Thứ Năm, 30 tháng 5, 2019

Dạ Ngân : Chòng chành mũi lái


Dạ Ngân
Tuổi thiếu nữ của mỗi người tựu trung giống nhau ở một điểm duy nhất: mơ màng. Nghe tóc chạm trên vai, nghe da mình thơm mịn, biết mắt mình hấp háy. Loáng thoáng chuyện các bà mẹ trẻ, hình như là chuyện chiếu giường, như hiểu như không. Nghe các mẹ cười phớ lớ, biết họ đang tếu táo, đang tràn trề, đang hạnh phúc.
Rồi lũ lượt những anh chàng nghẹn thở túm tụm, lướt qua hay lén ngoảnh nhìn. Cô nàng biết quyền lực của tuổi mười tám. Biết nhiều rồi đó nha, không tò mò dại dột như hai năm trước đâu nha. Mẹ bắt đầu căn dặn “Đôi lứa là khát vọng sâu xa nhất của mỗi người. Hơn sự nghiệp, hơn tiền tài, hơn danh vọng. Có hạnh phúc sẽ có tất cả”. Mẹ ca ngợi chim cánh cụt, chim câu, chim đại bàng. Mẹ không lấy bà nội hay bà ngoại làm tấm gương, mà chỉ lấy chim làm bài học.
Nhìn mẹ không nghĩ mẹ cũng có thời tóc tràn lưng, eo con kiến, bước lâng lâng, miệng chúm chím. Mẹ giờ miệng bằng tay, tay bằng miệng, chân không bén đất, ăn không yên chỗ ngồi, không giống chim mà giống gà, con gà mái tất bật, cứng cỏi và nhiều khi dáo dác. Câu chuyện của các mẹ giờ nhiều thầm thì, bí mật. Hình như bạn của mẹ nói, rằng khóc ở nhà sợ con biết, thằng ghi điện, đứa thu cáp biết, chạy vô sân bệnh viện khóc mới ngon lành, người quen có bắt gặp cũng dễ nói dối. Một người bạn khác hỏi vặn, còn yêu không, tao hỏi mày còn yêu chồng không, còn yêu thì còn cứu vãn được. Mẹ nói, yêu không nào đã đủ, làm đàn bà phải biết bỏ qua. Bỏ qua là sao, người bạn đó bắt tay lên hông như gây chiến. Mẹ làm một cử chỉ bề trên “Là vị tha đó bà nội!”
Lần đầu tiên với người em yêu, em khóc như đám ma. Em thấy tan tành, em thương mẹ, mẹ đã sinh ra em, đã giữ gìn cho em và giờ em đã không giữ nổi. Em không ngờ chuyện đau đớn và đơn giản như vậy. “Em sao vậy, em có làm sao không?” Cả hai lóng ngóng như mới ra chiến trường đã bị thương mà không biết băng bó cách nào. Chỉ nghĩ đến mẹ. Nhưng nỗi ám ảnh ấy không ở lại lâu, thay vào là rạo rực, khấp khởi, mong muốn. Nó cuốn em đi. Và thành thục.
Hôn nhân là một cái lồng mà em đã bước rất nhiều bậc trang nghiêm để được đứng vào đó. Lấp lánh, rạng rỡ. Mẹ thở phào nhưng không cười giòn, ánh mắt mẹ nhiều đăm chiên hơn ba. Khi tiễn em đi trăng mật, mẹ nói khẽ “Bây giờ mới bắt đầu nghe con”. Mẹ có biết em đã hiến dâng, nhưng mẹ cứ bảo khúc đạo đầu rất khác. Đã hòa làm một với cây đàn thì nó cũng có thể đứt dây khi mình đang thăng hoa. Và hai chữ vô thường cũng bắt đầu ở mẹ khi nói chuyện với con gái, như hai người phụ nữ, hai người bạn.
Chồng không giống ba, mẹ trấn an, làm sao giống ba được. Nhưng chồng con hay rửa chén giúp vợ, khác ba, mẹ khăng khăng “Rồi sẽ biết”. Lần lượt những đứa con, như anh con và con đã lần lượt bước ra từ bụng mẹ. Những đứa bạn thân giờ gặp nhau cũng cứ đề tài giường và chiếu. Nhưng rồi, những tràng cưới phớ lớ yếu dần, thay vào giữa mấy phụ nữ chớm trung niên là những câu thì thầm. “Toàn gêm với phây, cứ tưởng đưa tiền về thì…”, “Nghiện thứ đó, cái thứ phim đó, thế nào vợ cũng ra rìa!”, “Có tha không, có nên tha không, tha thứ ấy?”…Biết đâu đã có đứa vô bệnh viện ngồi ghế đá khóc cho đã, hoặc mày tao với chồng, hoặc đã ném tờ đơn xuống bàn giục ký. Em không dám nói với mẹ rằng em đang phập phồng một sự cố, như ba đứa bạn của em đang “lâm trận”, em thấy “vườn hồng ngày xưa đã úa tàn”.
Mẹ không chờ em bày tỏ. Mẹ nói mẹ liếc qua đã thấy, chun mũi đã ngửi ra và…Mẹ đến chỗ em một cách ý nhị, không ở hẳn, cũng không lơ là như trước. Mẹ khiến tự em biết làm cho bếp của mình thơm hơn, những món chàng rể thích mẹ thuộc lòng như anh ta là con trai của mẹ. Mẹ rủ em kê lại giường, sắm mới drap, mua cái này, đặt lại cái kia. Và phòng của hai đứa cháu ngoại cũng không như trước nữa. Lần đầu tiên em mở rộng vòng tay đàn bà của mình, đưa ông chủ gia đình của mình khám phá từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trong nhà.
Tuổi bốn mươi, mẹ bảo chưa xong đâu, đàn ông còn năm mươi, sáu mươi. Eo ơi, sao đàn bà phải thuộc họ như bác sĩ tâm lý, như nhà sinh vật học vậy mẹ? Mẹ từ tốn, con đừng tưởng ba mẹ từng không sóng gió! Khi nào, mẹ đừng nói với con rằng mẹ đã từng nhờ ghế đá bệnh viện nghen? Khi nào? Ối mẹ ơi, em ôm lấy mẹ và hai mẹ con cùng trào nước mắt. Như hai người vừa bơi qua sông, sông quá rộng và cả hai đã cùng nhau bước lên bờ, nguyên vẹn.
Mẹ bình thản, đàn ông thói thường lớp chớp chòng chành, đàn bà vừa phải cầm lái vừa phải chuẩn bị sẵn cái túi vị tha. Để chi vậy mẹ, để nhét họ trở vào cái túi đó, ít nhất một lần trong đời.

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2019

Vũ Đức Liêm : Sự hình thành đường biên giới Việt Nam – Campuchia thời Nguyễn


Sưu tầm trên Facebook An Nam Yakukohaiyo
Xác lập luận về lãnh thổ và biên giới của Campuchia từ giữa thế kỷ XX liên quan đến hai vấn đề lớn: thứ nhất là vùng hạ lưu sông Mekong thuộc về ai? Và đường biên giới ngày nay hình thành như thế nào? Cả hai đều liên quan đến một diễn trình lịch sử lâu dài và cực kỳ phức tạp trong suốt hai nghìn năm qua mà nhiều câu hỏi trong số đó vẫn chưa được giải đáp một cách thỏa đáng. Vấn đề thứ nhất là rất nan giải, có thể được bắt đầu từ vương quốc Phù Nam. Liệu những người Phù Nam này là các cư dân nói tiếng Nam Á hay Nam Đảo? Quan hệ giữa Phù Nam với các vương quốc người Khmer là như thế nào? Khi “Tân Đường Thư” nói rằng Chân Lạp của người Khmer đã xâm lược Phù Nam vào thế kỷ thứ VII và sau đó phân chia thành “Thủy Chân Lạp” và “Lục Chân Lạp” thì điều đó có ý nghĩa gì về mặt lãnh thổ? Những người Khmer sau đó đã cư trú ở vùng hạ lưu Mekong như thế nào từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVII? Chúng ta cũng biết khi phái đoàn nhà Nguyên do Chu Đạt Quan dẫn đầu đến Angkor vào cuối thế kỷ XIII đã mô tả các vùng đất dọc theo sông Mekong không hề có cư dân mà chủ yếu là rừng rậm và các bầy trâu nước. Sử gia Nhật Bản Yumio Sakurai thì lập luận rằng người Khmer đã bỏ hoang nhiều khu vực ở hạ lưu sông Mekong như vùng Đồng Tháp Mười trong hơn một nghìn năm. Vượt qua các vấn đề về chủng tộc và ngôn ngữ, chúng ta vẫn chưa rõ về mối quan hệ giữa các trung tâm chính trị vùng hạ lưu sông Mekong trước thế kỷ XVII cũng như sự ràng buộc của các thủ lĩnh Khmer hạ lưu (Okna) với triều đình Campuchia vùng thượng lưu cho đến khi hình thành các nhà nước tập quyền sơ kỳ hiện đại. Liệu mối quan hệ này nằm trong cấu trúc lỏng lẻo như mô tả ở Đông Nam Á truyền thống như các chính thể theo giải ngân hà hay mạng lưới mandala (galactic polities or mandala systems – đề cập đến mối quan hệ lỏng lẻo giữa các trung tâm quyền lực với các thế lực địa phương).
Vấn đề xác định lịch sử đường biên cũng không dễ dàng vì những biến động lịch sử ở cả Việt Nam và Campuchia trong suốt 200 năm qua, kể từ khi Việt Nam được thống nhất vào năm 1802 và chính thức xác lập quyền kiểm soát đầy đủ và có hệ thống ở hạ lưu sông Mekong. Mặc dù người Pháp vẽ các bản đồ mà từ đó đường biên giới này được quốc tế công nhận, và sau này cả Việt Nam và Campuchia dựa vào đó để hoạch định đường biên, thực tế là nó dựa trên cơ sở của đường biên xác lập bởi nhà Nguyễn và các vương triều Campuchia từ 1755 đến 1847, thông qua chiến tranh, mở rộng lãnh thổ, cắt nhượng đất đai, di cư, xây dựng hệ thống thủy lợi, và các tuyến phòng thủ. Nhà Nguyễn đã sử dụng các yếu tố địa lý tự nhiên như phương tiện xây dựng hệ thống quân sự, bố trí dân cư và từng bước tổ chức hệ thống hành chính nhằm “lãnh thổ hóa” vùng hạ lưu Mekong. Đến giữa thế kỷ XIX thì về cơ bản đường ranh giới này đã được định hình và được công nhận bởi cả Huế, Phnom Penh và Bangkok. Điều này chống lại hoàn toàn lập luận từng rất phổ biến của Campuchia là người Pháp lấy sáu tỉnh Nam Kỳ trong tay Campuchia vì thế cần phải trả lại cho Campuchia trong quá trình phi thực dân hóa.
Dự án lãnh thổ hóa hạ lưu Mekong và thiết lập đường biên giới giữa Việt Nam và Campuchia được thực hiện dưới ba triều vua là Gia Long (1802-1820), Minh Mệnh (1820-1841), và Thiệu Trị (1841-1847). Một trong những giai đoạn đỉnh cao của nó chính là việc Minh Mệnh can dự trực tiếp vào Campuchia trong những năm 1830s, thiết lập nền cai trị trực tiếp và chia lãnh thổ của vương quốc này thành 11 phủ và 25 huyện. Tuy nhiên cuộc xâm lược của Bangkok và nổi dậy của người Khmer dưới sự giúp sức của người Thái đã nhanh chóng làm thay đổi cán cân quyền lực trong khu vực dẫn đến việc Thiệu Trị rút quân về nước, công nhận vua Campuchia là Ang Duong với tư cách đồng thời là chư hầu của Bangkok và Huế. Sự kiện này chấm dứt tham vọng của triều Nguyễn ở Campuchia, đồng thời cũng củng cố các nỗ lực nhằm xác lập đường biên giới Việt Nam-Campuchia dựa trên các đường gianh giới tự nhiên, quân sự, và dân cư.
Nguyễn Ánh, người sáng lập vương triều Nguyễn cũng chính là người đầu tiên nhận thức được vai trò chiến lược của hạ lưu sông Mekong và biến nó thành sức mạnh trong cuộc tranh chấp quyền lực ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Sau gần ba thập kỷ tiến hành chiến tranh, chiến thắng của ông vào năm 1802 trước Tây Sơn đã lần đầu tiên hình thành một Việt Nam thống nhất từ biên giới Việt-Trung đến bờ vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, dù Huế kiểm soát các khu vực quan trọng như Quang Hóa (Tây Ninh), và các khu dân cư dọc theo Châu Đốc, Hà Tiên và các hòn đảo trong Vịnh Thái Lan như Phú Quốc, chưa có một đường ranh giới thống nhất và được hoạch định rõ ràng giữa Việt Nam và Campuchia. Thực tế là Hà Tiên vẫn nằm dưới sự kiểm soát của họ Mạc (dù họ được bổ nhiệm bởi Huế). Ớ phía tây Hà Tiên vẫn còn tình trạng xen lẫn các nhóm quân sự Việt Nam và Thái. Một số trong các đạo quân này được cử đến chiếm đóng từ thời vua Taksin của vương triều Thonburi (1767-1782). Chính Gia Long viết thư yêu cầu Bangkok rút các lực lượng này về, theo ghi chép cả cả biên niên sử hoàng gia Thái Lan và ghi chép của sứ đoàn triều Nguyễn năm 1810 (xem Xiêm La Quốc Lộ Trình Tạp Lục).
Sự thay đổi mạnh mẽ về cấu trúc chính trị, phân chia địa lý và tổ chức dân cư dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia được định hình về cơ bản dưới thời Minh Mệnh (1820-1841). Quá trình này là hệ quả của nhiều nhân tố, bao gồm có sự gia tăng xung đột giữa Huế và Bangkok xung quanh vấn đề Campuchia. Năm 1813, nhà Nguyễn phái 13,000 đưa vua Campuchia là Ang Chan về nước, đồng thời gia tăng quyền lực cho viên quan bảo hộ Chân Lạp trong việc kết nối tình hình ở Campuchia với thành Gia Định. Điều này thúc đẩy các tranh chấp quân sự và lãnh thổ giữa Bangkok và Huế trong ba thập kỷ sau đó dẫn đến việc các hệ thống phòng thủ quân sự được xây dựng quy mô dọc theo Tây Ninh, Châu Đốc, Tân Châu, Hà Tiên, Phú Quốc và sự gia tăng của binh lính đồn trú. Yếu tố thứ hai chính là sự gia tăng của các di dân người Việt và người Hoa dưới sự bảo trợ của hệ thống hành chính và quân sự triều Nguyễn thiết lập làng xóm, đồn điền dọc theo các kênh đào, thành lũy quân sự và đường mới xây dựng.
Các kênh đào và hệ thống đường bộ được xây dựng với quy mô lớn thời Minh Mệnh giúp người Việt củng cố việc kiểm soát lãnh thổ, di cư, và xây dựng hệ thống phòng thủ vững chắc chống lại các cuộc tấn công xâm lược của người Thái và nổi dậy của người Khmer. Kênh Vĩnh Tế dài 87 km nối liền Hà Tiên với Châu Đốc đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong dự án chính trị và lãnh thổ của người Việt nửa đầu thế kỷ XIX. Hàng vạn người Việt và Khmer được huy động xây dựng các hệ thống thủy lợi, kênh rạch, đường xá đã làm thay đổi phân bố dân cư, thiết lập các cấu trúc mới về không gian lãnh thổ và quan hệ chính trị ở hạ lưu sông Mekong. Hệ quả của nó là sự mở rộng của không gian hành chính và lãnh thổ của nhà Nguyễn. Khi kênh Vĩnh Tế được hình thành, có khoảng 20 làng mới được thiết lập dọc theo bờ đông. Các con đường mới cũng được xây dựng ở Châu Đốc và vùng núi Sam nhằm kết nối các khu dân cư mới với các thành lũy quân sự dọc theo con kênh mới. Vào năm 1819, Hà Tiên có số nhân khẩu khoảng 1,500 đinh và đội lính 250 người. Dự án tập quyền hóa của Minh Mệnh đã loại bỏ những tàn tích tự trị cuối cùng của họ Mạc và đưa vùng đất này dưới sự kiểm soát trực tiếp của Huế. Năm 1822, Hà Tiên được bổ nhiệm thêm chức quan đốc học, một dấu hiệu cho thấy vùng biên cương này được kết nối văn hóa và giáo dục với trung tâm. Năm 1826, Hà Tiên cùng với Long Xuyên và Kiên Giang được sáp nhập để thành phủ An Biên – mà ý nghĩa của vùng lãnh thổ như tên gọi của nó, “biên cương an bình”.
Các chiến dịch quân sự trong những năm 1830 giúp hoạch định rõ hơn đường biên này. Phú Quốc, Châu Đốc, An Giang, Tân Châu trở thành các thành lũy quân sự quan trọng chống lại cuộc xâm lược của Bangkok (1833-1834), cũng như làm bàn đạp củng cố sự hiện diện quân sự của Việt Nam ở Campuchia. Phú Quốc đóng vai trò đặc biệt quan trọng kiểm soát giao thương hàng hải và thủy quân ở phía đông Vịnh Thái Lan. Năm 1832, Minh Mệnh cho xây dựng pháo đài trên đảo Phú Quốc. Năm sau, tuần phủ Hà Tiên yêu cầu sáp nhập 13 hòn đảo vào địa hạt của mình, bao gồm Thổ Chu và Phú Quốc. Đến năm 1837, Minh Mệnh yêu cầu các quan chức đo đạc khoảng cách và vẽ bản đồ các hòn đảo dâng trình. Hà Tiên và Châu Đốc trở thành cửa ngõ kiểm soát Vĩnh Tế, trong khi con kênh này trở thành tuyến giao thương chiến lược cho thủy quân và các hệ thống quân sự nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của quân Xiêm xuống hạ lưu sông Mekong. Họ đã nhiều lần dự định lấp kênh Vĩnh Tế nhưng thất bại. Viên tướng chỉ huy là Chao Phraya Bodindecha từng yêu cầu quân lính ở Hà Tiên, Kampot và Kampong Som “bắt dân di cư, đốt hết nhà cửa ở tất cả các làng mạc và hủy hoại các thành phố, chỉ để lại rừng rậm và sông ngòi mà thôi.” Điều này thúc đẩy nỗ lực của nhà Nguyễn nhằm củng cố hệ thống phòng ngự dọc theo kênh Vĩnh Tế. Nguyễn Tri Phương đã xây một loạt đồn bảo ở Tiên Nông, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều dọc theo kênh Vĩnh Tế.
Cùng với sự hiện diện quân sự và cấu trúc hành chính của triều Nguyễn được xác lập vững chắc dọc theo đường biên. Một trong những trung tâm chính trị và quân sự quan trọng nhất được mở rộng là Châu Đốc. Năm 1832, tỉnh An Giang được thành lập. Đến năm 1836, Huế đã có thể tiến hành đo đạc ruộng đất, xác lập địa bạ và hệ thống quản lí đất đai ở khu vực này. Điều này dẫn đến sự gia tăng dân số đáng kể. Năm 1838, Hà Tiên và An Giang đã có số đinh lên đến 23,000, dựa theo thống kê từ Đại Nam Thực Lục. Rõ ràng sau ba thập kỷ tăng cường hiện diện quân sự, xây dựng hệ thống kênh đào, đường sá, thông tin liên lạc, và các khu dân cư dọc theo biên giới, hình hài của đường biên giữa Việt Nam và Campuchia đã từng bước được định hình.
Rõ ràng là trước khi có người Pháp đến, đường biên giới giữa Việt Nam với Campuchia đã từng bước được định hình thông qua tương tác quân sự, di dân, và các dự án chính trị. Cũng dọc theo kênh Vĩnh Tế trong những năm 1840s, Nguyễn Tri Phương đã yêu cầu thành lập thêm nhiều đồn bảo để ngăn chặn sự xâm nhập của người Khmer, đặc biệt là ở các khu vực thuộc Đồng Tháp và Thất Sơn. Với việc Việt Nam và Xiêm rút quân khỏi Phnom Penh và cả hai công nhận địa vị chư hầu của Campuchia cuối những năm 1840s, thực tế cho thấy Huế, Bangkok, và Phnom Penh đã đi đến công nhận hiện trạng của đường biên này, ít nhất như chúng ta có thể phác thảo: từ Hà Tiên dọc theo kênh Vĩnh Tế, qua Châu Đốc và kéo dài lên Tây Ninh. Một trong những biểu hiện của sự ghi nhận này chính là việc các tập bản đồ của triều Nguyễn giữa thế kỷ XIX đã bắt đầu đề cập đến đường biên này (xem bản đồ minh họa). Như thế, sự hình thành của đường biên này là sản phẩm tương tác của chính các cư dân khu vực chứ không phải là sáng tạo của chủ nghĩa thực dân Phương Tây.
Các nguồn sử liệu về đường biên giới Việt Nam – Campuchia:
Hiện nay có các tư liệu sử quan phương cũng như ghi chép cá nhân đầu thế kỷ XIX cung cấp hệ thống chỉ dẫn phong phú về sự hình thành của đường biên này từ thời Gia Long đến Tự Đức. Hơn 400 tập Châu bản triều Nguyễn liên quan đến giai đoạn này (lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc Gia I) cung cấp nhiều tư liệu quý giá về sự can dự của triều Nguyễn vào Cambodia và các vấn đề dân sự-quân sự liên quan đến vùng biên. Một phần trong các văn bản tấu sớ chỉ dụ này được biên soạn thành các bộ sách như Đại Nam Thực Lục, Khâm Định Tiễu Bình Nam Kỳ Nghịch Phỉ Phương Lược Chính Biên, Khâm định tiễu bình Xiêm khấu phương lược chính biên… Các sách địa lý, nhật ký hành trình, tập bản đồ và ghi chép địa phương có số lượng tương đối phong phú, nhưng hầu như vẫn chưa được các nhà nghiên cứu Việt Nam khai thác đúng mức. Gần đây tập sách “Xiêm La Quốc Lộ trình tập lục” (1810) của Tống Phước Ngoạn và Dương Văn châu mới được giới thiệu đến độc giả. Ngoài ra có thể kể đến Mạc Thị gia phả (Vũ Thế Dinh, 1818), Trấn Tây Phong Thổ Ký (1836?), Trấn Tây Ký Lược (Doãn Uẩn, 1848), Cao Miên – Xiêm La sự tích (Cơ mật viện, 1853)… Các tập bản đồ và địa lý liên quan đến Nam Kỳ và Đại Nam thời Nguyễn: Bản Quốc Dư Đồ (EFEO: A.1106), Đại Nam Nhất thống dư đồ (EFEO: A.68, 1861), Đại Nam Toàn Đồ (EFEO: A.1600, 1861), Nam Bắc Kỳ họa đồ (EFEO: A.95)… ghi chép địa giới hành chính dân cư dọc vùng biên. Các bản đồ được giới thiệu thời Nguyễn rất quan trọng trong việc xác lập tuyên bố lãnh thổ của người Việt một cách liên tục trên vùng đất Nam Bộ. Đến giữa thế kỷ XIX, sự xác lập này đã được thể chế hóa thông qua hệ thống hành chính nhà nước. Sự thực hành lãnh thổ này sau đó nằm trong tay người Pháp với tư cách là người “bảo hộ”. Dù là kẻ xâm lược và cai trị cưỡng bức, tư liệu địa lý-hành chính của người Pháp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khẳng định sự hiện diện liên tục về chủ quyền của người Việt/và chính phủ đại diện (một cách cưỡng bức) cho người Việt. Trên cơ sở đó, từ các tập địa lý về Nam Bộ biên soạn bởi người Pháp từ những năm 1860s cho đến biên khảo địa lý Hà Tiên, An Giang đầu thế kỷ XX đều cho thấy sự hiện diện liên tục và thống nhất của đường biên giới này. Sự phong phú tư liệu về vùng biên này dưới thời Bảo Đại, thời Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cung cấp khối lượng tư liệu dồi dào cho các nhà nghiên cứu giúp phác thảo lại lịch sử phức tạp của vùng đất này.
——————————————
Bài viết này phản bác lại luận điểm rằng đường biên giới Việt Nam-Campuchia là sáng tạo của người Pháp. Trái lại, nó là sản phẩm của các nỗ lực của nhà Nguyễn ở đầu thế kỷ XIX trong việc hoạch định biên giới, tổ chức lãnh thổ, và xác lập các hệ thống phòng thủ, cũng như bố trí dân cư dọc theo đường ranh giới mà theo đó sẽ định hình nên đường biên hiện đại giữa hai quốc gia.
- Vũ Đức Liêm