Luật sư Nguyễn Xuân Phước
Hiện sống tại Texas, Hoa Kỳ
Luật sư Nguyễn Xuân Phước từ Texas viết về bài học Triều Nguyễn và
xu hướng thân Trung Hoa đưa tới chỗ mất nước và so sánh với tình trạng lệ
thuộc tư tưởng ngày nay:
Năm 1802 Nguyễn
Ánh diệt được nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long và chọn Phú Xuân làm
kinh đô. Đến đời Minh Mạng cố đô Thăng Long đổi thành Hà Nội. Nhưng quá trình
thống nhất và sự sai lầm trong việc chọn lựa con đuờng phát triển đất nước ở
các triều đại nhà Nguyễn đã đánh mất cơ hội phục hưng tổ quốc, làm tiêu tán nội
lực dân tộc, dẫn đưa đất nước đến giai đoạn đánh mất nền độc lập.
Khi Nguyễn Ánh
phát động chiến tranh chống lại nhà Tây Sơn, ngài đã dựa vào hai thế lực ở nước
ngoài. Ðó là lực lượng của người Tây phương và lực lượng người Trung Hoa.
Đứng đầu lực
lượng Tây phương phò Nguyễn Ánh là đức giám mục Bá Ða Lộc. Nguyễn Ánh gặp giám
mục Bá Ða Lộc khi ngài bôn tẩu ở Vọng Các, kinh đô của Xiêm La, tức Thái Lan.
Từ đó, mối quan hệ của hai nguời trở nên mật thiết. Ðể vận động sự trợ giúp của
Pháp quốc, Nguyễn Ánh đã giao hoàng tử Cảnh lúc mới lên bốn cho giám mục Bá Ða
Lộc. Đồng thời giám mục có toàn quyền ký hiệp định với hoàng đế Pháp để giúp
cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn. Sau đó ông trở về Pháp để vận động viện trợ
cho Nguyễn Ánh. Ngài đã thay mặt Nguyễn Ánh ký hiệp ước 1787 dùng các đảo Côn
Sơn và các đảo ngoài khơi Đà Nẵng (là Hoàng Sa) để đổi lấy viện trợ quân sự.
Nhưng việc thi hành hiệp ước 1787 với Pháp thất bại.
Sau đó giám mục
Bá Ða Lộc đã bỏ tiền túi cũng như vận động tài chánh riêng để mua khí giới và
đưa sĩ quan Pháp về huấn luyện cho quân Nguyễn Ánh. Những người Pháp giúp cho
Nguyễn Ánh như Sạc Ne (Charner) và Sai Nhô (Chaigneau) đều được tham dự triều
chính của vua Gia Long khi ngài lên ngôi.
Chúng ta có thể
khẳng định rằng vua Gia Long là vị vua Á Châu đầu tiên biết xử dụng nhân tài
Tây Phương để phục vụ cho đất nước.
Hai phe đấu đá
Người đầu tiên chịu ảnh hưởng Tây phương
trong triều đình Gia Long là hoàng tử Cảnh. Hoàng tử Cảnh được vua cha Gia Long
cho theo đức giám mục Bá Ða Lộc từ lúc ông mới 4 tuổi. Ở tuổi thơ ấu này, hoàng
tử Cảnh rất dễ tiếp thu văn hoá và ngôn ngữ Tây phương. Có lẽ hoàng tử Cảnh là
vị hoàng tử Á Châu đầu tiên được theo Tây học ở cuối thế kỷ thứ 18. Tuy lịch sử
không nói nhiều đến cuộc đời của hoàng tử Cảnh, ngày nay chúng ta có thể suy
luận được rằng hoàng tử Cảnh là người tiếp cận văn hoá tây phương rất sớm,
thông thạo Pháp ngữ, Latin và có quan hệ rất tốt với Tây phương.
Ngoài ra, cánh
quân sự trong triều đình Gia Long là thành phần chịu ảnh hưởng của Tây phương.
Họ là những người trực tiếp xử dụng vũ khí của Tây phương. Đứng đầu cánh thân
Tây phương này là tả quân Lê Văn Duyệt cùng các tướng lãnh như tiền quân Nguyễn
Thành.
Phe thân Trung
Hoa là những người Minh Hương đã gia nhập lực lượng của Nguyẽn Ánh để chống Tây
Sơn. Người Minh Hương là những người Trung Hoa phục vụ cho nhà Minh xin tỵ nạn
chính trị tại Đại Việt khi nhà Thanh diệt nhà Minh. Những người Minh Hương
thoạt đầu là những người của tổ chức Thiên Địa Hội có ý chí phản Thanh phục
Minh.
Tuy nhiên từ
thời Khang Hy trở đi, nhà Thanh đã bắt đầu bị đồng hoá vào Trung Hoa và Khang
Hy bắt đầu những chính sách kinh tế, chính trị làm cho Trung Hoa càng ngày càng
phồn thịnh và phát huy văn hoá Trung Hoa lên cao độ. Do đó, ý chí phục Minh của
những người Minh Hương không còn nữa. Sau hơn 100 năm sống ở Đại Việt, những
người Hoa kiều nầy trở thành một bộ phận của dân tộc nhưng họ vẫn có những mối
quan hệ chặt chẽ với mẫu quốc Trung Hoa. Tại Việt Nam lúc bấy giờ người Minh
Hương trở thành một lực lượng có xu huớng thân Trung Hoa trong triều Gia Long.
Ðứng đầu lực
lượng nầy là Trịnh Hoài Ðức, Lê Quang Ðịnh và Ngô Nhơn Tịnh. Ba ngưòi nầy là
học trò xuất sắc của một nhà thâm nho gốc Minh Hương là Võ Trường Toản và cả ba
được người đương thời gọi là Gia Định Tam Hùng. Cả ba đều tham gia hoạt động
phò Nguyễn Ánh từ năm 1788.
Khi Gia Long lên
ngôi, Trịnh Hoài Ðức được bổ nhiệm làm thượng thư bộ lại kiêm bộ hình và phó
tổng tài Quốc Sử Quán. Lê Quang Ðịnh được làm Binh Bộ thượng thư, tương đương
với bộ trưởng quốc phòng ngày nay. Ngô Nhơn Tịnh sau được thăng Công Bộ thượng
thư. Cả ba ông đều đóng những vai trò quan trọng trong mối quan hệ ngoại giao
với Trung Hoa.
Nhưng vai trò
quan trọng nhất của Trịnh Hoài Ðức là được vua Gia Long ủy thác để dạy dỗ cho
hoàng tử Ðảm. Hoàng tử Ðảm sau lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng.
Hai xu hướng thân Tây phương và thân
Trung Hoa trong triều Gia Long xung đột gay gắt về vấn đề kế vị hoàng tử Cảnh
sau khi hoàng tử qua đời. Khi Trịnh Hoài Đức thuyết phục được Gia Long phế dòng
trưởng lập dòng thứ, vua Gia Long đã chọn Minh Mạng làm người kế vị. Khi Minh
Mạng lên ngôi, dưới ảnh hưởng của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn
Tịnh, Việt Nam đã nghiêng hẳn theo mô hình Nho giáo của Thanh triều (Thanh Nho)
để phát triển đất nước.
Sau khi phe thân
Trung Hoa tạo được ưu thế trong triều đình thì thanh trừng bắt đầu xuất hiện.
Tiền quân Nguyễn Thành, tổng trấn Bắc Thành, đã bị gièm pha đến phải uống thuốc
độc tự vẫn thời Gia Long. Sau khi lên ngôi, Minh Mạng (1820-1840) triệt hạ dòng
dõi của hoàng tử Cảnh bằng cách xử tử vợ và người con trưởng của hoàng tử Cảnh,
giáng ngưòi con thứ làm thường dân.
Đối với Lê Văn
Duyệt, Minh Mạng chưa dám làm gì và vẫn cho làm tổng trấn Gia Định Thành. Khi
Minh Mạng ban hành lệnh cấm đạo thì Lê Văn Duyệt tại Gia Định vẫn chủ trương
thân Tây phương và không thực hiện lệnh cấm đạo. Khi Lê Văn Duyệt qua đời, con
nuôi là Lê Văn Khôi nổi dậy chống triều đình với sự giúp đỡ của một số người
Tây phương trong đó có một linh mục Công giáo. Khi cuộc nổi loạn của Lê Văn
Khôi bị dẹp tan thì Minh Mạng mới kết án Lê Văn Duyệt, tước hết các chức vụ và
cho xiềng lăng của ông bằng xích sắt.
Về phương diện
ngoại giao, Minh Mạng cho giảm dần quan hệ với Tây phương. Những ngườì Pháp làm
việc với Gia Long chán nản bỏ về nước. Với những người Minh Hương thân Trung
Hoa cầm nắm vận mạng của triều đình, Minh Mạng đã thi hành một loạt các chính
sách ngoại giao đi ngược với đưòng lối của Gia Long. Từ một nền chính trị ngoại
giao khai phóng của Gia Long với những quan hệ rộng rãi với các quốc gia trên
thế giới, Minh Mạng và các vua kế vị Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức
(1848-1883) cùng triều đình thân Trung Hoa đã bắt đầu một nền chính trị cục bộ,
thiển cận với chính sách bế môn toả cảng, đoạn tuyệt với Tây phương, ban hành
lệnh cấm đạo.
Mê văn chương xao nhãng quân sự
Do ảnh hưởng của Thanh Nho, triều đình
nhà Nguyễn từ Minh Mạng trở đi chỉ chú trọng đến văn chương thi phú biền ngẫu,
đi theo con đường trọng văn và xao lãng vấn đề quân sự và quốc phòng.
Ðây là lý do,
sau khi Gia Long băng hà, sức mạnh quân sự của triều Nguyễn suy giảm hẳn. Khi các
tướng lãnh thuộc thế hệ Gia Long qua đời, các tướng lãnh thế hệ kế thừa không
đủ tài thao lược để thực hiện chính sách quốc phòng hữu hiệu.
Lực lượng quân
sự của Trương Minh Giảng không đủ khả năng duy trì guồng máy cai trị ở Nam
Vang. Và Trương Minh Giảng đã bị người Miên đánh đuổi về nước dưới triều Thiệu
Trị.
Đến thời kỳ Tự
Đức, xu hướng thân Trung Hoa hoàn toàn nắm trọn quyền trong triều đình. Sự kiện
này được xác định khi triều đình họp nhau bác bỏ bản điều trần canh tân đất
nước của Nguyẽn Trường Tộ. Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một nho sĩ theo đạo
Thiên Chúa. Ông nổi tiếng thông minh và hay chữ, được người đời gọi là Trạng
Tộ. Ông cũng thông thạo nhiều ngôn ngữ Tây phương.
Ông làm thông
ngôn cho các giáo sĩ Thiên Chuá trong việc truyền đạo tại Việt Nam. Sau một
thời gian đi chu du thế giới, đặc biệt là Pháp và Ý, ông trở về Việt Nam dành
mấy năm trời đem tâm huyết của một người yêu nước viết nhiều bản điều trần cải
cách và canh tân đất nước dâng lên Tự Đức. Nhưng triều đình Tự Đức với đầu óc cổ
hủ của Thanh Nho không đủ tầm nhìn để hiểu được những thế lớn đang bùng ra
trong thiên hạ thời bấy giờ. Sau hoàng tử Cảnh năm mươi năm, Việt Nam đã mất đi
cơ hội phát triển một lần nữa khi triều đình nhà Nguyễn quay mặt trưóc những
yêu cầu canh tân của Nguyễn Trường Tộ.
Điều bất hạnh hơn cho dân tộc là lúc ấy
giáo điều Thanh Nho đã bắt đầu rã mục. Triều đình nhà Thanh đang trên đà phá
sản. Năm 1839 chiến tranh Nha Phiến bùng nổ, nhà Thanh phải ký các hiệp ước
biên giới nhượng đất cho Anh và Pháp. Với hiệp ước Nam Kinh, Anh chính thức
chiếm đóng Hương Cảng năm 1842.
Với hiệp ước
Hoàng Phố 1844, Pháp chính thức đặt chân lên lãnh địa Trung Hoa. Ở mạn bắc, năm
1850 quân đội của Nga Hoàng tràn xuống Hắc Long Giang chiếm đóng Mãn Châu, quê
hương của nhà Thanh. Từ 1854 đến 1860, Hồng Tú Toàn và phong trào Thái Bình
Thiên Quốc đã chiếm gần một nửa Trung Hoa. Cuối cùng, cuộc cách mạng Tân Hợi
1911 của phong trào cách mạng Quốc Dân Đảng dưới sự lãnh đạo của Tôn Văn đã lật
đổ triều đình phong kiến Mãn Thanh để xây dựng chế độ Cộng Hoà.
Trong khi đó,
triều đình nhà Nguyễn vẫn còn như mơ ngủ. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ năm 1860,
tức là 20 năm sau khi nhà Thanh bị liệt cường xâu xé và đang dãy chết, triều
đình Tự Đức vẫn còn cho người sang Trung Hoa cầu viện. Những tiếng nói đòi cải
cách của các sĩ phu yêu nước như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch
trở thành nổi trăn trở kéo dài hàng thế kỷ của nhiều thế hệ.
Ý hệ Thanh Nho
làm triều đình nhà Nguyễn u mê đến nổi không thấy được một thế giới mới đang ra
đời với cuộc cách mạng kỹ nghệ đang đẩy xã hội Tây phương lên đỉnh cao của sự
phát triển. Và cuộc cách mạng kỹ nghệ đó làm thay đổi cục diện thế giới, cùng
lúc làm thay đổi lịch sử nước Việt.
Khi Pháp tấn
công Nam Kỳ thì triều đình hoàn toàn không có đủ năng lực quân sự và chiến lược
quốc phòng để đối phó. Những võ tướng uy tín trong triều như Nguyễn Tri Phương,
Phan Thanh Giản (cũng gốc người Minh Hương) dù thừa khí phách của nho gia nhưng
không đủ tài thao lược quân sự để lãnh đạo cuộc chiến tranh chống xâm lược. Khi
Pháp chiếm Sài Gòn thì súng ống và đạn dược của quan quân Triều đình có rất
nhiều nhưng quân đội ô hợp không có khả năng chống trả quân xâm lăng. Hậu quả
tất nhiên là đất nước đã mất vào tay thực dân.
Với Hoà Ước Nhâm Tuất 1862 và hoà ước
Patenôtre 1884, công cuộc thống nhất đất nước của Gia Long được coi như cáo
chung. Việt Nam bước qua trang sử mới, đó là trang sử nô lệ. Và sau 1000 năm
giành được độc lập từ Trung Hoa thời Ngô Quyền, nước Đại Việt lại một lần nữa
mất quyền tự chủ.
Cái nhục mất
nước, tụt hậu của dân tộc Đại Việt ở thế kỷ 19 phát xuất từ nhiều yếu tố lịch
sử khác nhau.
Thế nhưng sự
chọn lựa mô hình phát triển đất nước, sự ỷ dốc vào Thanh triều trên mặt trận
ngoại giao và văn hoá thời kỳ hậu Gia Long, chính sách giao thương phụ thuộc
kinh tế Trung Hoa và sự tin tưởng mù quáng vào giáo điều Thanh Nho bất chấp các
bản điều trần yêu cầu canh tân của các sĩ phu tiến bộ, là những yếu tố quyết
định đưa đất nước vào giai đoạn nô lệ.
Ngày nay, nếu
thay giao điều Thanh Nho bằng giáo điều Cộng sản, thì tình trạng Việt Nam gần
như tương tự.
Bài thể hiện quan điểm riêng
của Luật sư Nguyễn Xuân Phước và đã được đăng trên Tuần san Trẻ Dallas, Texas,
Hoa Kỳ. Tác giả qua thân hữu gửi đến Diễn đàn BBC Tiếng Việt.