Nguyễn Minh Đức
Khi học luật ở Việt Nam, tôi vẫn được
các giáo viên dạy: Ở các nước theo truyền thống common law thì án lệ là một
nguồn của pháp luật, còn ở Việt Nam thì chúng ta không công
nhận điều này.
Khi tôi đi học luật tại một quốc
gia common law, tôi có tranh luận vấn đề này với một vị giáo sư người Mỹ: “Tại
sao Hoa Kỳ lại coi án lệ là một nguồn của pháp luật?” Ông ấy trả lời: “Thực ra
chẳng có văn bản chính thức nào của nước Mỹ coi án lệ là nguồn của pháp luật,
từ Hiến pháp cho đến tất cả các luật khác. Nhưng chúng tôi vẫn căn cứ vào án lệ
để xét xử là bởi nguyên tắc stare
decisis.”
Nguyên tắc stare decisis thì dân luật chúng tôi ai cũng hiểu,
đó là việc các vụ án giống nhau thì tòa phải phán xét giống nhau. Ví dụ, trong
vụ việc trước, tòa án công nhận một hợp đồng viết qua email là có hiệu lực. Nếu
sau này gặp một vụ việc khác tương tự như vậy, tòa án buộc phải coi hợp đồng
viết qua email là có hiệu lực.
Ông giáo sư nói: “Nguyên tắc này rất
hiển nhiên”. Nếu hai vụ án giống nhau mà tòa án xét xử khác nhau thì tòa án trở
nên tùy tiện, muốn xét xử thế nào cũng được. Hệ quả là, pháp luật trở nên hỗn
loạn. Nếu tòa án muốn xét xử vụ việc sau khác đi, tòa sẽ phải làm một trong hai
việc: (1) tòa phải chỉ ra và giải thích sự khác biệt căn bản của 2 vụ việc dẫn
đến kết quả xét xử khác nhau; hoặc (2) đưa vụ việc lên tòa án cấp trên. Tòa án
cấp dưới bị ràng buộc bởi các bản án trước đó của mình và của tòa cấp trên,
trong khi tòa cấp trên chỉ bị ràng buộc bởi bản án của chính mình, chứ không bị
ràng buộc bởi bản án của tòa cấp dưới. Riêng tòa án tối cao thì không bị ràng
buộc.
Về Việt Nam làm việc trong lĩnh vực pháp
luật, tôi được nghe một vị thẩm phán tâm sự. Trong một vụ án, ông được Chánh án
chỉ đạo là phải xét xử cho bên nguyên thắng kiện. Ông đã đồng tình và làm theo.
Sau đó ít lâu, ông được phân công xét xử một vụ việc khác có nội dung hoàn toàn
tương tự với vụ việc trước, nhưng lần này được Chánh án chỉ đạo là xử cho bên
bị thắng kiện. Vị thẩm phán này thấy nếu làm như vậy thì mình là người tiền hậu
bất nhất nên đã cáo ốm để khỏi phải nhận vụ việc này.
Câu chuyện để lại cho tôi nhiều suy
nghĩ, bởi số lượng thẩm phán hành xử một cách có liêm sỉ như vị thẩm phán trên
rất ít. Chuyện các thẩm phán “tiền hậu bất nhất” diễn ra khá phổ biến.
Trong một cuộc trò chuyện khác, tôi ngồi
với một thẩm phán người Pháp, một đất nước theo truyền thống civil law.
Tôi hỏi: “Ở Pháp không có nguyên tắc stare
decisis cứng nhắc như ở Mỹ,
vậy có khi nào thẩm phán xét xử vụ việc sau tương tự nhưng lại phán quyết khác
vụ việc trước đó không?” Vị thẩm phán đó trả lời: “Ở Pháp, các vụ án trước đó
chia thành 2 loại. Một số bản án được công nhận và tất cả các thẩm phán sau này
buộc phải tuân theo. Còn các bản án khác thì không bắt buộc như vậy.”
Vị thẩm phán đó nói tiếp: “Nhưng trên
thực tế, dù không bắt buộc nhưng việc phán quyết khác đi là vô cùng hiếm. Bởi
nếu làm như vậy, vị thẩm phán đó sẽ phải giải trình rất rõ lý do, nếu giải
trình không thuyết phục thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ không được tiếp tục làm
thẩm phán.”
Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Cải
cách tư pháp, Luật Tổ chức tòa án 2014 đã khẳng định Việt Nam sẽ đi theo mô
hình của Pháp. Tòa án tối cao sẽ lựa chọn một số bản án và biến nó trở thành
tiền lệ bắt buộc áp dụng.
Nhưng điều tôi lo lắng không phải ở số
đó, mà chính là ở số còn lại. Nếu các bản án không được tập hợp và công khai
trong một cơ sở dữ liệu chung, nếu thẩm phán không viết rõ lập luận của mình
trong bản án, và nếu không có cơ chế chịu trách nhiệm khi thẩm phán “tiền hậu
bất nhất” thì những câu chuyện như của vị thẩm phán còn liêm sỉ trên vẫn chỉ là
chuyện hiếm gặp.
Hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn sẽ hỗn
loạn.
Tác giả Nguyễn Minh Đức là một luật gia đang làm việc tại Ban Pháp chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI) tại Hà Nội. Ông phụ trách công tác góp ý cho các dự thảo văn bản
pháp luật mà các cơ quan soạn thảo tham vấn VCCI.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét