phục vụ cho mục đích của mình là hoàn toàn bình thường.

Hãy đọc thêm những tư liệu sau đây để biết rõ hơn về hoạt động “cầu viện nước ngoài” mà Việt Nam đã từng tiến hành trong lịch sử:

- “...Chúng tôi yêu cầu Hợp Chủng quốc với tư cách là những người bảo vệ và những người bênh vực công lý thế giới, thực hiện một bước quyết định ủng hộ nền độc lập của chúng tôi” (Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman ngày 16-2-1946).

-  “Mọi thắng lợi của Đảng ta và nhân dân ta không thể tách rời sự ủng hộ nhiệt tình của Liên Xô, Trung Quốc…” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.10).

-  “Theo thống kê của các cơ quan chức năng, tiếp nhận từ năm 1965 đến 1972, các nước XHCN đã giúp Việt Nam khoảng hơn 7.000 quả đạn tên lửa SA-75 và 180 Hồng Kỳ, gần 5.000 khẩu pháo cao xạ các loại, gần năm triệu viên đạn pháo cao xạ, hơn 400 máy bay chiến đấu MIG-17, 19, 21, K6, hàng trăm ra-đa tiên tiến, hiện đại; gần 4.000 chuyên gia quân sự phòng không của Liên Xô”  (Sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với Việt Nam  - Nguyễn Văn Quyền – Báo Nhân dân điện tử, đăng ngày 3-12-2012). 

Hơn nữa, nhóm 258 trao tuyên bố cho Liên hợp quốc – nơi Việt Nam là thành viên đầy đủ, và các đại sứ quán của các nước mà Việt Nam có quan hệ ngoại giao, chứ không trao cho Al-Qaeda. Đây là những tổ chức và quốc gia mà chính phủ Việt Nam thường xuyên “cầu viện” bằng những đề nghị tài trợ, hỗ trợ lên tới hàng chục tỷ USD và vô số hoạt động hỗ trợ khác, trong đó có cả hoạt động hỗ trợ thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền – tương tự như nhóm 258 đã làm.

Cầu viện nước ngoài không phải là việc xấu, trừ khi nó được sử dụng cho mục đích xấu, ví dụ: tham nhũng.

Trao tuyên bố 258 cho sứ quán nước ngoài là sự sỉ nhục quốc gia?

Blogger Hoàng Thị Nhật Lệ và tác giả Đông La đều bày tỏ sự bức xúc với việc Mạng lưới blogger Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho các đại sứ quán nước ngoài và cho rằng đây là hành động sỉ nhục quốc gia.

Sự bức xúc này là có thể hiểu được và trong một chừng mực nào đó, chúng ta nên đồng ý với nhau rằng, có một sự khác biệt lớn trong hệ giá trị quốc gia của chúng ta, nhất là trong buổi giao thời, quá độ này của lịch sử Việt Nam. Cách chúng ta hiểu về quốc gia, cách chúng ta tự hào về quốc gia là rất khác nhau. Điều này không chỉ do sự khác biệt giữa các cá nhân, mà còn do sự xô đẩy của nhiều xu hướng chính trị khiến cho cách chúng ta hiểu về lịch sử và hiện tại bị méo mó và thiên lệch theo nhiều hướng.

Tuy vậy, chúng ta cần phân biệt giữa khái niệm quốc gia và khái niệm chính quyền. Tuyên bố 258 nhắm tới việc vận động quốc tế gây sức ép để chính quyền Việt Nam bãi bỏ điều 258 – Bộ luật Hình sự, mà họ cho là gây tổn hại đến quyền con người của người dân Việt Nam. Đây không phải là tuyên bố phê phán quốc gia Việt Nam, mà là phê phán chính quyền Việt Nam.

Vậy phê phán chính quyền Việt Nam là sỉ nhục quốc gia? Nếu lập luận này là đúng, thì căn cứ vào những dữ liệu tôi đã nêu ở các phần trên, Hồ Chí Minh đã sỉ nhục quốc gia trong ít nhất một nửa cuộc đời mình, kể từ khi ông tham gia cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908 và bị đuổi học. Ngày nay, nhiều người Việt Nam tự hào vì Hồ Chí Minh đã đấu tranh cho niềm kiêu hãnh của dân tộc, chứ không phải là sỉ nhục quốc gia. Nhiều người khác, dù đồng tình hay phản đối Hồ Chí Minh, đều không thể phủ nhận rằng Hồ Chí Minh, bằng cách phê phán chính quyền Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, đã đấu tranh cho một Việt Nam tốt hơn, chứ không phải là sỉ nhục Việt Nam. Lý do nào khiến cho Hồ Chí Minh được coi là niềm tự hào, còn nhóm 258 bị coi là một sự sỉ nhục?

Nhóm 258 đã chống lại pháp luật Việt Nam, chống lại Quốc hội?

Trong bài viết “Đoan Trang – tuổi nhỏ nhưng sai lầm không nhỏ”, tác giả Đông La cho rằng: “...nhóm Đoan Trang đã sai và chống lại luật pháp Việt Nam, bởi Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy bị bắt vì phạm pháp chứ không phải vì họ ‘đã thực hiện quyền tự do biểu đạt bằng các đăng tải các bài viết ôn hoà lên blog của họ’”.

Đến đây chúng ta cần phải xem xét lại khái niệm “bị bắt vì phạm pháp”. Hồ Chí Minh đã từng bị bắt ít nhất hai lần vào năm 1931 ở Hồng Kông và năm 1942 ở Quảng Châu – Trung Quốc, đều với lý do “phạm pháp”. Các nhà lãnh đạo Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Văn Kiệt đều từng bị bắt và tống giam với lý do tương tự.

Chúng ta hẳn cũng từng nghe qua câu nói của mục sư Martin Luther King: “Đừng bao giờ quên rằng, tất cả những gì Hitler đã làm ở Đức đều là hợp pháp” (nguyên văn: “Never forget that everything Hitler did in Germany was legal”). Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là hàng triệu cái chết của người Do Thái và hàng triệu tù nhân của chế độ phát xít Đức đều được Hitler biện minh bằng công cụ pháp luật do chính ông ta đặt ra. Nếu như một người lính của Hitler từ chối thi hành lệnh thảm sát người Do Thái, anh ta có bị coi là “phạm pháp” không? Nếu như một công dân Đức viết bài phê phán chế độ phát xít Đức, ông ta có bị bắt vì tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” không?

Trở lại với Việt Nam, nếu một nhóm blogger Việt Nam ra tuyên bố yêu cầu chính quyền bãi bỏ chế độ độc quyền trên thị trường xăng dầu và điện, hoặc bãi bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người đồng tính, liệu họ có bị coi là “phạm pháp” và bị bắt không?

Cần thiết phải hình dung về khái niệm “bị bắt vì phạm pháp” và khái niệm “pháp luật” một cách đầy đủ trước khi kết luận bất cứ một vấn đề pháp lý nào. Để làm được việc đó, một người nghiên cứu nghiêm túc nhất thiết không thể bỏ qua thông tin sau đây của Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp):

Trong 10 năm, các cơ quan kiểm tra văn bản cả nước đã tiếp nhận, kiểm tra trên 1,7 triệu văn bản, phát hiện trên 50 nghìn văn bản sai trái và đã xử lý ở các mức độ khác nhau. Riêng Cục Kiểm tra văn bản đã tiếp nhận, kiểm tra trên 27 nghìn văn bản, phát hiện trên 4,8 nghìn văn bản sai trái và đã xử lý ở các mức độ khác nhau.” – Quyết định số 214/QĐ-KtrVB, ngày 23/8/2013.

Nếu nói rằng, hành vi ra tuyên bố yêu cầu bãi bỏ một điều luật là hành vi chống lại pháp luật Việt Nam, thì Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và các đại biểu Quốc hội là những người chống lại pháp luật Việt Nam một cách thường xuyên, lâu dài, có hệ thống và có tổ chức nhất.

Nếu nói như tác giả Đông La, rằng “việc làm của nhóm Đoan Trang thực sự là hành động chống lại việc thi hành công vụ của không chỉ một cá nhân, một cơ quan mà là Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân Việt Nam!” thì hẳn Đông La đang tát những cú đầy cay nghiệt vào mặt các đại biểu Quốc hội, vốn thường xuyên tiếp nhận ý kiến đóng góp của cử tri về việc thi hành, sửa đổi luật, kể cả trực tiếp tại địa phương lẫn gián tiếp trên báo chí và môi trường mạng.

Lời kết

Khi đọc các bài viết, bài phỏng vấn của blogger Hoàng Thị Nhật Lệ và tác giả Đông La, tôi có một sự so sánh tự nhiên giữa hai nhân vật này. Không thể phủ nhận là tôi dành nhiều thiện cảm cho blogger Nhật Lệ, bởi blogger trẻ tuổi này tỏ ra tôn trọng người khác và ít phạm lỗi ngụy biện hơn nhiều so với Đông La. Trong khi Đông La dùng phép ngụy biện tấn công cá nhân (ad hominem) đối với nhà báo Đoan Trang và nhóm 258, cũng như viện dẫn những vấn đề không liên quan đến Tuyên bố 258 như vụ Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Đắc Kiên để kết luận vấn đề, thì blogger Nhật Lệ đã cố gắng tỏ ra lý lẽ, nhã nhặn và lịch sự.

Tôi không ngạc nhiên khi nhiều người quy kết Nhật Lệ là dư luận viên, nhận tiền của chính quyền để tấn công nhóm 258. Cũng có rất nhiều người tấn công cá nhân đối với Nhật Lệ bằng cách chế giễu giọng nói của cô. Cá nhân tôi cho rằng điều này không thực sự công bằng với Nhật Lệ. Không ai đáng bị chế giễu chỉ vì giọng nói của mình, và tôi cũng không muốn trong xã hội hình thành một định kiến rằng những ai phản đối cải cách đều là kẻ xấu. Nếu phải thú nhận một điều gì đó, tôi sẽ thú nhận rằng nhiều năm về trước, bản thân tôi có nhiều suy nghĩ gần giống như Nhật Lệ, với một thái độ khá tương đồng, và tôi tin là nhiều người đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam hiện nay cũng từng mang những đặc điểm của một dư luận viên thứ thiệt. Chúng ta không có lỗi với một thứ nhận thức bị nhồi sọ của mình, chúng ta chỉ có lỗi nếu không chân thành và cầu tiến lắng nghe.

Việc phản đối đôi khi chỉ phản ánh sự khác biệt thuần túy về mặt quan điểm, mà không nhất thiết phải đi kèm với động cơ xấu. Chúng ta muốn có một xã hội đa nguyên và tôn trọng quan điểm cá nhân thì không thể không tôn trọng việc làm của Nhật Lệ và nhóm Phản Đối Tuyên Bố 258, cũng như coi đó như một biểu hiện bình thường của việc thực thi quyền tự do ngôn luận. Bên cạnh đó, nếu nhóm 258 và các cá nhân, tổ chức khác phản đối việc làm của nhóm Nhật Lệ, đó cũng là một việc bình thường nữa.

Mặc dù không đồng tình với nhiều lập luận và thái độ tranh luận mà Nhật Lệ và nhóm của cô thể hiện, tôi không loại trừ khả năng Nhật Lệ là một người trẻ đang có những cố gắng chân thành trong việc bảo vệ những điều mà cô cho là đúng. Đọc bài của Nhật Lệ, tôi không cảm thấy sự ác ý, và thậm chí cảm nhận được nhiều thiện chí của blogger này. Việc làm của cô đã mở ra một diễn đàn có chất lượng đối thoại công khai hiếm hoi mà tôi chứng kiến được sau nhiều năm, giữa những người chỉ trích và những người bảo vệ chính quyền. Đó là một tín hiệu mà tôi nghĩ rằng, cả hai phe đều nên vui mừng. Xã hội chúng ta không cần thêm bất kỳ một “bên thắng cuộc” nào nữa, mà đang khát khao sự hòa giải và yêu thương.

Tôi không có ý định kết luận điều gì qua bài viết này, mà chỉ gợi mở một hướng tranh luận vấn đề, trong vô số các hướng tranh luận xoay quanh Tuyên bố 258. Điều này cố nhiên không có nghĩa là tôi không có lập trường gì trong cuộc tranh luận này, mà chỉ vì tôi nghĩ đôi khi có thể tranh luận theo một cách khác./.

BBC - Xã hội dân sự và bản Hiến pháp

Link : http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/03/130305_chinhquyen_hienphap.shtml

Phạm Lê Vương Các
 
Đợt đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp 1992 đang bước vào giai đoạn cuối với những diễn biến đầy bất ngờ và cũng không kém phần sôi động.
 
Mở đầu bằng ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Đảng nói về sự “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống” dành cho những những góp ý đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, đòi đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập, và phi chính trị hóa quân đội.

Một ngày sau, Chủ tịch Quốc hội cũng có quan điểm tương tự khi cảnh cáo việc lợi dụng góp ý dự thảo Hiến pháp để chống phá Đảng, Nhà nước, và cũng không quên phê phán việc tự tổ chức lấy ý kiến là “không đúng quy định”.

Tiếp theo đó, các chuyên gia lý luận nhà binh tấn công dồn dập vào quan điểm “phi chính trị hóa quân đội”

Các động thái này như một cú “vỗ mặt” hàng ngàn người trực tiếp ký tên vào Kiến nghị 72 được khởi xướng từ những thành phần tinh hoa và dũng cảm nhất của dân tộc vào thời điểm này.
Qua đó cho thấy rằng, những góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 chưa được tôn trọng một cách đúng mực, cầu thị và dân chủ.

Thế nhưng, qua đợt sửa đổi Hiến pháp lần này đã gửi đi những tín hiệu tích cực dự báo cho một sự chuyển dịch xu thế chính trị theo hướng dân chủ trong tương lai thông qua các phong trào xã hội dân sự.

Sức mạnh từ phong trào

Trước tiên, có thể nói phong trào xã hội dân sự đã được hình thành có khả năng gây sức ép lên nhà cầm quyền.

Biểu hiện là những cá nhân, không thông qua đảng phái hay tổ chức chính trị, đã tự tương tác với nhau hình thành nên những phong trào có một tiếng nói chung.

Đáng kể đến trong thời gian gần đây Lời kêu gọi thực thi Quyền con người và Kiến nghị 72 đã tập hợp nên một lực lượng đông đảo về số lượng lẫn chất lượng gây ra những âm vang dân chủ thôi thúc lòng người.

Hay như Kiến nghị của Sinh viên và Cựu sinh viên Luật, dù không có sự tham gia đông đảo của giới chuyên ngành nhưng qua đó cho thấy, mỗi cá nhân khi đã ý thức được vai trò của mình trong xã hội cũng đều có thể tạo ra các phong trào theo khả năng và sở trường của mình.

Cho đến các phong trào dường như đã vượt ra khỏi sự sợ hãi và kìm kẹp từ phía chính quyền.

Chẳng hạn phong trào No-U ở Hà Nội và Sài Gòn đã cố gắng duy trì các cuộc biểu tình chống Trung quốc thời gian gần đây bất chấp những quyết tâm ngăn cản từ phía chính quyền, cũng như cho tới việc đứng trước các đồn công an “đòi trả người” khi bị bắt bớ, một việc mà đảng phái hay tổ chức chính trị đối lập sẽ còn rất lâu để dám làm.

Hay như “Tuyên bố của Công dân tự do” vào trưa ngày 28/2 vừa qua được khởi xướng chủ yếu từ các blogger trẻ trong nước đã quy tụ được hơn 3 ngàn chữ ký chỉ sau 72 giờ, với những nội dung “đáp trả” vào các điều khoản thiêng liêng mà nhà cầm quyền đang ra sức bảo vệ.

Với lời mở đầu bằng việc “Sát cánh bên Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên”, những người ký tên vào Tuyên bố này như muốn nói lên rằng: không ai lẻ loi trong cuộc tranh đấu vì tự do, dân chủ và nhân quyền.
“Chúng tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4… Chúng tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng … Chúng tôi ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập …Chúng tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội...” được tuyên bố ngay sau phát biểu của các nhà lãnh đạo đòi “xử lý” những quan điểm này.

Điều này cho thấy họ, những người ký tên vào Tuyên bố ở ViệtNam, như đang chứng minh cho sự dấn thân của mình, bất chấp những răn đe của nhà cầm quyền, sẵn sàng đối mặt với bất kỳ sự trừng phạt nếu có xảy ra. 

Thử thách cho chính quyền

Có thể nói, đây là những thử thách mà bất kỳ nhà cầm quyền nào cũng lo ngại.

Tiêu diệt đảng phái và tổ chức chính trị đối lập là việc mà đảng cầm quyền hiện nay có thể làm được. Nhưng không thể nào tiêu diệt được phong trào xã hội dân sự, vì nó như là hơi thở cuộc sống, được sinh ra một cách tự nhiên từ những đòi hỏi cấp bách và nhu cầu cần thiết của mỗi con người.

Thực tế cũng cho thấy rõ điều này. Năm 2006, các đảng phái và tổ chức chính trị ở Việt Nam nở rộ như “nấm mọc sau cơn mưa”, tạo ra những phong trào dân chủ, nhưng sau đó nhanh chóng bị nhà cầm quyền tiêu diệt, và giờ đây như đang ở trạng thái “chết lâm sàng” và gần như không có hoạt động nào đủ sức gây ảnh hưởng lên đời sống chính trị hiện tại Việt Nam.

Sinh viên bắt đầu đóng vai trò trong xã hội dân sự
Trong khi đó, các phong trào ký tên kiến nghị, các tuyên bố, các lời kêu gọi đã tập hợp được hàng chục ngàn người tham gia, dù không có bất kỳ cương lĩnh, hay đường lối và phương pháp đấu tranh … nhưng đã tạo ra những hiệu ứng tích cực bằng sức lan tỏa vào quần chúng nhân dân một cách sâu sắc trước sự bất lực của chính quyền nhằm đối phó với các phong trào này.

Chính quyền muốn “đánh” vào phong trào xã hội này cũng chẳng biết đánh vào đâu. Bỡi lẽ nó không phải là một thực thể nhất định, nó không có cơ quan đầu não, không có người lãnh đạo, không có cơ cấu tổ chức và có thể biến dạng và chuyển hóa một cách linh động.

Với hiệu quả lớn nhất là khả năng bảo toàn nguồn nhân lực và lan rộng một cách nhanh chóng dưới sự tiếp sức của nền “báo chí công dân”, các phong trào này luôn trao cho mỗi cá nhân tưởng chừng như rất bình thường đều có khả năng gây ra đột biến khi có điều kiện thích hợp, mà vụ Nguyễn Đắc Kiên vừa mới xảy ra là một ví dụ.

Chính quyền nên làm gì?

 Qua đó cho thấy, tạo ra và hưởng ứng các phong trào xã hội dân sự sẽ là hướng đi hiệu quả trong cuộc vận động dân chủ trong hiện tại và tương lai.

Bất kỳ phản ứng “cứng rắn” nào từ phía nhà cầm quyền nhằm dập tắt các phong trào xã hội cũng sẽ là phản tác dụng vì phong trào xã hội là nơi tích tụ của những nhu cầu và mong muốn chính đáng của phần đông dân chúng hiện nay.

Phong trào xã hội dân sự như một quả bong bóng, đánh chỗ này thì nó sẽ lăn đi chỗ khác, bóp chỗ này thì nó lại phì sang chỗ kia, mà nếu chọc mạnh vào thì nó sẽ phát nổ kèm theo một hiệu ứng lây lan.

Diễn biến ở các quốc gia Bắc Phi gần đây cho thấy, đối đầu hay đàn áp các phong trào này, sẽ là sự ngu ngốc của bất kỳ chế độ chính trị nào.

Nhưng không vì thế mà trở nên lo sợ phong trào xã hội dân sự, sự thật là, hoạt động của các phong trào xã hội này không có mục đích tranh giành quyền lực, không nhắm vào mục tiêu “lật đổ chính quyền”, mà chỉ đưa ra các yêu sách buộc chính quyền phải tự cải cách, minh bạch và thực thi dân chủ để đáp ứng nhu cầu phù hợp với cuộc sống hiện tại.

 Nếu chính quyền không biết lắng nghe, đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của nó, mà lựa chọn phương pháp đối đầu, thì các phong trào này có thể “xô ngã” bất kỳ thể chế chính trị lúc nào, và tạo thời cơ cho đảng phái khác đứng lên nắm quyền.

Do vậy, một chính thể khôn ngoan là một chính thể biết cách hòa mình vào các phong trào xã hội, biết cách đáp ứng đòi hỏi của nó, và qua đó mới có thể điều chỉnh và định hướng các phong trào xã hội nhằm giữ vững sự ổn định và cả mục đích bảo vệ sự an toàn cho chính thể.

Ở Việt Nam trong thời điểm này, sẽ là tốt hơn cho chính quyền nếu có những cuộc “đối thoại” với các phong trào này một cách cầu thị khi nó còn nằm trong tầm kiểm soát.

Điều này đòi hỏi nhà cầm quyền hiện nay cần phải tỉnh táo và đòi hỏi cả sự dũng cảm. Chấp nhận tự thay đổi và tự lột xác mình để được tồn tại và phát triển.

Cố gắng duy trì và bảo thủ “ý thức hệ” như hiện nay không những dẫn đến những sai lầm không đáng có, mà còn tạo ra những vực thẳm chôn vùi những năng lực và sức mạnh vốn có của mình.

Bài viết phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

Sưu tầm : VIẾT CHO NGƯỜI ĐẾN TRƯỚC - NÓI VỚI NGƯỜI ĐẾN SAU

VIẾT CHO NGƯỜI ĐẾN TRƯỚC 

Có thể anh ấy yêu chị nhiều hơn em 
Bởi tình yêu đầu nhiều dại khờ nông nổi 
Bởi rung động đầu đời thường khó nói 
Nhè nhẹ thắm vào từng năm tháng qua mau

Có thể suốt đời anh ấy chẳng quên chị đâu
Dẫu bây giờ anh ấy thuộc về em mãi
Song vẫn có chút gì đọng lại
Một chút ngày xưa như nhớ thương

Trách làm sao những phút em giận hờn
Khi anh ấy nhắc về những tháng ngày yêu chị
Xin đừng trách em là người ích kỷ
Cũng chỉ vì em yêu quá đấy thôi

Rồi một ngày mai trên khắp nẻo đường đời
Chị gặp ai kia có thể hơn anh ấy
Quá khứ xưa xin đừng làm sống dậy
Để anh sống với mình và sống với em thôi



NÓI VỚI NGƯỜI ĐẾN SAU

Chị cũng từng yêu anh ấy như em
Chỉ có khác chị là người đến trước
Khóc làm gì em cho má hồng thấm ướt...
Anh ấy vụng về chẳng biết dỗ dành đâu

Có một thời chị cũng thích giận nhau
Để đo hết yêu thương theo chiều dài giận dỗi
Để một lần chị vô tình mắc lỗi
Một lần thôi thế rồi mãi mãi xa...

Biết nói gì về tất cả đã qua
Chị là quá khứ hôm qua, em là hôm nay hiện tại
Biết chẳng thể thêm một lần yêu lại
Chị vẫn thấy xót lòng khi đối diện tình em

Em sẽ có cái bấy lâu chị vẫn khát thèm
Tuổi trẻ, hồn nhiên, gót chân mềm mới lạ
Rồi một buổi trời đông cây thay lá
Voan cưới cô dâu bay ngợp trước hiên nhà

Khi ấy vô tình chị giả bộ ghé qua
Bâng quơ ngắm cô dâu, nghẹn lòng nhìn chú rể
Em đừng quay ngang rồi chau mày như thể
Chị ấy kia kìa, chị ấy cũng đến xem

Phố cũ, cơn mưa cũ ướt mèm...

Mimi (sưu tầm)
Website:http://truyennganhay.net/

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Vũ Hạnh - Bút Máu

       Vũ Hạnh             
   Lương Sinh người ở Mân Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười có bài "Tơ liễu trong trăng" được tán thưởng nhất mấy câu:
Trăng cũ phô đầu bạc
Liễu tơ chuốt mi dài
Trăng, liễu xa ngàn dặm
Một tối hẹn vườn ai.
   Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương cho bài Hi - di Ninh - thần dùng toàn não tủy một giống Bạch hầu trong núi Nga Lâm, uống thuần với nước viễn trí nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gửi đến Lã Công, một quan Thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày kêu lên:
   - Máu người tanh quá!
   Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
   Ðến nhà, lậy cậu thưa lên:
   - Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý giá vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
   Người cậu giận lắm, bảo rằng:
   - Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác quái cho người, lại càng có tội!
   Lương Sinh cúi thưa:
   - Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.
   Cậu nói:
   - Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời? Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ thấy một chiều chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày ta không nói nữa.
   Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều gió thổi. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình thơ. Khi quan giao trả, Sinh thấy sau những bài đắc ý nhất của mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chữ uyển chuyển, dưới đề: "Tuyết Hồng tiện nữ chuyển họa". Hỏi, biết Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều lần lảng vảng sau tư thất để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê đắm tâm thần hơn nữa. Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén Sinh làm giai tế. Sinh mừng run người, tưởng có thể đội mái nhà bay lên. Bấy lâu, ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.
   Trong lễ hôn phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gày, mũi nàng hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, xong nghĩ duyên số tự trời, nhan sắc nàng kém nhưng tài nàng cao cũng là một điều an ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ xướng họa, nàng đều từ chối. Hỏi sao ngày xưa thi tứ của nàng dồi dào là thế mà bây giờ chẳng cho nghe được một lời nào, thì nàng cúi đầu ngập ngừng giây lâu mới đáp:
   - Chàng kén thiếp làm vợ đâu phải để làm thơ? Ðạo vợ lại là đạo lớn, e rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi.
   Ðã thế, nhiều lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ những bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của quan lệnh. Nghĩ thầm chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì khi giận dữ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba đêm liền không tiếp.
   Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị. Nhân tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy, tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần phong phú, siêu dật.
   Bước ra khỏi nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơi phới, quanh co theo một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ màng lá đào rơi rắc, mà vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình chứa chan ở trong cảnh sắc, mầu trời, như theo giác quan rào rạt thấm vào mạch tủy, khiến Sinh ngây ngất. Ði đã ba ngày mà không nghĩ đến đường về. Ði được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ ở nhà, nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng những cơn giận dữ. Ði đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn túi thơ chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy một bóng người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chiêng, lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Ðang ngồi nhắm rượu lại nghe những tiếng hò hét rồi thấy đám người ở cửa dạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng mười lính hầu áo mầu lòe loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước quán thì bị nghẽn người, dừng lại, Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biết là Lý Duyên Hương con quan Tổng đốc vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về phía trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình. Vẻ kiêu hãnh và nét sắc sảo của một khuôn mặt tươi hồng khiến Sinh ngây ngất, tưởng như gặp tiên giáng trần, sửng sốt chiêm ngưỡng, tay cầm ly rượu buông rơi lúc nào không biết. Ly rượu chạm vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình, Sinh lảo đảo đứng lên, không phải say vì rượu, trả tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn, kiệu vào trong chùa, Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có vợ ở nhà.
   Trong chùa chật ních những người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nữa. Lương Sinh chen vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người ngọc. Thoạt nhìn lên một bục cao, hương trầm nghi ngút, sực nức mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ, vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa chẳng chịu thế phát quy y.
   Một lát, tiểu thơ quay vào bàn lễ, Sinh ngại nàng vội đi nên bỗng nảy ra một ý. Lại gần biệt phòng bên cạnh, sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:
Lá gió đầu xuân, đưa đẩy duyên trời hẹn ước,
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Ðộng biếc, thoáng cười tiên nữ
Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm long lanh một vẻ giai nhân.
      Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
   - Có người ám hại tiểu thơ.
   Lập tức hai ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy nhau kêu la náo động. Tiểu thơ ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
   Ðám đông có tiếng thì thào:
   - Anh ta chỉ ném có một cành hoa thôi đấy.
   - Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.
   - Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc!
   Lúc ấy Lương Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười môn võ bí truyền của nhà họ Lã.
   Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Lương Sinh nghĩ cuộc đời bằng phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút giây. Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
   Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh hoàng của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh chối từ hai, ba lần không được. Quan nói:
   - Ta thường ước ao được gặp một người tài đức nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác Ðằng thuận nẻo gió đưa, người hãy ở đây cùng ta hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.
   Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc, hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều, mỗi khi chập chờn thức tỉnh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời Sinh thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Ðôi lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thơ định trao duyên nơi nào chưa, nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ ý làm thinh.
   Ðộ vài hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
   Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác mầu mà miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
   Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng, Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ca ngợi tài đức của quan. Mực thơm  bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán(1) tổng kết công đức của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh, ký(2) để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn chân Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
   Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấy ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng oanh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo; đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại, Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao đủ can đảm vạch được nét bút nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
   Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:
   - Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dẫy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.
   Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ thấy những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực đã trái ngược với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.
   Sinh đến chỗ cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào trong một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ, mới liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:
   - Bác khóc thương thân quyến nào vậy?
   Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
   - Người nằm dưới mộ không phải bà con quen thuộc của tôi.
   Sinh nghĩ: "Chẳng nhẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
   - Ông từ đâu mà đến đây:
   - Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
   Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:
   - Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Thống trấn họ Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ Thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, can đầu ngựa níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chế vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đấy đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.
   Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:
   - Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
   Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
   - Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có? Dân làng đây, ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu? Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người, mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: "Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn, cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào mà che lấp sự thực. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó, đáng thương cho nó!".
   Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:
   - Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!
   Ðoạn gục đầu xuống mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
Sài Gòn 12-1958            
-----------------------------------------
(1) Một thể loại văn trong văn học cổ để ca tụng công đức.

2) Thể loại văn trong văn học cổ

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Luật sư Đặng Dũng - Công lý lạ lẫm sẽ thành quen qua bản án ngày 16 tháng 8 năm 2013

Link : http://www.voatiengviet.com/content/cong-ly-la-lam-se-thanh-quen-qua-ban-an-nguyen-phuong-uyen/1733648.html

Khi đọc báo, blog lề Dân tường thuật vụ án xét xử hai sinh viên yêu nước Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên cùng với việc giảm án đáng kể cho cả hai,  là luật sư biện hộ và bào chữa cho hai nguyên luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân ngày 27 tháng 11 năm 2007, tôi nhớ lại buổi chiều tuyên án: chúng tôi  gồm có các Luật sư Trần Lâm, Lê Công Định, Bùi Quang Nghiêm, Đặng Dũng và một bác luật sư già trong Đoàn Luật sư Hà Nội, đều hy vọng có sự thay đổi quan trọng trong việc Hội Đồng Xét Xử (HĐXX) sắp đưa ra một bản án.

Thật vậy thời gian nghị án của HĐXX cấp phúc thẩm quả là khá lâu. Sau khi việc tranh luận giữa các luật sư và đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao bị rút ngắn đột ngột, đến lượt hai nguyên luật sư bị cáo nói lời sau cùng, tiếp theo là phần vào nghị án của HĐXX.

Trước đó cả 5 luật sư đều thống nhất là biện hộ, bào chữa theo hướng yêu cầu HĐXX tuyên hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân “vô tội”. Tôi có nói với Luật sư Lê Công Định trong khi dài cổ chờ  đợi việc nghị án rằng “chỉ cần có việc tuyên án vô tội hay giảm đáng kể hay gì gì đó…thì nền công lý và tư pháp Việt Nam sẽ được thế giới … hoan nghênh vì đó là sự ‘độc lập’ của ngành tư pháp Việt Nam, điều mà cả thế giới đều mong đợi - có lẽ nó giống như sự chờ mong sau này của Việt Nam ở phía Mỹ khi là thành viên của WTO, rằng nền kinh tế Việt Nam nên được công nhận là nền kinh tế thị trường chăng?”

Thời gian nghị án trên 2 giờ mà vẫn chưa thấy HĐXX xuất hiện. Có chăng việc hoãn tuyên để xin ý kiến của…ai đó hay cấp cao hơn là Bộ Chính trị đối với việc kết án về tội an ninh quốc gia đặc biệt nghiêm trọng này. Nên nhớ là chúng ta thường nghe nói là án thường “bỏ túi” hay đã có lần sau khi nghị án chóng vách, báo chí nước ngoài đã loan tin là thời gian nghị án nhanh quá, nhanh hơn cả thời gian đánh máy ra một bản án dài lê thê khi kết án một người nào đó vi phạm điều luật 88 của Bộ Luật Hình sự hiện hành.
Còn đối với việc nghị án và tuyên án trong bản án ngày 16 tháng 8 năm 2013 như chúng ta đã được báo chí, blog lề Dân loan tin là kéo dài từ 10 giờ 30 sáng đến tận 15 giờ 30 chiều là rất dài – còn theo báo chí lề Đảng và đài VTV thì không dám tường thuật trung thực việc xét xử.

Dưới góc nhìn của luật sư, tôi nhận thấy:

Trước hết là việc các thẩm phán của Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao (TANDTC) tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xuống Long An để xét xử ở cấp phúc thẩm. Đây là điều cũng bình thường vì không dại gì mà lại xét xử vụ án này ở TPHCM sẽ gây sự chú ý của rất nhiều người quan tâm, trong và ngoài nước.

Điều kế tiếp là thành phần của HĐXX xử là ba thẩm phán của TANDTC: Trương Thị Minh Thơ, Phan Thanh Tùng và Trương Vĩnh Thủy. Tôi đã có dịp tham dự các vụ án dân sự do hai thẩm phán Minh Thơ và Thanh Tùng xét xử. Bà Minh Thơ là người miền Nam, dễ mến, là cháu của nguyên đại biểu Quốc hội nổi tiếng thương dân là bà Hoài Thu, lo về dân nguyện.

Thẩm phán Phan Thanh Tùng (người gốc Thanh Hóa), nguyên là thẩm phán từ Quận 4 chuyển  lên làm thẩm phán tại TAND thành phố, rồi lên làm Phó Chánh án rồi lên làm thẩm phán TANDTC khu vực phía Nam. Ông còn trẻ và có năng lực tốt nên thăng tiến rất nhanh. Tôi còn nhớ mãi việc tôi bức xúc trong việc tố tụng mà tôi bị một nữ thẩm phán làm khó dễ, ông đã ngồi lắng nghe, ghi nhận và đã góp ý với thẩm phán đang thụ lý một vụ án mà tôi tham gia để yêu cầu thẩm phán này phải cư xử cho đúng với những yêu cầu của tôi. Luận cứ, thái độ của Thẩm phán Tùng theo tôi, hơn hẳn các đồng sự của ông về sự sắc bén và ôn tồn nhã nhặn với các luật sư.

Thẩm phán thứ ba theo tường thuật thì truy đuổi các luận cứ của hai sinh viên yêu nước. Thẩm phán Trương Vĩnh Thủy thì phản ứng gay gắt nhất, luôn cay cú ăn miếng trả miếng với 2 sinh viên…Cũng theo thông tin blog, thông tin báo lề Dân thì điều ngạc nhiên là đại diện Viện Kiểm sát (VKS) Tối cao đã chấp nhận luận cứ của Nguyên Phương Uyên bằng cách chuyển việc truy tố hai sinh viên theo Điều 88 sang truy tố theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự.

Theo Luật Tố tụng Hình sự của Việt Nam thì căn cứ các Điều 221, 249 của bộ luật này, khi có căn cứ theo tình hình trong buổi xét xử, đại diện VKS có quyền rút quyết định truy tố hay kết luận về tội nhẹ hơn và tiếp tục việc xét xử; nếu xảy ra điều này thì HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên Tòa trình bày ý kiến việc truy tố đó. Trước đây, có một Kiểm sát viên tên Hoàng Minh Khôi (nếu tôi nhớ không lầm) đã áp dụng điều này để rút quyết định truy tố trong một vụ án hình sự về kinh tế là điều Kiểm sát viên được quyền làm nhưng sau đó người này  không còn xuất hiện với vai trò đại diện VKS tại các phiên Tòa nữa.

Việc chuyển tội danh: nếu đúng theo báo chí lề Dân tường thuật lại căn cứ qua việc  xét hỏi và trình bày luận cứ của hai sinh viên yêu nước không có sự hiện diện biện hộ, bào chữa của luật sư - vì trước đó hai người đã từ chối luật sư bào chữa. Đây là luận điểm mà chưa có bài báo nào luận bàn, càng khó luận bàn khi báo lề Đảng thì không dám bàn, còn blog, báo chí lề Dân thì cũng chưa thấy ai đưa ra quan điểm  có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, tôi thấy cần cung cấp thông tin này để mọi người cùng suy xét đối với các vụ án mà tên gọi là an ninh quốc gia còn có khi gọi là “tội phạm chính trị”, điều mà Nhà nước VN luôn phủ nhận.

Điều quan trọng cần lưu ý là nếu đúng như chúng ta biết thông tin qua mạng Internet thì việc  rút một phần quyết định truy tố và kết luận về tội nhẹ hơn bằng cách đổi tội danh từ Điều 88 qua Điều 258 của Bộ Luật Hình sự. Viết đầy đủ điều 258 như sau: “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân” (nguyên văn ), tội này có hai khoản và không phải là tội phạm an ninh quốc gia mà là tội xâm phạm trật tự quản lý hành chánh và không phải là tội đặc biệt nghiêm trọng như Điều 88, mà tội phạm theo Điều 258 là tội ít nghiêm trọng do bị kết án là 3 năm cho hưởng án treo.

Do không phải là tội phạm an ninh quốc gia, không tái phạm nguy hiểm thì không có quản chế nhưng không hiểu sao qua các thông tin trên mạng thì bản án đối với Nguyễn Phương Uyên lại có phần quản chế đến 5 năm. Xin trích đăng nguyên văn Điều 38 về quản chế của Bộ Luật hình sự sửa đổi năm 2009:

“Điều 38. Quản chế:Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo Điều 39 của Bộ luật này và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

“Quản chế được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy hiểm hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
Thời hạn quản chế là từ một năm đến năm năm kể từ ngày chấp hành xonghình phạt tù”.

Như vậy căn cứ theo bản án mà chúng ta biết qua mạng Internet  thì cô sinh viên yêu nước Phương Uyên bị án phạt 3 năm tù treo, không phải là án phạt tù nên không thể bị hình phạt bổ sung là quản chế được. Thực hư như thế nào cần phải có bản án được Tòa Phúc thẩm TANDTC cấp cho hai sinh viên này trong thời hạn 10 ngày sau khi án tuyên thì mới biết được như thế nào.
 
Việc chuyển đổi tội danh của hai sinh viên yêu nước từ tội phạm theo Điều 88 sang Điều 258 còn có một nội dung rất quan trọng đó là việc chống Đảng không đồng hóa với tội chống Nhà nước được và Đảng chỉ là tổ chức chính trị mà thôi. Tại sao như vậy? Vì, cũng lại căn cứ qua phần biện hộ cho chính mình thì Phương Uyên biện luận rằng cô không chống Nhà nước mà chỉ chống Đảng, bị truy xét theo quan điểm của đại diện VKS Tối cao thì cho rằng Đảng lãnh đạo đất nước nên Đảng là Nhà nước. Trong khi tranh luận giữa Phương Uyên và bên công tố chưa rõ ai đúng ai sai thì việc tòa án áp dụng Điều 258 để ra án phạt đối với Uyên Phương thì tên của tội danh Điều 258 là “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” mặc nhiên xác nhận Đảng chỉ là tổ chức mà thôi. Theo tôi đây là luận điểm cực kỳ quan trọng vì Đảng  đúng theo nguyên nghĩa là tổ chức chính trị nhưng từ lâu nay, não trạng của rất nhiều người đang cầm quyền thì cho rằng Đảng trên, lãnh đạo Nhà nước…tức là Đảng là Nhà nước.

Nếu nhận định như vậy thì nay với bản án ngày 16/8/2013 có ý nghĩa vô cùng quan trọng, và các cá nhân nào bị kết án theo Điều 88 có thể yêu cầu tái thẩm bản án mà họ đã phải chịu, vì trước đây các cá nhân bị kết án theo Điều 88 luôn luôn bị kết án là chống Đảng tức là chống Nhà nước CHXHCNVN, nhưng bản án ngày 16/8 không chấp nhận việc đồng hóa Đảng là Nhà nước. Với tất cả sự thận trọng cần có của tôi, các cá nhân Luật sư Nguyễn văn Đài, Lê Nguyên Sang… cần nghiên cứu kỹ xem bản án  ngày 16/8/2013 có thể nhờ đó mà được tái thẩm hay không?
 
Về luận cứ của Nguyễn Phương Uyên và vai trò của luật sư

Việc hai sinh viên Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha từ chối việc bào chữa của các luật sư là một việc làm hài lòng phe công tố và HĐXX.

Thật vậy là luật sư, chúng tôi luôn lo ngại việc sẽ bị chính các bị cáo nói lời từ chối tại trước và trong phiên tòa. Tại sao có sự việc như vậy, điều mà ở nước ngoài gần như không xảy ra vì xét về tương quan kiến thức luật pháp và khẩu biện giữa bị cáo và phía công tố thì gần như một sự chênh lệch rất lớn.

Tuy nhiên cần phải ghi điểm cho cả hai phía đại diện công tố và phía bị cáo Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha. Hai sinh viên này không phải là sinh viên Luật, họ là sinh viên trường …Đại học Công nghiệp Thực phẩm.Vậy ai trang bị kiến thức này cho họ?

Câu trả lời khi Phương Uyên được phỏng vấn đã trả lời tất cả “đi một ngày... tù học một sàng khôn” nên em đã tích lũy kinh nghiệm chiến đấu cho chính số phận của em một cách can trường và khí phách qua các lần tiếp xúc với luật sư và với ngay cả chính các bạn tù đồng cảnh ngộ. Hình ảnh của em thật đẹp. Tuổi trẻ Việt nam đang đấu tranh cho dân chủ cho đất nước và dân tộc này hãy đọc lại nhiều lần các luận cứ tự bảo vệ của em trước Tòa.

Trước đây Luật sư Lê Công Định và chúng tôi đã từng khen Luật sư Lê Thị Công Nhân là can trường và khí phách trong vụ án cô bị xét xử theo Điều 88 Bộ Luật Hình sự thì nay với Phương Uyên trong phiên xử 16/8/2013, luận cứ tự bảo vệ của em đã làm bàng hoàng Đại diện VKSNDTC và HĐXX.

Điều lo ngại của các luật sư, người thân, bạn bè đấu tranh cho dân chủ của Uyên Phương là đúng nhưng khi được tường thuật lại và khi nghe chính em trả lời các đài, báo nước ngoài, thì là luật sư tôi cảm thấy Uyên Phương thực sự là người chiến thắng... trên nền luật pháp hiện hành VN, trên cả đỉnh Olympia ở vào tuổi của em là học sinh, sinh viên dưới mái trường Đại học mà nay là dưới mái nhà tù nghiệt ngã. Các Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Phan Anh, Nguyễn Hữu Thọ nếu còn sống và nếu được bảo vệ cho Nguyễn Phương Uyên và bị từ chối chắc cũng phải khen tặng bị cáo có một không hai này.

Ghi điểm cho phiên tòa này cũng dành cho đại diện VKSNDTC và cho các thẩm phán trong HĐXX, bởi vì các vị đã làm được điều mà các đồng nghiệp của quí vị không dám làm. TGheo dõi diễn biến của phiên tòa qua thông tin trên mạng, tôi chia sẻ với các quí vị đã làm điều xưa nay chưa từng có. Là công chức tòa án hay VKS chấp hành mệnh lệnh từ trước đến nay, quí vị đã trình diễn trong một vụ án mà công lý XHCN có dấu hiệu của sự độc lập tương đối nào đó. Lãnh đạo của quí vị ở quí tòa và quí viện khi tiếp khách nước ngoài có thể cho EU hay Hoa Kỳ thấy sự “độc lập” trong khi xét xử khá là mong manh đấy chứ. Đứng dưới góc độ của hai bị cáo Phương Uyên, Nguyên Kha, việc chấp nhận luận cứ của cả hai em để rút lại hay chuyển đổi tội danh, công nhận các bị cáo này có lý là một việc làm vẫn rất là hiếm hoi, càng hiếm hoi trong những vụ án mà áp lực của dư luận trong và ngoài nước là rất lớn.

Đến đây lại thấy quyết định từ chối luật sư của Phương Uyên và Nguyên Kha là điều rất hay. Thật vậy, việc các luật sư giữ quan điểm bảo vệ cho hai em và biện hộ cho hai em vô tội là điều hoàn toàn đúng. Do đó nếu phải linh động chuyển đổi tội danh như Phương Uyên và Nguyên Kha đã làm sẽ là một điều gây bối rối cho các luật sư trong phiên tòa cấp phúc thẩm. Thật vậy tại cấp sơ thẩm đã bào chữa vô tội cho bị cáo nên khi lên phúc thẩm luật sư cũng phải theo quan điểm biện hộ như cấp sơ thẩm. Điều đáng khen ngợi Phương Uyên là em đã “lái” được phía công tố sang buộc tội chính em theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự và chấp nhận bị xử phạt theo điều này càng cho thấy ở Phương Uyên có bản lãnh hiểu biết pháp lý và chính trị của em khi chuyển hướng tội danh chấp nhận được để phía công tố không phải…trắng tay trong vụ án.

So với các vụ án hình sự kết án những công dân yêu nước, đấu tranh cho dân chủ cho dân tộc và đất nước này, tất cả chúng ta sẽ cảm thấy hài lòng và mãn nguyện và cầu mong các vụ án tương tự trong tương lai thì cái thế tam giác: phía bị cáo, luật sư - công tố, đại diện VKS - HĐXX sẽ làm được các điều mà trong vụ án ngày 16/8/2013 đã làm được. Khi đó các lãnh đạo VN sẽ mạnh dạn hơn khi  đối thoại và tiếp xúc với giới trí thức, dân oan về điều mà các công chức dưới quyền họ đã làm được trong vụ án Phương Uyên - Đinh Nguyên Kha vừa qua.

Để kết luận về công lý lạ lẫm sẽ thành quen qua bản án ngày 16 tháng 8 năm 2013, chúng ta còn cần phải lưu tâm các điểm sau:

Cần phải xem lại biên bản phiên Tòa ngày 16 tháng 8 năm 2013, điều này bị cáo có quyền yêu cầu. Sau đó cần phải có bản án, sẽ được cấp cho Phương Uyên, Nguyên Kha 10 ngày sau khi có án tuyên.

Cần phải xem lại bản án có hình phạt bổ sung về quản chế hay không? Đối với bản án 3 năm tù treo là tội ít nghiêm trọng thì không bị quản chế?! Căn cứ Điều 38 Bộ Luật Hình sửa đổi.

Cần hết sức lo ngại việc bản án nếu bị phía công tố kháng nghị giám đốc thẩm bản án, thì… bản án được tất cả chúng ta quan tâm sẽ lại mang đến sự thất vọng cho chúng ta. Khả năng này là rất ít nhưng nếu phe bảo thủ thắng thế thì mọi điều có thể xảy ra.Hãy vui vì nền công lý của chúng ta đã đi được một bước dài và mong rằng tình hình sẽ là không thể đảo ngược lại được. Mong lắm thay.
 
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Luật sư Đặng Dũng

Đoàn luật sư tại TPHCM (Saigon)