Một đám đông giận dữ cũng nguy hiểm không kém
kẻ độc tài tàn bạo ngồi trên ngai vàng.
Nền Dân Chủ Athens và Nên Dân Chủ Hiện Đại;
Dân Chủ Trực Tiếp và Dân Chủ Gián Tiếp; Đâu là lằn ranh giữa dân chủ và nền độc
tài đám đông? Loạt bài viết này sẽ cho bạn đọc một các nhìn toàn cảnh và lý
giải sự khác biệt cũng như câu hỏi trên. Để khi có người dẫn chứng lời phê phán
của Plato, Socrates hay James Madison về nền dân chủ, hãy nhớ rằng họ không nói
về cùng nền dân chủ chúng ta mong muốn ngày nay.
o Nguyễn Quốc Tấn Trung
Trước tiên, chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa
các hình thái dân chủ. Bài viết không nhằm phản đối thể chế dân chủ. Dân chủ
luôn luôn là một hình thái nhà nước đáng được tôn trọng nhất bởi trong hình
thái nhà nước, do ý kiến của các công dân, kể cả các nhóm yếu thế luôn được cân
nhắc, bảo vệ và thể hiện trong chính sách của nhà nước; hình thái nhà nước dân
chủ tạo điều kiện cho sự trao đổi, thẩm vấn, kiểm tra và giám sát nhà nước của
công dân. Từ đó, công dân tạo nên một hệ thống nhà nước khỏe mạnh, không lạm
quyền và thật sự hoạt động vì cộng đồng. Tuy nhiên lại có rất nhiều hình thái
dân chủ với các quy chuẩn phân biệt khác nhau, mà nổi bật nhất là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện.
Vậy tại sao dân chủ trực tiếp, vốn xét một
cách thuần cảm tính, là nơi thật sự để người dân tham gia quyết định các
chính sách quốc gia, với tiếng nói rõ ràng nhất mà không cần thông qua các dân
biểu đại diện, lại chưa bao giờ là lựa chọn của các nhà nước dân chủ nổi tiếng
nhất trong lịch sử?
Độc tài … số đông: lời tự sự của các triết gia
Khi chúng ta nhắc đến các thể chế độc tài,
điều gợi lên trong mỗi người trước tiên là các chính thể theo kiểu Orwellian
(gọi theo tác phẩm “1984” của tác giả George Orwell nói về một xã hội toàn
trị) hoặc Stalinist – theo thiên hướng nhà độc tài Xô-viết Joseph Stalin, nơi
mà một nhóm hoặc một cá nhân thâu tóm gần như toàn bộ quyền lực nhà nước với
kiểu ứng xử độc đoán thần giáo như thể quyền năng của họ là của Chúa trời. Tuy
nhiên, khi mà các chính thể nhà nước như vậy đã và đang dần mất vị thế của mình
trên chính trường thế giới; một con quái vật khác đang trỗi dậy tại sân sau của
mỗi gia đình, được nuôi dưỡng bởi sự tự thỏa mãn và mất động lực chính trị của
các công dân từ những xã hội tiến bộ – “Độc tài số đông”.
“Độc tài số đông” không phải là khái niệm mới
mẻ trong triết lý pháp luật và chính trị thế giới, nhưng vì một số lý do khách
quan và cũng có thể là do nhầm lẫn thật, người ta thường lạm dụng sự
mập mờ giữa “Độc tài số đông” và “Dân chủ”. Sự làm dụng này ít khi được nhắc
đến chi tiết. Mặc dù bóng ma của chủ nghĩa đa số thiếu khôn ngoan, không bị
kiềm chế đã ám ảnh sức sáng tạo của hoạt động chính trị dân chủ từ Phiên tòa
Socrates (The Trial of Socrates) trong thời cổ đại Hy Lạp, khái niệm và
nghiên cứu học thuật chuyên sâu về “Độc tài số đông” chỉ được chính thức hình
thành trong kỷ nguyên cách mạng dân chủ hiện đại (modern age of democratic
revolutions).
Phiên tòa Socrates diễn ra vào năm 399 trước Công Nguyên, nhằm
xét xử một trong những nhà hiền triết danh tiếng nhất Hy Lạp Cổ Đại – cha đẻ
của triết học – Socrates. Ông bị buộc tội “làm tha hóa giới trẻ” và “từ chối
chấp nhận những vị thần được công nhận bởi nền dân chủ”. Thực tế, việc ông
làm là thường thách thức các niềm tin được công nhận rộng rãi tại Athens với
kiểu đối thoại Socrates vòng tròn, kể cả việc đặt vấn đề về niềm tin với các
vị thần mà người dân Athens đang thờ phụng. Cách ông phản bác nền dân chủ
Athens và giảng dạy về bất tuân dân sự cho dân chúng và các môn đệ của mình
cũng bị cho là có dính líu đến Critias, một học trò của
ông – và cũng là lãnh đạo của nhóm “Tam Thập Bạo Chúa” (The Thirty Tyrants),
một chế độ thiểu số lãnh đạo vô cùng tàn bạo nắm quyền kiểm soát Athens trong
8 tháng (404 đến 403 trước Công Nguyên). Điều khiến các học giả hiện đại thất
vọng và đặt câu hỏi với nền dân chủ Athens là 500 công dân Athens đã chấp
nhận phiên tòa xét xử một nhà hiền triết chỉ vì những điều ông giảng dạy, và
trao cho ông hình thức tử hình dù không có bằng chứng rõ ràng chống lại ông –
một bản án chỉ được quyết định chỉ vì đám đông chọn như thế.
|
Trước tiên bắt đầu với nhà triết gia John Locke (1632-1704), khi
ông nhận thấy được sự trỗi dậy mạnh mẽ của một tầng lớp tập hợp các cá nhân
“cấp thấp” của xã hội như là nhân tố cực kỳ quan trọng trong những cuộc nội
chiến tại Vương Quốc Anh; và chính thức đặt ra quan niệm về nguyên tắc “đa số
thắng” (majority rules) trong tác phẩm Hai
Luận Thuyết về Chính Phủ (1690).
Một thế kỷ sau đó, kinh nghiệm cách mạng tại Hoa Kỳ và Pháp bắt
được ánh sáng mới của chủ nghĩa “đa số thắng” ở một cường độ mãnh liệt hơn. Chủ
nghĩa này là thứ khiến các vị khai quốc công thần của Cách Mạng
Hoa Kỳ năm 1776 phải trăn trở trong các tranh luận của họ về việc phải xây dựng
mô hình nhà nước dân chủ thật sự hoàn hảo như thế nào.
Khái niệm chính thức được đặt tên “Sự độc tài đa số” – “Tyranny of the majority” bởi nhà sử
học và lý thuyết gia chính trị danh tiếng Alexis de Tocqueville (1805–1859)
trong ấn phẩm thứ hai của tác phẩm Nền Dân Trị Mỹ; cũng như được ghi nhận trong
tác phẩm mang dấu ấn đáng kể nhất của John Stuart Mill (1806 – 1873) – Bàn Về
Tự Do.
Nền dân chủ cổ đại trong mắt các nhà lập quốc
Hoa Kỳ: Quá nhiều khuyết điểm?
Thành bang Athens sống dưới một chế độ dân chủ cực đoan hóa từ năm
508 đến năm 322 trước Công Nguyên. Các định chế dân chủ vẫn được tiếp tục duy
trì và phát triển sau đó bởi các nhà nước mới sau này, nhưng đây mới là 186 năm
mà thành bang Hy Lạp được sống trong một nền dân chủ tự ý thức, quyết đoán,
thịnh vượng, nhưng cũng không kém phần hỗn loạn – thứ được các sử gia gọi là
“Nền Dân Chủ Athens” (Athenian Democracy).
Nền dân chủ này khác biệt hoàn toàn với những gì chúng ta biết đến ngày nay.
Nhà nước dân chủ kiểu hiện đại được chia ra thành nhiều nhánh kiểm
tra, giám sát; quyền công dân được giới hạn một cách có mức độ ở việc bầu chọn
ra người đại diện tại các nhánh quyền lực này – vốn là thành quả lý thuyết nhà
nước và pháp luât sau kỷ nguyên cách mạng dân chủ hiện đại. Nền dân chủ Athens,
ngược lại, thậm chí còn không phải là một nền cộng hòa.
Trong nền dân chủ Athens, khái niệm “Nhân dân tự quản” (People govern themselves) được thực
hiện thật sự trên nghĩa đen, nơi mà những công dân đủ tư cách bỏ phiếu (dĩ
nhiên, toàn nam giới và không bao gồm nô lệ) sẽ dùng lá phiếu của riêng
mỗi người trong số họ để bầu cho mọi quyết định, từ hành pháp đến tư pháp, từ
những việc to tát như quyết định tổ chức chiến tranh cho đến những công việc
hằng ngày như quy chuẩn dành cho việc đóng một con tàu. Mô hình này khá lý
tưởng với thứ “Công Xã” mà nhà triết học Karl Marx
từng mong muốn, nhưng cả mô hình dân chủ Athens và “Công Xã” đều có chung nhiều thiếu sót,
đó là sự hỗn loạn, kém tổ chức, thiếu tập trung chuyên môn. Cả hai mô
hình này đều đã sụp đổ vì những thiếu sót đó.
Nghiên cứu lịch sử cổ đại và những vấn đề mà nền dân chủ Athens
gặp phải, James Madison, một trong các nhà lập quốc Hoa Kỳ, đã cảnh báo về chủ
nghĩa dân chủ thuần túy (pure democracy)
vốn cũng tương tự như “Nhân dân tự quản”. Ông nhận thấy dân chủ kiểu Athens là
một nền dân chủ thất thường và ngắn ngủi, trong khi mô hình cộng hòa La Mã lại
tồn tại vững chãi và chắc chắn hơn. Một khai quốc công thần khác, John Adams,
nhận xét rằng “Dân chủ thuần túy không thế tồn tại lâu
dài”, trong khi nhà bác học Benjamin Franklin sau khi được hỏi rằng mô
hình chính thể nào là phù hợp với nhà nước Hoa Kỳ non trẻ, ông đáp ngắn gọn: “Nền Cộng Hòa, nếu anh có thể giữ nó được
lâu”. Cảm giác của giới tinh hoa và những nhà sáng lập nhà nước Hoa Kỳ tại
thời điểm đó có thể được mô tả hoàn hảo bởi câu nói của Alexis de Tocqueville:
“Nếu chúng ta thừa nhận rằng một cá nhân sở
hữu quyền lực tuyệt đối có thể lạm dụng quyền lực của mình để làm điều sai
trái, tại sao đám đông đa số không phải chịu sự đánh giá tương tự? Con người
không thay đổi bản chất của mình chỉ bởi vì họ tụ tập lại với nhau.”
Đây cũng chính là lý do mà nhà nước Hoa Kỳ được hình thành dưới
hình thức thể chế cộng hòa, có nền dân chủ được thực hiện bằng cơ chế đại diện,
hai cơ quan lập pháp với nhiệm kỳ ngắn cùng chức danh tổng thống quyền lực
nhiệm kỳ dài hơn và 9 vị thẩm phán có địa vị phục vụ trọn đời tại Tối Cao Pháp
Viện.
Với mô hình này, Hạ Viện và Thượng Viện bao gồm các
dân biểu và thượng nghĩ sỹ đại diện cho đám đông dân chúng luôn được thay
thế và làm mới thường xuyên mỗi hai hoặc ba năm, tạo điều kiện cho cộng
đồng xem xét, trao đổi lại các mục tiêu, quan điểm và thái độ chính trị của
mình trong các cuộc bầu cử địa phương.
Tổng Thống là người nắm giữ quyền hành pháp tối cao cũng do người
dân bầu chọn, song lại có nhiệm kỳ dài hơn để đảm bảo rằng ông ta có thể làm
việc một cách độc lập và được tham vấn, hơn là chỉ để đảm bảo những nguyện vọng
nhất thời vốn có thể phi thực tế.
Trong khi đó, những cái đầu lạnh tại Tối Cao Pháp Viện không có
quyền lực gì nhiều trong đời sống kinh tế xã hội của nhân dân, nhưng lại là
người trọng tài đáng tin cậy để bảo vệ các giá trị pháp lý nguyên thủy nếu hai
nhánh quyền lực còn lại vượt quá các định mức cho phép, vốn được vạch ra bởi
luật pháp và hiến pháp thành văn.
Điều này đảm bảo rằng mỗi cơ quan, cho dù đại diện cho quyền lực
nhân dân, không phải chịu áp lực tuyệt đối từ mong muốn nhất thời của một
đám đông nhân dân nào đó – nó được xem là một lời giải hoàn thiện thể chế dân
chủ mà người Mỹ luôn tìm kiếm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét