Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Dmitry Babich - Bí ẩn tâm hồn Nga (Bài 1)

Tháng 3 28, 2014
Phạm Nguyên Trường dịch
Trên tờ báo mạng viết bằng tiếng Anh Russia Profile cách đây 4 năm xuất hiện một bản báo cáo đặc biệt về quan niệm hiện đại về “Tâm hồn Nga”. Trong 15 bài báo, các tác giả là người Nga và người nước ngoài đã phân tích, từ nhận thức đương đại, quan điểm đã tồn tại gần 150 năm của những người cầm bút viết về nước Nga. Những phân tích này có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn các diễn biến đang diễn ra trong sự kiện được gọi là “Khủng hoảng Krym” và tình thế đầy nguy cơ leo thang trong quan hệ giữa Nga và các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, với Ukraine là sân khấu chính trị. Người dịch sẽ lần lượt giới thiệu bản báo cáo này.
Người dịch
_________
Các chuyên gia phá hoại
Các cuộc cách mạng đã bộc lộ tính cách châu Á trong tâm hồn Nga.
Các nhà cách mạng Nga là những người tài năng, những người được thúc đẩy bởi tình cảm bài phương Tây suốt nhiều thế kỉ và không có khả năng thành công trong xã hội ổn định.
Tính chất của cách mạng Nga được ghi nhận và nổi tiếng khắp thế giới vì một số người trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử nước Nga, ít nhất là ở một số giai đoạn của cuộc đời họ, là những nhà cách mạng. Vladimir Lenin[1] và Joseph Stalin[2] là những nhà cách mạng chuyên nghiệp, đã chọn sự nghiệp của người làm loạn chuyên nghiệp ngay từ những năm đầu đời. Alexander Herzen[3], Pyotr Kropotkin[4] và Mikhail Bakunin[5], khác với Lenin và Stalin, chưa bao giờ nắm được quyền lực chính trị, nhưng tính cách cá nhân đầy ấn tượng của họ, cũng như phạm vi và sự dũng cảm của tư duy chính trị và triết học của họ, đã làm cho các nhà tư tưởng phương Tây phải ngạc nhiên. Từ Albert Camus[6] đến Tom Stoppard[7], những kịch tác gia Tây Âu đã biến các nhà cách mạng Nga thành các nhân vật trung tâm trong các vở kịch của họ, đều tập trung vào hai đặc điểm chính của các nhà cách mạng Nga – theo đuổi các kế hoạch phần lớn là không tưởng và sử dụng một cách bừa bãi những phương tiện có tính đạo đức và (thường xuyên hơn) là các phương tiện phi đạo đức để thực hiện những kế hoạch không tưởng mà họ ấp ủ. Cách hành xử như thế của các nhà cách mạng, hình thành ở Nga vào giữa thế kỷ XIX, hóa ra là khá vững chắc và có tính phổ quát. Hiện nay cách hành xử như thế vẫn còn tiếp tục không chỉ ở Nga mà còn ở các nơi khác trên thế giới, từ Trung Quốc tới Venezuela.
Hủy diệt là mục đích tự thân
Hai nhân vật khác, không nổi tiếng bằng Lenin hay Stalin, và nhiều người – do những tai tiếng mà họ tự chuốc vào cho mình – sẽ muốn coi họ là những tên tội phạm bình thường chứ không phải là những người hoạt động chính trị. Nhưng, nhà cách mạng triệt để Sergei Nechayev[8] sống vào thế kỉ XIX và Shamil Basayev[9], một người li khai Chechnya vừa mới qua đời lại tự coi mình là những nhà cách mạng, cách mạng hơn cả Lenin và Stalin. Họ đã rất kiên định trong việc theo đuổi sự hủy diệt đến mức mà đối với họ, ngay cả những người tiến hành cuộc Cách mạng Nga năm 1917 cũng chỉ là những kẻ “lệch lạc” yếu đuối mà thôi.
Nechayev và Basayev tạo điều kiện cho chúng ta nghiên cứu hiện tượng cách mạng Nga vì cả hai đều là những nhà cách mạng “tinh khiết”, họ dành cả cuộc đời cho niềm đam mê này và không bao giờ thỏa mãn với số mức độ hủy diệt mà họ đã đạt được. Nechayev là thủ phạm của một trong những vụ ám sát chính trị tàn bạo nhất thế kỉ XIX ở Nga, và chỉ vì tình cờ mà ông ta không thực hiện được thêm những tội ác tương tự. Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được số nạn nhân của những cuộc tấn công khủng bố của Basayev, vì ông ta nhận trách nhiệm về những vụ bắt cóc con tin đẫm máu nhất trong lịch sử – chiếm bệnh viện ở Budyonnovsk năm 1995, chiếm nhà hát trên phố Dubrovka ở Moskva năm 2002, và chiếm trường học ở Beslan năm 2004.
Bài Âu
Việc Basayev là người dân tộc Chechnya và tuyên bố là người Hồi giáo dù sao cũng không làm suy yếu vị thế của ông ta như là một nhà cách mạng Nga, đấy không chỉ vì Basayev đã rời Chechnya khi mới tuổi 17 và sống nhiều năm ở Moskva và các thành phố khác của Nga. Và không chỉ vì ông ta tự coi mình là một nhà cách mạng kể từ hành động khủng bố đầu tiên vào năm 1991 – cướp một chiếc máy bay để phản đối những nỗ lực của chính phủ Nga nhằm chấm dứt tình trạng bất ổn tại Chechnya. Ông ta cũng giải thích tội ác khủng khiếp nhất của mình – cuộc tấn công khủng bố vào Dagestan năm 1999 – là muốn “phát động” cuộc cách mạng Hồi giáo ở Nga. Việc những người thiểu số tôn giáo và các sắc tộc thiểu số thường là đội tiên phong của cách mạng Nga, ít nhất là từ giữa thế kỉ XVII, đã đẩy Basayev vào hàng ngũ những người cách mạng Nga.
Yemelyan Pugachev[10], lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa lớn nhất của nông dân Nga chống lại Nữ hoàng Catherina II – cho đến khi bị hành hình năm 1775 – đã dựa vào người Hồi giáo và người Công giáo chống cải cách[11]. Điều thú vị cần ghi nhận là những người không có cảm tình với Nữ hoàng Catherina II ở Tây Âu đã đặt hy vọng lớn vào thành công của Pugachev, mặc dù kẻ mạo danh này, tức là kẻ tuyên bố là “chồng” Catherina đã lập kế hoạch sau khi chiếm được chính quyền ở St Petersburg thì sẽ quay sang chống lại những kẻ “đồi bại” theo Tin lành và Công giáo ở phương Tây.
Sự trớ trêu của câu chuyện này sẽ còn lặp lại nhiều lần trong tương lai. Các nhà cách mạng Nga, từ những người lưu vong bất đồng chính kiến như Nechayev và Lenin đến “người báo thù cho dân tộc, đầy lãng mạn” như Basayev, thường được phương Tây thông cảm, thậm chí là hỗ trợ trực tiếp nữa, nhưng khi giành được chính quyền chắc chắn là họ sẽ có những quan điểm bài phương Tây. Ngay sau khi trở thành “Thủ tướng” của nước Chechnya độc lập vào năm 1996, Basayev đã bắt đầu có những phát biểu bài phương Tây cay độc và làm ngơ trước những vụ bắt cóc các nhà báo phương Tây. Đấy cũng thường là những nhà báo mà ông nuông chiều và bảo vệ khi còn là phát ngôn viên của Chechnya trong cuộc chiến tranh từ năm 1994 đến năm 1996 và khuyến khích họ viết những câu chuyện gây hoang mang về hành vi của quân đội Nga.
Và đây chỉ là một trong nhiều ví dụ như thế. Sau khi lên nắm chính quyền ở Nga vào năm 1917, Lenin đã bắt đầu cung cấp tài chính và vũ khí cho các tổ chức lật đổ ở chính nước Đức, đất nước đã giúp ông trở về Petrograd vào tháng Tư năm 1917 và đã coi ông như một công cụ hữu ích trong việc lật đổ chế độ Sa hoàng. Stalin, từng là đại biểu tại Hội nghị London của phái Bolshevist vào năm 1905, và đã được hưởng chế độ miễn thị thực đang có hiệu lực trên toàn châu Âu lúc đó, trong đó có cả Nga, sau khi nắm quyền liền tách Nga ra khỏi phương Tây bằng một bức màn sắt mà ngay cả một người ủng hộ chủ nghĩa biệt lập thời Trung cổ là Ivan Khủng khiếp[12] cũng không thể tưởng tượng nổi.
Tính chất bài phương Tây của các chế độ được lập nên sau cách mạng đã chứng tỏ rằng bản chất bài phương Tây của các cuộc cách mạng Nga là một hiện tượng xã hội. Mặc cho những diễn ngôn hoa mĩ ban đầu có vẻ “tiến bộ” của họ (những diễn ngôn hoa mĩ này thường dùng để chống lại các chế độ chuyên chế ở Nga, nhưng lại giành được cảm tình của phương Tây), các cuộc cách mạng ở Nga có xu hướng trở thành phản động vì chúng đẩy đất nước thụt lùi và tách nó với phần còn lại của châu Âu. Nhiều nhà sử học tin – mà có cơ sở – rằng các cuộc cách mạng cho thấy thành tố châu Á trong tâm hồn Nga.
Cách mạng tháng Hai năm 1917 và sự sụp đổ của chế độ Xô-viết năm 1991 không phải là một cuộc cách mạng theo nghĩa cổ điển của Nga, vì đấy là những “cuộc cách mạng từ bên trên” – đấy là những âm mưu giành được thắng lợi ngay trong các nhóm cầm quyền, họ đã lợi dụng sự phản đối của đám dân chúng bị bần cùng hóa nhằm gỡ bỏ sự kiểm soát của chế độ cũ đang đè lên vai những người đại diện trẻ hơn của giới tinh hoa của chính chế độ. Trong những cuộc cách mạng “thực sự” (“cách mạng từ bên dưới”, nơi mà quần chúng có vai trò tích cực) mô hình đầy bất hạnh như thế liên tục xuất hiện. Ngay sau khi các chế độ chuyên chế đáng ghét buông lỏng quyền lực, các thành phần cấp tiến nhất và thường có thái độ bài phương Tây liền tìm cách thoát khỏi những người có tư tưởng tự do “mềm yếu” trong nội bộ phong trào, rồi thiết lập chế độ khủng bố, đầu tiên là trong đảng của họ và – nếu thành công – thì trong cả nước.
Những tham vọng không có tương lai
Sergei Nechayev (sinh năm 1847, mất năm 1882) là một ví dụ điển hình về cách hành xử của các nhà cách mạng Nga vừa được nói tới bên trên, và đây là một phần của lý do vì sao nhà văn nổi tiếng người Nga Fyodor Dostoevsky, vốn cũng là một nhà cách mạng, đã dùng Nechayev làm nguyên mẫu cho một trong những nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Lũ người quỷ ám  có tính chất phản cách mạng của ông. Sinh ra trong một gia đình có thu nhập khiêm tốn, mẹ là một người nông dân chất phác, Nechayev là một thanh niên tài năng và đầy tham vọng, nhưng trật tự chính trị hiện hành chỉ dành cho tham vọng của ông một ít cơ hội mà thôi. Ở tuổi 21-22, sau khi chuyển sang những tư tưởng mang tính cách mạng triệt để nhất, ông ta đã cho thấy một tài năng tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời. Việc ở tuổi 31, ông ta đã có thể truyền những quan điểm cách mạng của mình cho cả những cai ngục của nhà tù tối mật ở St Petersburg, nơi ông ta bị buộc phải sống mười năm trong cuộc đời ngắn ngủi của mình vì tội giết người, chứng tỏ khả năng thuyết phục phi thường của ông ta. Kế hoạch vượt ngục của Nechayev với sự giúp đỡ của những cai ngục đã được ông “cải hóa” thất bại chỉ vì một trong những kẻ đã “cải hóa” báo cáo với cấp trên.
Các nhà sử học cũng đồng ý rằng Lenin cũng có khả năng thuyết phục phi thường. Tương tự như Nechayev – trong những cuộc trò chuyện riêng tư sau này, Lenin thường có những nhận xét tích cực về Nechayev – Lenin đã quyết định sống cuộc đời của một nhà cách mạng chuyên nghiệp ngay từ khi mới 20 tuổi. Vì sao ở Nga những người tài năng như vậy thường trở thành các nhà cách mạng?
Câu trả lời thật đơn giản: không có cơ hội phát triển sự nghiệp và không thể có một đời sống thịnh vượng trong cấu trúc xã hội đã ổn định. “Những người như Nechayev, một giáo viên trong trường Công giáo với một nền học vấn không đầy đủ, một trợ lí luật sư tỉnh lẻ như Vladimir Ulyanov (tên thật của Lenin) hoặc một người viết văn tầm thường như Viktor Chernov (nhà lãnh đạo tương lai của Đảng Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Nga) – ở nước Nga Sa hoàng, những người này có thể hi vọng có một sự nghiệp nghiêm túc hay không?”- Felix Lourie, người viết tiểu sử Nechayev và cũng là một nhà sử học chuyên về lịch sử cách mạng Nga sống ở St Petersburg, đặt câu hỏi như thế ngay trên trang đầu tác phẩm của mình. Lourie đưa ra câu trả lời tiêu cực. “Họ nhồi nhét vào đầu óc mình rằng phải làm một cuộc cách mạng của riêng mình thì họ mới có thể bước lên những đỉnh cao của quyền lực, và họ không chấp nhận bất cứ thứ gì kém hơn. Tư tưởng đơn giản này nuôi dưỡng khát vọng một cuộc cách mạng nhanh chóng, làm bùng lên trong họ sự nôn nóng và thái độ bất dung.”
Cho đến năm 20 tuổi, Nechayev chỉ là một kẻ mới nổi trung bình (Nechayev sinh ở Ivanovo,  một tỉnh nằm ở trung tâm nước Nga). Ở tuổi thanh niên, ông ta đã đến Moskva và St Petersburg để thi vào đại học. Thi trượt, ông phải làm giáo viên thần học tại một trường Công giáo và kiếm thêm bằng những buổi dạy ở nhà. Bài giảng tại các trường đại học mà ông ta tham gia trên cơ sở tự nguyện không làm ông ta thỏa mãn, vì nền giáo dục đại học chỉ cho phép người ta vượt qua hai nấc đầu tiên trong 14 nấc thuộc hệ thống thang bậc hành chính cấp cao mà Peter Đại đế thiết lập và mãi cho đến cách mạng năm 1917 vẫn không hề thay đổi. Vì vậy, thay vì trở thành một nhà khoa học, Nechayev nuôi lòng thù hận mạnh mẽ đối với lũ trí thức “vô dụng”, lòng thù hận mà Lenin, trẻ hơn Nechayev 23 tuổi, sẽ thừa kế một phần. Trong một lá thư, Lenin tuyên bố rằng giới trí thức Nga “là cặn bã của dân tộc”, và điều đó cho thấy chiều sâu thực sự của sự khinh bỉ kiến thức của ông ta, tức là khinh bỉ cái kiến thức không thể được sử dụng vào thực tế cách mạng hay tệ hơn, có thể dùng để chống lại cách mạng.
Giết là sự ràng buộc
Năm 1868 Nechayev tham gia vào một cuộc bạo loạn của sinh viên và làm quen với Pyotr Tkachyov[13], một trong những nhà lãnh đạo của phong trào cách mạng gọi là “Narodniki” (“Người Chiến sĩ của Nhân dân”), tức là phong trào ủng hộ cuộc cách mạng do nông dân lãnh đạo và không ghê tay khi thực hiện những hành động khủng bố chống lại các quan chức của chế độ Sa hoàng. Năm 1869, Nechayev đã sống vài tháng ở London và Geneva, tại đây ông đã gặp những nhân vật huyền thoại thuộc giới lưu vong chính trị Nga – đấy là Mikhail Bakunin, một người “vô chính phủ” và Alexander Herzen, một nhà “dân chủ tự do”. Trong nhiều năm, nếu không nói là nhiều thế kỷ, địa chỉ của giới kiều dân cấp tiến Nga vẫn là Anh, Thụy Sĩ và Pháp.
Nhưng, Nechayev còn đi xa hơn những gì mà những người lưu vong cấp tiến nhất có thể hình dung. Trên thực tế, Nechayev đã đưa ý tưởng của họ đến kết luận hợp với logic của chúng, đấy là khi ông ta nói rằng cách mạng biện minh cho tất cả mọi thứ, trong đó có những vụ giết người, cả kẻ áp bức lẫn người bị áp bức. Ông ta tóm tắt quan điểm của mình trong cuốn Sách giáo lý của một nhà cách mạng, một bản tuyên bố cương lĩnh được xuất bản có vài cuốn tại Nhà xuất bản Geneva (Geneva Publishing House), do một người lưu vong Ba Lan tên là Ludwig Czernecki làm chủ, và bằng cách đó đã tạo ra một liên minh tội lỗi giữa những kẻ chống chính phủ cực đoan người Nga và người Ba Lan. Liên minh này tồn tại suốt mấy thập kỷ, và đã tự thể hiện mình, ví dụ như trong vụ ám sát một ông vua có tư tưởng tự do là Sa hoàng Alexander II, do hai kẻ khủng bố, một người Nga và một người Ba Lan, thực hiện.
“Nhà cách mạng là người chắc chắn sẽ bị diệt vong,” Nechayev tuyên bố như thế. “Anh ta cắt đứt mọi liên hệ với trật tự dân sự và với môi trường có giáo dục, với luật pháp, với sự tử tế, với những điều kiện và đạo đức được mọi người chấp nhận. Nhà cách mạng là kẻ thù tàn nhẫn của thế giới này, và nếu nhà cách mạng tiếp tục sống trong thế giới này thì chỉ vì muốn hủy diệt nó một cách chắc chắn hơn … Nhà cách mạng chỉ biết một khoa học – khoa học của sự hủy diệt… Nhà cách mạng khinh thường dư luận. Anh ta coi khinh và căm thù đạo đức của xã hội hiện thời. Đối với anh ta, chỉ có những thứ có ích cho chiến thắng cuối cùng của cuộc cách mạng mới là đạo đức mà thôi.”
Nechayev không sống để thực hiện trọn vẹn các nguyên tắc của “giáo lý” của mình. Năm 1869, sau khi trở về từ Thụy Sĩ, lần đầu tiên ông ta không thực hiện được “đạo đức cách mạng” của mình. Nhằm gắn kết các thành viên của nhóm sinh viên cách mạng của mình bằng  máu, ông ta đã tổ chức cho cả nhóm giết một trong các thành viên của nhóm là Ivan Ivanov. Tội lỗi của anh sinh viên này là không chịu dán truyền đơn chống chính phủ trong quán cà phê sinh viên. Mục đích là khiêu khích cảnh sát, để cảnh sát ra tay đối với sinh viên, mà theo kế hoạch của Nechayev thì sẽ làm cho số sinh viên bất mãn gia tăng và bằng cách đó sẽ làm cho chế độ Sa hoàng cáo chung sớm hơn. Ivanov đã từ chối, điều này dẫn Nechayev đến ý định loại bỏ anh ta bằng biện pháp bẩn thỉu nhất, đấy nói chung là đặc điểm của Nechayev và các nhà cách mạng khác của Nga trong tương lai. Đầu tiên, Nechayev vu khống Ivanov, ông ta nói với các thành viên của nhóm rằng Ivanov đã lập kế hoạch báo cáo cho cảnh sát biết. Sau đó ông thuyết phục mọi người rằng cách duy nhất để tránh bị bắt là cả nhóm cùng giết “tên phản bội”. Ivanov đã bị Nechayev và bốn sinh viên khác giết một cách tàn bạo vào tháng 11 năm 1869 trong khu vực vắng vẻ tại công viên của Viện Hàn lâm Nông nghiệp Moskva. Nechayev làm cho tất cả những những người có mặt trở thành đồng phạm của vụ giết người, nhưng chính ông ta đã bắn phát súng cuối cùng vào đầu Ivanov.
Những kẻ giết người đã giấu xác một cách cẩu thả và vụ giết người được được cảnh sát Moskva giải quyết một cách nhanh chóng. Các thành viên của nhóm bị bắt giữ, nhưng Nechayev đã tìm cách trốn được sang Thụy Sĩ, chính phủ Thụy Sĩ từ chối dẫn độ, vì cho rằng ở Nga ông ta sẽ không được xét xử một cách công bằng. Nhưng, năm 1872, cảnh sát mật của Nga tổ chức bắt giữ Nechayev ở Zürich. Kiều dân Nga và một số người khác – mà gọi theo lối bây giờ là những nhà hoạt động nhân quyền – tổ chức các vụ phản đối. Phải vượt qua những khó khăn rất lớn và sau khi đẩy lui được những nỗ lực nhằm giải thoát cho ông ta, các nhà tình báo Nga mới đưa được Nechayev về đến Moskva và sau đó là đưa ra tòa. Ông ta bị kết án 20 năm lao động khổ sai. Nhưng ông ta chỉ bị ngồi tù có mười năm. Sau vụ vượt ngục thất bại, dẫn đến việc bắt giữ 34 cai ngục và vụ ám sát Sa hoàng Alexander II do những “Narodniki” thực hiện vào năm 1881, Nechayev bị canh phòng còn chặt chẽ hơn trước đây. “Tất cả các khoản dự trữ trong cơ thể ông đã cạn kiệt”, Lourie viết như thế. Năm 1882 Nechayev chết vì bệnh hoại huyết.
Càng xấu thì càng tốt
Trong khi có sự khác nhau về hình thức, các nhà cách mạng Nga lại thống nhất với nhau bằng công thức “càng xấu thì càng tốt.” Không những không chiến đấu chống lại những hiện tượng bất công mà họ thường tìm cách níu giữ chúng, nhằm làm cho trật tự xã hội “phản động” nhanh chóng sụp đổ. Nechayev cố tình gửi những bức thư phản đối Nga hoàng cho một số người theo phái tự do, mặc dù ông ta biết rằng cảnh sát sẽ đọc những lá thư này và sẽ gây ra rắc rối cho người nhận và bằng cách đó làm cho số người ủng hộ cách mạng tăng lên. Basayev cũng tìm cách khiêu kích quân đội Nga để họ phản ứng lại hành động của ông ta, làm cho người dân Chechnya bị đau khổ nhiều hơn và trở thành kẻ thù không đội trời chung với nhà nước Nga – và trở thành những người ủng hộ trung thành hơn với mình.
Cuộc tấn công của Basayev vào Dagestan, tháng 8 năm 1999, dường như không có ý nghĩa gì, đấy là nếu nhìn từ quan điểm lợi ích dân tộc của Chechnya. Trước đó không lâu, tức là vào năm 1996, quân ly khai Chechnya mới chiến đấu nhằm giành độc lập trên thực tế từ tay nước Nga. Tại sao lại khiêu khích Nga để họ lao vào cuộc tấn công mới, còn tồi tệ hơn so với cuộc tấn công mà Chechnya đã phải đương đầu trong những năm 1994-1996? Ngoài ra, Dagestan là đất nước của những người đồng đạo Hồi giáo, họ sẽ là những người đầu tiên bị đau khổ vì cuộc tấn công của quân Chechnya. Từ quan điểm của một người có lí trí bình thường thì cuộc tấn công này hoàn toàn không có ý nghĩa gì. Nhưng từ một quan điểm cách mạng thì có. Vòng xoáy mới của bạo lực sẽ làm cho nhiều người Chechnya và Dagestan trở thành cực đoan, tạo điều kiện cho Basayev gia tăng số “binh sĩ” tham gia vào những vụ khủng bố tàn độc ở Dubrovka và Beslan. Thời gian hòa bình ở Chechnya cho thấy sự bất tài toàn diện của Basayev trên cương vị “Thủ tướng” của Chechnya, một cương vị mà ông ta chính thức nắm giữ dưới thời “Tổng thống” Aslan Maskhadov. Cả Basayev lẫn Maskhadov đều chứng tỏ rằng họ là những nhà cách mạng tốt nhưng quản lý kinh tế thì kém hơn hẳn – một mẫu người mà Lourie là người đầu tiên phát hiện: “Các nhà cách mạng Nga ghét những cuộc cải cách bộ máy nhà nước và nền kinh tế một cách chậm rãi và bình tĩnh, bởi vì quá trình này không dành cho họ chỗ đứng trong hệ thống hành chính của nhà nước Nga”, Lourie viết trong cuốn tiểu sử Nechayev xuất bản năm 2004 như thế. “Lo sợ trước bản hiến pháp đã được chuẩn bị, các nhà lãnh đạo của phong trào ‘Ý Dân’ vội vã ám sát một ông vua có tư tưởng tự do là Sa hoàng Alexander II. Bản hiến pháp do Sa hoàng ban hành chắc chắn sẽ hạ nhiệt các hoạt động cách mạng. Hệt như vậy, Lenin vội vã làm cuộc đảo chính ở Cung điện Mùa Đông năm 1917, trước khi Hội nghị của Quốc hội Lập hiến khai mạc có mấy tuần. Sự cải thiện điều kiện sống của nhân dân làm cho các nhà cách mạng sợ hãi vì nó có thể biến họ thành những người thất nghiệp.”
Khuôn mẫu ứng xử như thế lí giải hành động của nhiều nhà cách mạng thời hiện đại của Nga, từ Basayev đến nhà văn Eduard Limonov[14]. Khiêu khích nhà nước để nhà nước đáp trả bằng bạo lực và nếu cần thì khiêu khích nữa – đó là chiến thuật mà ít khi họ thất bại. Nó cũng luôn luôn mang đến cho họ những người ủng hộ mới trong số các nhà báo cao quý của phương Tây. Nhưng điều mà nhà cách mạng Nga không bao giờ đạt được – đấy là làm người dân hạnh phúc. Hạnh phúc là hiện tượng không tương thích với cách mạng Nga; đối với các nhà cách mạng Nga, hạnh phúc cũng là một thứ tình cảm tư sản.
_________
Dmitry Babich là nhà báo, đã làm việc cho các tờ Komsomolskaya PravdaMoscow News, cho truyền hình, Đài tiếng nói Nga và trangRussia Profile.
Nguồn: Dmitry Babich – “The Engineers of Destruction“, Russia Profile07/7/2010
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra

[1] Vladimir Lenin (1870-1924), là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô Viết, được coi là một trong mười nhà độc tài khét tiếng nhất thế kỉ XX. (Các chú thích trong bài đều của người dịch.)
[2] Joseph Stalin (1878-1953) là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1953 đến khi chết, từ năm 1941 là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Joseph Stalin được coi là một trong mười nhà độc tài khét tiếng nhất của thế kỉ XX.
[3] Alexander Herzen (1812-1870), nhà báo, nhà văn và nhà triết học nổi tiếng người Nga.
[4] Pyotr Kropotkin (1842-1921), nhà sử học, nhà địa chất học, nhà phê bình văn học và nhà cách mạng Nga, một lí thuyết gia nổi bật về chủ nghĩa vô chính phủ.
[5] Mikhail Bakunin (1814-1876), một nhà tư tưởng và cách mạng Nga, theo đường lối Đại Slav, một người vô chính phủ, một trong những tư tưởng gia của phong trào Narodniki, đối thủ tư tưởng của Karl Marx.
[6] Albert Camus (1913-1960), nhà văn, triết gia nổi tiếng người Pháp. Cùng với Jean-Paul Sartre, Albert Camus là đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh, được Giải Nobel Văn học năm 1957.
[7] Sir Tom Stoppard (1937 – ), kịch tác gia người Anh gốc Czech.
[8] Sergei Nechayev (1847-1982), nhà cách mạng Nga thế kỉ XIX, một trong những dại diện đầu tiên của chủ nghĩa khủng bố của cách mạng Nga.
[9] Shamil Basayev (1965-2006), thành viên tích cực của lực lượng khủng bố đòi tách Chechnya ra khỏi Liên bang Nga.
[10] Yemelyan Pugachev(1742 – 1775), một người kazak vùng sông Đông, lãnh đạo cuộc chiến tranh nông dân ở Nga từ năm 1773 đến 1775.
[11] Cuộc cải cách Công giáo trong giai đoạn 1650-1661
[12] Ivan Khủng khiếp (1530-1584), Sa hoàng toàn Nga đầu tiên, từ năm 1547 (còn được dịch là Ivan Bạo chúa)
[13] Pyotr Tkachyov (1844-1886), nhà phê bình văn học và nhà báo. Tư tưởng gia của phong trào Narodniki.
[14] Eduard Limonov (1943), một trong những nhà văn Nga hiện đại gây nhiều tranh cãi nhất, từng lưu vong ở phương Tây đồng thời kịch liệt bài Mỹ và chống chủ nghĩa tư bản; từng tham gia những hoạt động chính trị cánh tả cực đoan rồi chuyển sang cánh hữu cực đoan; sáng lập Đảng Bolshevist Quốc gia Nga và tuyên truyền tư tưởng Đại Nga; gần đây nhất bị phạt tù 15 ngày khi tham gia biểu tình chống Putin năm 2010. Tác phẩm nổi tiếng nhất: It’s Me, Eddie (1976).

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

Canhco's blog - Chúng tôi đã thừa thuốc gây mê, thưa tiến sĩ.

Bài phỏng vấn tiến sĩ người Áo gốc Việt Đặng Hoàng Giang: “Phương Tây - một giấc mơ hời hợt!” trên báo Lao động* đang được nhiều người đọc và tranh luận. Tôi có cái nhìn khác vể bài viết này, trước nhất là lời cám ơn ông TS Đặng Hoàng Giang: Cám ơn về liều thuốc an thần của ông có nhã ý muốn tặng cho người dân chúng tôi.
Cuộc sống không chỉ là cơm ăn áo mặc, nó còn là tự do và những ao ước cần được xã hội thừa nhận. Ông về VN và ngắm nghía đời sống ở đây như Tây ngắm người Việt mặc dù ông nói tiếng Việt thạo hơn Tây nhưng ông chưa tiêu hóa được cái mà Tây nó vượt trội hơn Việt.
Theo Box của bài viết ghi rằng: “Từ năm 2008, ông là Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES) - một tổ chức phi chính phủ đi đầu ở Việt Nam trong việc thúc đẩy xã hội dân sự, minh bạch và nâng cao tiếng nói của người dân.”
Nhà nước mà ông đang nhận lương để nghiên cứu có cách nhìn như thế nào về xã hội dân sự, cái mà ông đang vận động và nghiên cứu? Sao ông không nhắc tới điều cực kỳ quan trọng này trong bài phỏng vấn?
Vâng. Tôi hiểu ông trả lời phỏng vấn rất trơn và không nghi ngờ gì cái trơn tru ấy được suy nghĩ cạn kiệt bởi một chuyên gia. Tuy nhiên là người chuyên nghiên cứu về xã hội dân sự Việt Nam nhưng ông lại bảo những hình ảnh xấu của người Việt là tất yếu trong khi cọ sát với sự vận động toàn cầu hóa.
Ông nói: “Việt Nam đang chuyển dịch, đang đầy những đứt gãy xã hội, những xung đột về giá trị và văn hoá trong quá trình toàn cầu hoá. Điều này thực sự là thú vị, tuy rằng có thể gây hoang mang.”
Ông nói: “Cũng khó mà yêu cầu những người nghèo đang vật lộn hằng ngày phải lịch sự, đi nhẹ nói khẽ và nhường nhịn người xung quanh. Hay thậm chí, những người không còn nghèo nữa thì vẫn mang thói quen từ thời bao cấp đã ăn sâu trong tiềm thức, nên vào resort (khu nghỉ dưỡng) vẫn còn chen lấn nhau khi lấy đồ ăn...”
Tôi không tin lập luận của ông. Rất nhiều ví dụ cho thấy sự diễn giải của ông không thuyết phục, tôi lấy đất nước Campuchia làm một điển hình mặc dù kinh tế và hoàn cảnh phát triển của họ thua xa Việt Nam.
Sang Campuchia ông sẽ thấy tâm tính cá nhân và tinh thần dân tộc của họ.
Họ cũng đang chuyển dịch trong cái mà ông gọi nứt gãy xã hội, nhưng không hề có những hình ảnh mà ông cho là tất yếu ấy. Tuy nghèo hơn Việt Nam nhưng họ lịch sự, khiêm tốn, thật thà và ý thức bảo tồn văn hóa của họ có thể khiến cho các quan chức Việt Nam sang chơi phải xấu hỗ.
Không có việc cả làng kéo nhau đánh chết bọn trộm chó như xứ sở vô pháp luật Việt Nam và vì vậy không thể gọi như ông là “thú vị”.
Họ không kéo nhau tới đền thờ xin lộc, xin thăng quan tiến chức như ở Việt Nam. Họ cũng không tàn phá đền chùa miếu mạo và vì thế không thể gọi như ông là “hoang mang”.
Họ giữ gìn Angkor như giữ gìn con ngươi trong mắt của họ. Còn Việt Nam thì sao, ông có biết bao nhiêu di tích đã bị tiêu diệt cho các tòa nhà cao tầng hay sân golf vì quyền lợi của nhóm lợi ích?
Ông nói: “Nhưng ở Việt Nam, người ta có thể thử nghiệm bản thân trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này chỉ có thể làm được trong một xã hội chưa có độ chuyên môn hóa cao.”
Ông đang ru ngủ mình và người khác. Nếu ông về Việt Nam không có bằng cấp hay tiền bạc trong tay thì không biết ông thử nghiệm bản thân như thế nào? Là một ông Tây ba lô đi xin dạy tiếng Anh trong các lò đào tạo cấp tốc sinh ngữ hay một chân chạy bàn tại một khách sạn 5 sao?
Nếu ông cho rằng người có bằng cấp, có ý thức muốn thử nghiệm trong một xã hội như Việt Nam thì ông tỏ ra vẫn chưa hiểu gì về nơi ông đang nghiên cứu. Vì Việt Nam “không có độ chuyên môn hóa cao” nên cách nhìn của những nơi ông sắp xin vào làm việc hoàn toàn khác với Tây phương. Họ sẽ nhìn ông bằng những cái nhìn vừa tỵ hiềm vừa nghi ngờ. Trong hoàn cảnh chung như thế ông làm sao thử nghiệm?
Ông đã biết có bao nhiêu sinh viên tài giỏi sau khi du học về với mảnh bằng tiến sĩ trong tay khi được nhận giảng dạy tại Đại học Quốc gia thì được trả với đồng lương ba trăm đô la một tháng?
Có lẽ chỉ đúng với trường hợp của ông vì ông nhận lương quốc tế để làm việc tại Việt Nam thì mọi gút mắc sẽ khó được nhìn ra bằng một đôi mắt tỉnh táo.
Ông nói: “Ở phương Tây, mỗi người sẽ chỉ có đúng chỗ đứng của mình như một mắt xích trong dây chuyền xã hội.”
Sai. Cái dây chuyền xã hội ấy chỉ được nhìn qua lăng kính lao động và vì vậy nhận xét của ông trái với nguyên lý phát triển. Phương Tây có hai loại lao động, một là sản xuất dây chuyền và hai là sản xuất không dây chuyền. Ông đang nói tới người công nhân trong mọi nhà máy của phương Tây, họ giống nhau và chỉ là những mắt xích. Loại thứ hai nhiều hơn, họ là những nhà khoa học đang miệt mài trong các phòng thí nghiệm. Dĩ nhiên không thể gọi họ là mắt xích được. Họ là các đầu óc luôn nghĩ tới các phát hiện mới để thỏa mãn hai nhu cầu: thứ nhất làm giàu, thứ hai cải tạo xã hội, và dĩ nhiên họ cũng không phải là mắt xích.
Họ là những chuyên gia độc lập, những người hoạt động chính trị chuyên nghiệp hay những giáo sư đang giảng dạy đầy dẫy tại các viện nghiên cứu hay đại học. Nói họ là mắt xích là cách nói phủ nhận và miệt thị của những đầu óc chống tây Phương.
Đông nhất là những người làm dịch vụ tại phương Tây, cũng không thể gọi họ là những con người-robot. Mặc dù họ làm cùng một công việc nhưng không ngày nào giống ngày nào vì phải tiếp xúc và làm việc với hàng chục loại khách hàng khác nhau. Họ sáng tạo để điều chỉnh thái độ làm việc cũng như cách quản lý công việc để sống còn và do đó họ không là mắt xích.
Ngay có là mắt xích như một công nhân bình thường nhưng vẫn có hằng triệu người khắp nơi trên thế giới ao ước được trở thành mắt xích ấy kể cả người Việt. Tại sao không làm một mắt xích tại phương Tây khi đồng lương, quyền lợi người lao động được bảo vệ trong khi cũng là một mắt xích tại Việt Nam thì không khác gì một một con bò trong nông trại, bị chủ vắt cho đến giọt sữa cuối cùng với sự tiếp tay của nhà nước bóc lột họ bằng đồng lương tối thiểu và hình thức của cái gọi là công đoàn?
Khi được hỏi: Điều gì khiến ông thấy khó chịu nhất khi sống ở phương Tây? ông rất ấm ớ khi nói “Họ cao to quá, mình nhỏ bé hơn nhiều (theo nghĩa đen), khi nói chuyện mình cứ phải ngước hết cả lên, mỏi cổ...”
Nhưng sau đó ông nói thêm: “Xã hội phương Tây coi trọng thành công vật chất. Xe xịn, nhà to, những chuyến đi đặc biệt… là những khát vọng cơ bản thúc đẩy xã hội phương Tây vận hành.”
Cái khát vọng cơ bản ấy có gì làm ông khó chịu khi khuyên người Việt lấy đó làm kinh nghiệm?
Chỉ khi nào phương Tây đồng loạt tuyên bố rằng họ không có khát vọng nữa hay khát vọng mù quáng vào một chủ thuyết nào đó như Việt Nam thì mới đáng nói. Xã hội thiếu khát vọng làm giàu là một xã hội mục rửa vì những định kiến sai lầm và bất mãn. Khát vọng ấy khôn lớn và thích hợp song song với các nền văn hóa lấy nhân văn làm chính thì tại sao ông lại khó chịu?
Phương Tây không bao giờ là thiên đường cả. Điều đó không cần phải bàn cãi nhưng khi lấy một phụ nữ chết đã 5 năm mới được phát hiện tại Mỹ để minh chứng cho sự bất toàn của nó là một so sánh không đúng tầm của một chuyên gia như ông. Kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa luôn luôn bất toàn vì vậy xã hội mới phải vận động để cải thiện nó. Lấy một ví dụ hiếm khi xảy ra để làm tiền đề minh chứng sự thiếu hoàn hảo của xã hội phương Tây là lấp liếm và thiếu biện chứng.
Là người tốt nghiệp thạc sĩ công nghệ thông tin, ĐH Kỹ thuật llmenau (Đức) có bao giờ ông thấy một người Đức bị nhốt khi viết status trên facebook vì điều 258 của Bộ luật hình sự?
Là người có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực kinh tế phát triển của ĐH Công nghệ Vienna (Áo), tấm ảnh 4 mẹ con chị Hòe mang cầy thay cho trâu tại Hưng Yên vừa được báo chí VN loan tải có cho ông khái niệm gì về một nền kinh tế định hướng của Việt Nam?
Ông có thấy công dân Áo nào muốn đi đâu phải xin giấy phép, muốn xuất ngoại phải tùy vào lòng hảo tâm của công an cửa khẩu?
Ông có thấy ở Áo hay ở Đức có ai bị công an mời làm việc rồi được trả về nhà với cái xác chết không? Ở Việt Nam xảy ra hàng tuần.
Ở Áo và Đức ông có bao giờ nghe người ta bị chính quyền bắt giam nhưng con cái không được gặp mặt và gửi thuốc men cho cha mẹ vợ chồng con cái họ hay không?
Ở Áo hay Đức có bao giờ ông thấy cảnh sát giao thông ăn hối lộ và khi chận dân lại thì câu đầu tiên là “có tiền không mày?”
Ở Áo hay Đức có bao giờ ông thấy một bà già 90 tuổi lượm rác nuôi cháu tật nguyền hay một chiếc giường trong bệnh viện chứa tới 4 người nằm, cùng 6 người khác chui rúc dưới nó?
Những cái ông “chưa” biết ấy đang dày vò lòng tự trọng của người dân, làm cho họ vọng ngoại có điều kiện và phương Tây là cứu rỗi của nhiều người không còn gì phải đắn đo suy nghĩ.
Là một chuyên gia được đào tạo và sống trong môi trường tự do, ông quên không nhắc tới hai từ này là một cái lỗi rất lớn. Có lẽ sống quá lâu với nó nên ông không còn cảm thấy tự do là cần thiết nữa. Riêng chúng tôi, là con người, ngoài cơm ăn áo mặc thì tự do là điều băn khoăn nhất.
Lần tới hy vọng ông sẽ được phỏng vấn với chủ đề rất hay ho và cần thiết này và cũng hy vọng ông chia sẻ được cái tự do phổ quát chứ không phải thứ tự do trong khuôn khổ như nhà nước vẫn thường nói.

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

Nguyễn Minh Hòa - Vừa đi vừa kể chuyện người bạn lớn phương Bắc

Bài viết nhân ngày Gc Ma rơi vào tay người đng chí thân thiết”- 14.3.1988 
Nguyn Minh Hòa 
Không có người Vit Nam trưởng thành nào li không có mt chuyn gì đó vi người Trung Quc, nh thì mua phi hàng gi, ln là người thân hy sinh chiến tranh biên gii. Không có người Vit Nam nào li không biết mt chuyn gì đó v Trung Quc, cũng như h biết v chúng ta. Hai bên đu quá rành v nhau.

V
a đi va nhn nha k nhng chuyn nho nh cho mi người nghe, nhng chuyn này ch báo nào đăng c, bi chúng là nhng chuyn mà các nhà chính khách cho là v vn. Tôi k, ai tin thì tin, không tin thì thôi.

1.    Nhà tôi
cách chân núi Nghĩa Lĩnh có Đn Hùng chng 3 km. Vào nhng năm 1965 đến 1968, b đi Trung Quc đến vùng này có đến hàng ngàn người. H làm đường, đt moi t trong lòng núi ra đ tôn nn đường, xung quanh Đn Hùng có 99 ngn núi, hu như cái nào h moi sâu thành nhng cái hang. Tuyt nhiên không có người Vit Nam nào được bén mng đến, lũ chúng tôi ngày y hay ra chơi vi h. Có 3 th lúc nào gp chúng tôi, h đu cho thoi mái. 

Th nht là huy hiu Mao Trch Đông, cái nào cái ny to bng cái bát, đ chói (hin tôi còn gi được mt cái). Lũ chúng tôi đeo khp người, t ngc xung cánh tay.Th hai là sách Mao Tuyn viết bng tiếng Vit, vi loi này lũ chúng tôi bóc ra ly cái v làm ví đ cm vào túi áo ngc cho oai, lòe my đa con gái mình đang tán tnh ( trong đng giy báo cho dày, ch ngày y làm gì có xu nào) và phát cho mi người đ đng my loi tem phiếu nước mm, go mc. Th ba là báo nh kh to, giy trng, hình màu cc đp bng tiếng Vit hn hoi, nh nó mà chúng tôi được biết chân dung Mao Trch Đông, Lưu Thiếu K, Lâm Bưu và biết thế nào là đi cách mng văn hóa, là kinh kch Bch Mao N, cũng nh các báo nh này mà c lp chúng tôi có cái đ bao sách ê h không bao gi cn.

 Thnh thong h còn cho chúng tôi nước đường pha loãng tot và mt ln duy nht có my cái ko Hi Châu, nhưng đ cho mi đa liếm mt cái thy đã đi. Ngày y chúng tôi phi hc tiếng Trung, sáng nào đến lp cũng chào cô giáo, thy giáo bng tiếng Trung Quc Lo sư ho, ri gân c hát bài “Đông phương hng, mt tri lên, Trung Hoa ta có Mao Trch Đông (bài hát này đến nay tôi vn còn thuc mi đu ch). Trong nhóm chúng tôi, có thng Ngôn, mt thng rt đp trai, nhanh nhn, liu lĩnh, nhà nó ngay dưới chân núi Đn Hùng cho nên t nhiên nm trong khu doanh tri ca các “đng chí Trung Quc mà không b đui đi.

 Có mt ln, nó r tôi và thng Sơn v xe (gi là thế vì b nó làm ngh x v xe hơi làm dép cao su, ngày y ngh này thnh hành lm, bây gi nó cũng làm ngh này nhưng x v xe hơi cho các lò nung gch) lách rng, vch le tìm hang (ngày y rng cây cao còn nhiu và dy lm, vào khong năm 1968 thì phi, mt cán b lãnh đo ca Tnh Vĩnh Phú mi nghĩ ra mt sáng kiến tht vĩ đi là phá rng trng sn s mang li li ln hơn, thế là mt chiến dch huy đng toàn dân phá rng rm r chưa tng thy, kết qu là toàn tnh Phú Th ch rt có đi trc lóc như đu ca nhà văn Quang Lp (sorry), đ au mt mu như máu cho đến tn bây gi, hic hic). 

Tui tôi theo nó chui trm vào my cái hang núi mà b đi Trung Quc đào ly đt mi thy nó tht vĩ đi, sâu hun hút, hm có vòm bng bê tông, chia làm nhiu ngăn, có ca bng st hn hoi, nhng cái hang này có nhiu ngách và đào rt sâu xung lòng đt và chôn rt nhiu thùng cha các loi súng, đn,.. Thng Ngôn biết được trò này vì có ln nó đi tìm trâu b lc. My năm sau rút v nước, h đánh bc phá bít kín tt c các ca hang.

 Ch biết sau này, s phn nhng kho vũ khí y ra sao, vì my năm sau tôi cũng đi b đi vào Nam cho đến tn bây gi. Nghe đn bo, h chôn vũ khí đ sau này nếu đánh nhau vi M (hay vi ta cũng vy) thì c thế móc lên cho tin, khi mang t Trung Quc qua mt công, li nghe đn h đnh tng cho b đi Vit Nam, nhưng không đưa lin vì s b đi Vit Nam dùng phung phí, ch khi nào quá cn kíp h mi ch ch cho mà dùng. Năm 1973, thng Ngôn cũng đi b đi. Nó quân đoàn 4, quân đoàn ch lc oánh vào Sài gòn. Bây gi hn đang chy xe taxi thuê Thái Nguyên, nghèo kiết xác, lâu qúa không gp nên cũng quên béng, không hi v nhng cái kho vũ khí trong lòng núi đó ra sao na.

2.    Năm 1973, chúng tôi xu
ng sát Sài Gòn, hot đng vành đai Tây Bc và Đông Bc Sài Gòn như C Chi, Hóc Môn, An Phú Đông, Tăng Nhơn Phú, ...thnh thong vào tn ni ô thc hin vài chuyn như bt chiêu hi, thám báo, ném lu đn, đưa các tình báo viên ra c hun luyn, chuyn vũ khí, tin gi vào bên trong thành và c vic móc ni đưa v con ca các cán b ln t vùng bên trong ra c thăm nhau...cui năm 74, sang đu 75 đt nhiên chúng tôi nhn rt nhiu vũ khí mi t Trung Quc chuyn t Bc vào còn nguyên đai, nguyên kin như súng ngn K.54, AK báng gp, súng tiu liên mini, lu đn, mìn, thuc n,nhưng t đây, bt đu xut hin nhng s c.

 Đu tiên là đn, thông thường mt thùng đn (lâu quá không còn nh là bao nhiêu na, có l là 600 đến 1.000 viên gì đó) có chng vài chc viên đu đn sơn đ, còn li là đu sơn xanh. Đu xanh là đn bn không thy đường đi, đu đ gi là đn la, là loi bn ra to thành đường la t người bn đến mc tiêu, loi đn này thường dùng đ dn đường cho ha lc như B.40, B. 41, Đi liên ly hướng đ bn, nhưng t hi là toàn b đn nhn cho tt c các đơn v vi hàng ngàn cơ s đu là đn đu đ, s dng loi đn này chính xác là ly ông, con bi này, mà lính đc công, bit đng ch đánh nhau ban đêm ch my khi đánh nhau ban ngày, kết qu là lính b thương vong rt nhiu, nhưng không dùng thì ly đâu ra đn, ch l bn bng ht đu phng. 

Vào gn chiến dch H Chí Minh, tôi (tác gi bài viết này) v hu c nhn my chc khu B.40 mi toanh còn ngp du m trong các ng nha kín mít, trước khi phân v các đơn v thì phi ra bìa rng bn th xung h bom, không n mt phát nào. Vượt sông Sài Gòn sang Thanh An, đến công binh xưởng ăn chc nm ch đ sa, nhưng không được chp nhn. Ngày y trưởng công binh xưởng ca R là thượng úy Võ Viết Thanh, sau này là Ch tch y Ban Nhân dân TP.HCM, ri là Trung tướng Th trưởng B Công An, ông dt khoát đui chúng tôi v không thèm nhìn mt vi lý do súng Trung Quc còn mi làm sao mà hng được. 

Tôi điên tiết, văng tc vi ông y, vác c súng bn thng vào cơ quan đ ông y thy nó tt như thế nào, rt cc mt 1 tun ăn chc nm ch ông ta cho quân thay ht n cũ bng ht n mi. Nó ch to bng ht ngô lép đu qu đn (nơi mà khi bóp cò thì kim ha nn vào ht n kích thích ng thuc phóng qu đn đi) và cam đoan là tt ri, v c vic xài. Nhưng vào chiến dch, không khu B.40 nào bn được ly mt phát. Mt b phn chn ngoài quc l (nay là quc l 1 A), bn chn xe tăng nhưng súng bn không n phát nào, sau này ngm li thy mà may, nếu xe tăng cháy, đường tc lính Vit Nam Cng Hòa tràn xung đường thì my ngoe nhà mình chc b làm tht hết. 

Nhưng cái may li không đến vi mũi thc sâu. Trong trn chiến sinh t đêm 28 rng ngày 29 ti cu An Phú Đông ngay ca ngõ ca B Tng tham Mưu, mt người lính thin chiến ca tôi quê Xuân Thi Thượng, Hóc Môn tên là Chí Thin đã hy sinh oan ung vì khu B.40 chết tit này. Anh nhanh tay hơn, giương cò bn nhng 2 ln, đn không nhúc nhích. Người lính Bit đng quân, sư đoàn 25 ca Vit Nam Cng hòa sau khi thoát chết đã hoàn hn bn nguyên mt trái tên la cá nhân M.72 chui vào bng người lính ca tôi, gn như ct anh ta ra làm đôi, tim gan phèo phi chín hết c. Điên lên, chúng tôi tháo tt c đn B.40 ra thì hi ôi, bên trong toàn là cát. Người bn ln ca chúng ta gi thông đip không mun chúng ta thng nht đt nước.

3.
    Tôi đến Trung Quc chng 11 ln, t Thượng Hi đến Qung Đông, Qung Tây, Phúc Kiến, H Bc, Macau,… khi thì hi tho, lúc thì nghiên cu, lúc thì ging dy. Bn chơi là người Trung Quc cũng nhiu, cũng đã mi hàng chc người đến Thành ph H Chí Minh. Phi công nhn đt nước này vĩ đi tht, lm th k hoa, d tho nht là nn văn hóa ca h weita” (vĩ đi) thì khi chê, nhưng người Trung Quc thì tht khó chơi và him.

M
t ln tôi đến làm vic thành ph Vũ Hán, tnh H Bc, ông bn là GS. Chu Trn Thành, Giám đc Trung tâm Nghiên cu cht lượng sng đô th, Trưởng khoa Xã Hi Hc ca trường đi hc Vũ Hán, chính là người giúp Th Tướng Chu Dung Cơ lp ra B tiêu chí quc gia đánh giá cht lượng sng ca dân Trung Quc trong thi k phát trin mt Trung Quc Hài hòa và Thnh Vương. Ông ta đưa tôi đến Hoàng Hc Lâu, nơi mà người Vit Nam biết được qua bài thơ ni tiếng cùng tên ca Thôi Hiu, thi nhân đi nhà Đường.

 Lão ta đưa tôi lên tng cao nht (có l là tng 9) và ch cho xem mt vt, y là trng đng Ngc Lũ (có l là thế), và nói trng đng ca Vit Nam là ca Trung Quc và gii thích là vào thi xưa xưa lm có mt trn đi hng thy cun ca ci tài sn ca người Hán (có l thế) trôi xung phía Nam, trong đó có trng đng, vì vy mà trng đng có Vit Nam, Thái Lan, Malaysia,..

Chơi vi người Trung Quc lâu, tôi ngm thy Khng T phân chia Trung Quc ra làm hai hng người là quân t và tiu nhân là có lý. Nhng k quân t ca Trung Quc qu tht thông minh, tài trí và mưu mô. H là nhng là chính khách hàng đu, nhng trí thc và loi quí tc giàu có, loi người này chưa bao gi t b ý đnh làm cho Vit Nam nhiu thì thành mt tnh ca Trung Quc, ít thì thành nô bc như Bc Triu Tiên. 

H luôn cho rng Vit Nam là mt mnh v văng ra khi Trung Nguyên sau nhng thăng trm biến đi nay cn phi thu hi li (h có mt lun thuyết hăn hoi đy). Còn mt hng người rt đông đo được gi là tiu nhân. H là nhng người đu húi cua, mt mt mí, lông mày rm, răng vu và thô, cm bnh. H ít hc, sng bn năng, hn nhiên, ít nghĩ, thiên v hành đng, răm rp nghe li cp trên. H làm điu tt và xu đu hn nhiên như nhau. Mt phút trước h ung rượu vi bn bng bát ln, v vai bn, ming ho, ho mt cách chân tình, mt phút sau được ai đó ra lnh h xung tay, mt đao giết bn nhanh như chp, ming la t, t mt cách cũng rt hn nhiên và chân tht. 

Truyn này trong lch s Trung Quc cũng k li, nếu không tin, đc li s thy đy đ trong tính cách ca 108 anh hùng Lương Sơn Bc, trên có Tng Giang, Lư Tun Nghĩa, dưới có L Trí Thâm, Lý Qu. Bà con nông dân biên gii Vit-Trung, bà con ngư dân trên bin đu gp chuyn này. Các chiến sĩ công binh làm nhim v xây dng ca ta đo Gc Ma không có vũ khí trong tay ngoài xng, cuc ra đã b bn cướp đo tàn sát rt dã man, tàn ác cho thy tâm đa ca tiu nhân vào thi nào cũng vy.
 
Vi
ết xong bài này, đnh gi đi cho Quang Lp, nhưng thy cn phi viết thêm tý chút, s không còn dp quay li na. y là chuyn người Trung Quc truyn đi có mt ni hn ln, th phi ra cho được cho dù là 1.000 năm hay 1.000.0000 năm. Đó là hu hết trong các cuc chiến vi người nước khác, h đu thua. Hai ln đi bi dưới tay người Mông C vào TK 13 và TK 17; Thua đau trong chiến tranh vi người Nht (1894-1895), tht bi vi Anh Quc trong chiến tranh nha phiến vào gia TK 19, phi gán n Hông Kông 100 năm, hai ln thm bi vi người Nga trong chiến tranh biên gii vào nhng năm 60, 70 ca thế k trước.

 Gi là hòa, nhưng thit quân gp hàng chc ln trong cuc so găng vi người M chiến tranh Triu Tiên, và đau nht là thua Vit Nam ti gn chc ln, chưa thng được trn nào cho ra hn. Ni hn khc ct, ghi xương này ca h vi dân Vit là thc, rt thc, không phi là chuyn d khép li quá kh như khép li mt chương ca cun sách, đng quên câu truyn đi ca h là thù tr 10 năm hay 100 năm cũng chưa mun.   

S
ng bên cnh nhng người hàng xóm như thế, lúc nào cũng phi ngó chng, ch mt ln sơ sy là đi đt ngay, mt tht.

Tác gi gi Quê Choa

Bài viết th hin văn phong và quan đim riêng ca tác gi