-
Chiêm Thành xưa là đất Việt Thường, cho nên vua Gia Long trong lúc cầu phong với
nhà Thanh, đã viết: "Ngay từ thời lập quốc, lãnh thổ của Tổ tiên ta bao gồm
cả vùng đất Việt Thường". Căn cứ vào sử Trung Hoa, vùng này đời Tần gọi là
Lâm Ap, thuộc Tượng Quận. Đời Hán đổi thành huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật
Nam của Van Lang, lúc đó đã bị người
Tàu cưởng chiếm và đô hộ, sau khi tiêu diệt nhà Triệu của người Việt. Năm thứ 2
Vĩnh Hòa Hậu Hán, vua Thuận Đế, có viên công tào trong huyện tên Au Lân, nổi
lên giết quan huyện, chiếm xứ này, tự xưng làm vua Lâm Ap. Đến đời nhà Tuỳ chiếm
lại đất này, cải thành Sung Châu rồi lại đổi thành Lâm Ap như cũ, thống hạt 4
huyện: Tượng Phố, Kim Sơn, Giao Giang và Nam Cực. Cuối đời Trinh Nguyên nhà Đường
(785) bỏ hẳn.
Cũng
theo Trung Hoa sử, đời Đại Đường có xứ Việt Thường ở Nam di, qua triều cống một con rùa thần đã được 1000 tuổi, lưng rộng trên 3
thước, trên có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua
sai chép lấy và gọi là lịch rùa. Bùi Dương Lịch (1757-1828) có viết cuốn Nghệ
An ký, đề cập tới đất Việt Thường nhưng biên giới thì từ phía bắc Thanh Hóa tới
đèo Hải Vân. Tác phẩm trên cũng cho chúng ta nhiều ý niệm lịch sử có trước các
thời vua Hùng dựng nước Văn Lang, sống theo chế độ du mục, thì ở Việt Thường Thị
đã có chữ viết.
Vào
khoảng thế kỷ thứ 7 trước tây lịch, các vua Hùng đã sáp nhập miền Bắc Việt và một
phần Việt Thường Thị vào Văn Lang. Riêng phần đất còn lại từ đèo Ngang ở phía
nam Hà Tỉnh về sau thuộc nước Chiêm Thành. Vào thế kỷ thứ 11 sau TL, vua Chiêm
Thành là Chế Củ thua trận, đã dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (Quảng Bỉnh-Quảng
Trị) cho vua Lý Thánh Tông để chuộc mạng. Đến thế kỷ thứ 14, vua Chế Mân dâng 2
châu Ô và Lý (Quảng Trị-Thừa Thiên) cho vua Trần Anh Tôn để cưới Huyền Trân
công chúa. Như vậy sau bao thế kỷ chia phân, toàn bộ Việt Thường Thị lại trở về
với Đại Việt.
Tóm lại xưa nay ai cũng đồng chung quan điểm là nước
Chiêm Thành ra đời từ đầu thế kỷ thứ 2 sau TL và tồn tại tới năm 1693 thì bị diệt
vong. Về lãnh thổ, thì hầu hết các nguồn tài liệu đều nói nước Chiêm Thành nằm
trên duyên hải miền Trung Việt Nam, phiá bắc từ Đèo Ngang vào tới Bình Tuy ngày
nay. Tuy nhiên cũng có tác giả cho rằng vương quốc Chiêm Thành, bao trùm cả
vùng duyên hải lẫn cao nguyên Trung Phần, vậy đâu là sự thật?
1-RANH
GIỚI NƯỚC CHIÊM THÀNH:
Trong suốt chiều dài lịch sử, hầu như biên giới giữa
Việt-Chiêm không bao giờ cố định vì chiến tranh triền miên giữa hai nước. Và cứ
mỗi lần như thế, thì biên giới lại thay đổi cho tới năm 1471, lần đầu tiên vua
Lê Thánh Tôn mới cho dựng bia đá trên núi Thạch Bị (đèo Cả, giữa Phú Yên -Khánh
Hòa), từ đó ít ra trên giấy tờ mới thấy có sự minh định. Với người Chàm, thực tế
chưa bao giờ có một ý niệm ranh giới đối với các lân bang. Theo quan niệm của đạo
Bà La Môn, rồi sau này là Hồi Giáo thì nước Chiêm Thành, được coi như là một tập
hợp giữa các làng và biên giới nước, được tính từ khoảng không gian giữa kinh
đô tới tận các làng mạc xa nhất của người Chàm. Quan niệm cổ này, mãi tới những
năm 1955-1975, vẫn được Chính Phủ VNCH cho áp dụng khi tổ chức hành chánh quận
Phan Lý Chàm của tỉnh Bình Thuận.
Chúng ta biết người Chiêm suốt dọc dài lịch sử, phần
lớn làng mạc chỉ tụ tập ở châu thổ các sông ngòi và các hải cảng, nên đa số đất
bị bỏ hoang thành rừng. Điểm này, vua chúa Chiêm Thành lại đem yếu tố tín ngưỡng
ra áp dụng để thay thế cho các minh định theo điều kiện kinh tế hay quân sự.
Cho nên nói lãnh thổ Chiêm Thành chạy dài tới tận Bình Tuy, vì ở cực nam này vẫn
có một số làng Chàm sinh sống tại Phố Châm, Phố Hải, trong khi gần cả trăm cây
số từ Đồ Bàn vào Khánh Hòa hay từ Phan Rang vào Phan Thiết, đều là rừng núi
hoang vu không có bước chân người, nên mới phát sinh câu tục ngữ truyền khẩu
"cọp Phú Yên-Khánh Hòa, ma Bình Thuận " là vậy.
Tóm lại chỉ có dân bản địa và triều đình mới hiểu
đâu là ranh giới của làng mình, vì nó chỉ có tên gọi nhưng không có trong bản đồ
và văn kiện. Theo truyền khẩu, thì vua Chàm là chúa tể sơn hà hay Po-tana-raya, chủ nhân ông tất cả mọi thứ trong nước, dù thực tế chỉ có
quyền hạn, tại các làng mạc cùng chung tín ngưởng. Đó là sự bất di bất dịch
không ai có quyền xâm phạm vì đã được thần linh xác nhận qua trung gian của đồng
cốt. Do trên khi gây chiến tranh, người Chiêm biện lý rằng đó là quyết định của
thần linh, chứ không phải là xâm lược. Cũng do cái ý niệm thiêng liêng như vậy,
mà mỗi cá nhân phải có bổn phận gán liền đời mình với mảnh đất quê hương, để
không bị làm con ma trơi bất hạnh khi phải chết ngoài làng mình. Sự ràng buộc
khiến người Chiêm không muốn xuất ngoại, nên dù đã vong quốc, sống trong một tổ
quốc khác, nhiều người Chiêm Thành cứ tiếp tục cho là mình vẫn lệ thuộc vào
chính trị và hành chánh của quốc gia . Quan niệm này tới khi VN hoàn toàn bị Cọng
sản đệ tam quốc tế đô hộ, có một số ít người Chàm bị nguy hại tới tính mạng, vì
liên hệ với Chính phủ Quốc Gia VN, nên mơi chịu bỏ xóm làng của mình mà vượt biển
hay tới nước ngoài, tìm tự do.
Dựa theo tài liệu từ lịch sử Đông Nam Á của
D.G.E.Hall, ta biết bán đảo Đông Dương từ thời huyền sử mịt mù, đã có nhiều giống
người từ mọi nơi di dân tới. Cho nên ngay cả người Việt, ngày nay khi đi tìm
nguồn gốc của chính mình, cũng chỉ là những ước đoán, thì nói chi tới các sắc tộc
đã và đang sống tại đó. Tuy nhiên qua thời gian dài, nhờ các phuơng pháp khảo cổ,
đã giúp cho các nhà nhân chủng học, tìm được ít nhiều khoen nối trong sự liên hệ
của các dân tộc đang sinh sống trên bán đảo AnĐộ-China.
Cũng theo các nguồn tài liệu từ nhân chủng học và
sử liệu, thì nguồn gốc các sắc tộc tại Đông Dương, kể cả Việt Nam, bắt đầu từ
cuộc thiên di của hai giống thổ dân Mélanésien tại các hải đảo nam Thái Bình
Dương. Sau đó là cuộc thiên di thứ hai của sắc dân Indonésien, từ phía đông Địa
Trung Hải và Thổ Nhĩ Kỳ, tới An Độ nhưng bị dân bản xứ Aryens đánh đuổi, nên lại
di cư về phía đông, tới Nam Dương, Mã Lai và một nhóm khác vào Đông Dương. Nhiều
cuộc đụng độ liên tục xảy ra hằng chục thế kỷ, giữa hai nhóm thiên di trên. Cuối
cùng người Mélanésien yếu hơn nên số lớn bỏ duyên hải và miền đồng bằng chạy
lên cao nguyên, số còn lại, bị đồng hóa với người Indonésien, thành những người
cổ Việt ở phương Bắc và người Chiêm Thành tại nam phương.
Riêng thổ ngữ thì có hai nguồn chính là
Malayo-Polynésien, được người Chàm, Rhadé, Djarai, Roglai, Churu, Haroi,M'dhur
xử dụng, ngôn ngữ Môn-Khmer, tại VN được sử dụng từ người Mường, Sédang,
M'Nông, Koho.
Theo các tài liệu trưng dẫn từ Essai d'histoire
des populations montagnardes Sud Indochinois của B.Bourotte và quyển Sơ lược
chính sách Thượng vụ trong lịch sử VN của P.Nur, đều có nói tới hai nước Phù
Nam và Lâm Ap. Phù Nam khởi sự chiếm đồng bằng sông Cửu Long từ đệ nhất thế kỷ
sau TL., do một người An Độ theo Bà La Môn tên Hun Chen, đời vua Kaun Dinya.
Sau đó Phù Nam được mở rộng tới Chân Lạp, Xiêm La, Mã Lai và một phần Lào cùng
hai châu Kauthara (Khánh Hòa) và Panduranga (Bình Thuận).Từ đó nền văn minh An
Độ được các nhà vua Phù Nam mang vào các phần đất trên. Phù Nam bị Chân Lạp
thôn tính vào thế kỷ thứ VII. Riêng hai châu cực đông bắc là Kauthara và
Panduranga, (Khánh Hòa - Ninh Bình Thuận), bị người Chiêm sáp nhập vào lãnh thổ
của họ.
Đồng thời với sự thành lập của Phù Nam, một số
thương buôn An Độ khác ở Nam Dương-Mã Lai cũng đổ bộ lên chiếm miền duyên hải
Trung Phần. Trong tài liệu cổ của nhà thiên văn học Hy Lạp là Ptolémé có dùng
chữ Phạn Lin-Yi để nhắc tới miền duyên hải VN trong cuốn địa lý của ông ta. Còn
Nguyễn Khắc Ngữ trong tác phẩm Mẫu Hệ Chàm cũng căn cứ vào tài liệu của
Ptolémé, khẳng định nước Lâm Ap hay Chiêm Thành đã có mặt vào những thế kỷ đầu
tiên sau tây lịch, từ quận Nhật Nam vào tới biên giới Phù Nam. Người Chiêm
Thành cùng sắc tộc với người Mã Lai, theo tôn giáo và chính trị An Độ, là một
quốc gia cường thịnh và hùng mạnh thời ấy. Tóm lại lịch sử của Chiêm Thành hầu
hết là những trang chiến sử, chẳng những liên tục đánh nhau với Tàu, Đại Việt,
Lào, Phù Nam và Chân Lạp, mà họ còn ỷ mạnh đàn áp các bộ tộc cao nguyên, khởi sự
từ đời vua Phạm Văn. Nhiều trận đại chiến đã xảy ra giữa Chiêm, Phù Nam, Chân Lạp,
Mạ và hai vua Nước - Lửa, lúc đó đang là chúa tể cai trị cả vùng Cao nguyên Trung
Phần ngày nay.
Diện tích VN từ thời nhà Nguyễn đến nay vẫn không
thay đổi bao nhiêu, rộng 331.000 km2, chia ra Bắc phần 115.700km2, Trung phần
bao gồn vùng duyên hải, dãy Trường Sơn và cao nguyên phía nam, từ Thanh Hóa vào
tới giáp ranh tỉnh Biên Hòa là 147.600 km2 và Nam phần 67.700km2. Như vậy nước
Chiêm Thành buổi đó, từ nam đèo Ngang vào tới Bình Tuy, đất đai xét cho cùng chẳng
có bao nhiêu. Riêng cao nguyên Nam Trung phần, nằm giữa vĩ tuyến 11 độ - 15 độ
30 bắc và kinh tuyến 105 độ 30, chạy dài từ bắc xuống nam trên 450 km và đông
sang tây 150km, diện tích chừng 65.000 km2, nằm trong tứ giác giới hạn bởi sông
Bùng (Quảng Nam), biên giới Việt-Lào-Miên và các con sông Đồng Nai-Sài Gòn. Dãy
Trường Sơn chạy từ sông Mã tới sông Búng, phần còn lại tức cao nguyên Nam Trung
Phần.
Từ năm 939 sau tây lịch, Đại đế Ngô Vương Quyền
chém đầu thái tử Hoàng Thao trên Bạch Đằng Giang, đuổi quân Nam Hán chạy về
Tàu, chấm dứt vĩnh viễn 1000 năm Bắc thuộc, mở đầu nền độc lập cho dân tộc Hồng
Lạc và nước Đại Việt. Cũng từ đó, công cuộc nam tiến mới được các nhà Hậu Lý,
Trần, Hậu Lê và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong liên tục trên 600 năm, mới thành tựu.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tôn lấy ba châu Địa Lý, Ma
Linh, Bố Chánh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình và một phần Quảng Trị). Năm 1306 vua
Chiêm Chế Mân dâng Ô và Lý cưới Huyền Trân. Hai châu này được đổi thành châu
Thuận và Hóa, gồm một phần Quảng Trị và Thừa Thiên). Năm 1402 Hồ Quý Ly chiếm
Ba Động và Cổ Lũy (Quảng Nam-Quảng Ngãi). Năm 1470 Vua Lê Thánh Tôn chiếm kinh
đô Chà Bàn và đem sáp nhập vào Cổ Lũy. Năm 1611 Chúa Nguyễn Hoàng chiếm Phú
Yên. Năm 1653 Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chiếm Khánh Hòa. Năm 1693 chúa Nguyễn
Phúc Chu chiếm Phan Rang và Phan Rí, từ đó nước Chiêm Thành mất hẳn.
Tóm lại phải mất sáu thế kỷ máu xương, Đại Việt mới
thu hồi được miền duyên hải Trung phần của Văn Lang, mà những người An từ Mã
Lai, Nam Dương tới đánh chiếm của dân bản địa Mélano-Polynésiên. Trong suốt thời
gian chiến tranh dai dẳng giữa Việt-Chiêm-Phù Nam-Chân Lạp, các bộ tộc ở cao
nguyên Trung Phần cũng bị hoạ lây vì chiến nạn từ người Chàm. Năm 1149 vua
Chiêm Harivarman đệ I, sau khi đánh đuổi được Chân Lạp dành lại nước, thừa thắng
tấn công các Kirata tại cao nguyên, lúc đó do Vamcaraja làm thủ lãnh, phải sang
cầu cứu vua Lý Anh Tôn vào năm 1150 nhưng cuối cùng liên quân Đại Việt và các bộ
tộc vẫn không chống nổi với quân Chiêm, nên một phần miền cao nguyên phải thần
phục Chiêm Thành cho tới năm 1471 vua Lê Thánh Tôn mới giải phóng hoàn toàn ách
đô hộ của Chiêm Thành cho các bộ tộc.
Trong gần 300 làm chủ cao nguyên, người Chàm còn để
lại nhiều di tích như các tháp Yan Mun, Dranglai ở gần Cheo Reo (Phú Bổn), tháp
và tường thành Eahleo ở Bản Đôn (Darlac) và nhiều Rasung Batau (thùng dùng tắm
rửa theo nghi thức tôn giáo) ở Ban Mê Thuột, Keudeu, Meteung, Kontum. Theo
Henri Maitre trong Jungles Moi, thì sau khi chiến thắng Chiêm Thành, những quan
chức và quân sĩ Chàm từ cao nguyên đã rút về Khánh Hòa, còn triều đình nhà Lê
chỉ ấn định một đường ranh giới, phân chia Kinh-Thượng mà thôi.
Cũng dựa theo sử liệu, hiện nay có hai giả thuyết
nói về biên giới của Chiêm Thành. Thuyết thứ 1 của A.Bergaigne, E.Aymonier,
L.Pelliot là những nhà nghiên cứu Pháp thế kỷ XIX và XX, cho rằng lãnh thổ
Chiêm Thành gồm duyên hải và cao nguyên Trung Phần, từ Quảng Bình vào tới Bình
Thuân. Giả thuyết trên đã bị các nhà nhân chủng học đánh đổ vào hậu bán thế kỷ
XX. Thuyết thứ 2 của một nhóm giáo sư Pháp, thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học
Ba Lê, thực hiện vào năm 1975. Nhóm này căn cứ vào các văn bía viết bằng chữ Phạn
cũng như những di tích của người Chàm còn lưu lại trên các vùng đất mà họ có mặt.
Tóm lại thuyết này chẳng những đồng ý lãnh thổ
Chiêm Thành bao trùm cả duyên hải lẫn cao nguyên Trung phần, mà còn chứng minh
người Chiêm Thành không phải chỉ có người Chàm, mà còn bao gồm nhiều sắc tộc
khác tại cao nguyên. Để biện minh lập luận trên, nhà nghiên cứu đưa vua Po Ramo
người Churu, đã làm vua Chiêm Thành từ 1627-1651 và còn đi xa hơn khi nói dòng
họ này tiếp tục làm vua qua 14 đời, tới năm 1786 mới chấm dứt, trong khi nước
Chiêm Thành thật sự đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới năm 1693.
Tất cả những giả thuyết trên ngày nay cũng chẳng
có gì mới lạ, khi chúng ta được đọc những sử liệu của Trung Hoa, Chân Lạp và Đại
Việt, viết về lịch sử Chiêm Thành, trong khi những nhà nghiên cứu không nói rõ
về xuất xứ của những di tích Chàm còn để lại ở Phù Nam, Chân Lạp hay Lào qua
các cuộc chiến dành qua kéo lại và trên hết là một phần cao nguyên bị đô hộ bởi
người Chàm trên 300 năm. Đại uý người Pháp là Doudart de Lagrée, trong phái
đoàn thám hiểm sông Cửu Long, từ đất Miên vào năm 1866, đã nói thật chí lý
"không ai có thể biết được biên giới nước Chiêm Thành như thế nào, nhưng
chúng ta có thể định vị bằng niên lịch, vì chúng thay đổi theo từng giai đoạn.
Tuy người Chàm không lưu lại các tác phẩm lịch sử,
nhưng ngày nay nhờ có viện bảo tàng cổ vật Chiêm Thành, được xây dựng từ năm
1915 ở thành phố Đà Nẵng, với nhiều tác phẩm nghệ thuật và điêu khắc của người
Chiêm, có thể gần như liên tục từ thế kỷ thứ VII tới thế kỷ thứ XV, cho chúng
ta những ấn tượng về một dòng lịch sử của một dân tộc hùng cường trong quá khứ.
Bảo tàng này được thành lập dưới sự bảo trợ của Trường Viễn Đông bác cổ, qua
thu thập được nhiều tác phẩm của người Chàm còn lại, từ Quảng Bình vào tới Bình
Định, cho tới cuối thế kỷ thứ XIX. Viện nằm trên bờ sông Hàn, được thiết kế bởi
hai kiến trúc sư người Pháp là Delaval và Auclair, theo những mô hình đền tháp
của người Chàm.
Từ năm 1935, bảo tàng phát triển mạnh, nhờ những
khai quật của nhà khảo cổ J.Y.Clacys tại Trà Kiệu, Quảng Nam năm1927-1928 và tại
Tháp Mẫm, Chà Bàn, Bình Định năm 1932.
Đến thăm viện bảo tàng, để tìm lại những dấu ấn của
lịch sử một dân tộc, qua quá trình tám thế kỷ của nền điêu khắc. Trong sự tĩnh
mịch u trầm của cổ vật nhưng là tất cả lộ trình từ buổi vàng son dựng nước, cho
tới hồi chiến bại điêu tàn. Tất cả những tài năng của người nghệ sĩ, cho ta cảm
nhận khát vọng đạp đổ sự hiện hữu tầm thường về vận mệnh của một dân tộc, để tiến
tới cái vô ngã vô hình trong cõi trời đất u minh, không không có có. Ở đây, đá
đã sống hết đời của đá qua những trăm năm xa tít mịt mờ, như sự bộc lộ lạnh
lùng, ray rứt của pho tượng Siva tạc theo phong cách Yang Mum, tìm thấy tại
Kontum. Đây là tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của nền điêu khắc Chàm, đánh dấu
niên lịch thế kỷ XVII-XVIII, là giai đoạn tan rã của giai cấp quí tộc Chàm, kéo
theo sự mất nước.
2-CHIÊM
THÀNH TỰ LÀM VONG QUỐC:
Dù viết gì chăng nữa, thì nước Chiêm Thành suốt
dòng lịch sử, đã chắc chắn có một lãnh thổ gồm các châu Bố Chính, Địa Lý, Ma
Linh, Châu Ô và Châu Lý (nay thuộc các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên). Vùng Amaravati với kinh đô Indrapura (Đồng Dương) cùng các thánh tích nổi
tiếng tại Mỹ Sơn và Trà Kiệu (Simhapura). Miền này nay thuộc Quảng Nam và Quảng
Ngãi. Vùng Vijaya với kinh đô Chà Bàn, nay là tỉnh Bình Định. Vùng Kauthara có
thánh tích Po Nagar (Tháp Bà), nay là Khánh Hòa. Châu cuối là Panduranga, bao gồm
hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận
Người Chiêm Thành lập quốc hơn 17 thế kỷ, có một nền
văn minh khá cao, nghệ thuật điêu khắc coi như gần tiến tới trình độ toàn hảo.
Trong nước có nhiều thức giả thông thạo Phạn ngữ, lại có chữ viết riêng biệt. Vậy
tại sao nước này không có một nền giáo dục phổ thông, không có tác phẩm sử học,
không bao giờ mở các kỳ thi tuyển nhân tài và không cho sản xuất giấy. Bởi vì tất
cả quyền lực trong nước đều là độc quyền của một nhóm thiểu số, thuộc giai cấp
quý tộc và tăng lữ Bà La Môn cùng Hồi giáo nắm giữ. Ở đây không nói tới nhóm sắc
tộc bị trị tại cao nguyên Trung phần từ năm 1150-1471, mà chỉ đề cập tới người
Chàm, là sắc dân chính thống của vương quốc sống dọc vùng duyên hải. Do tính chất
đa sắc tộc và trở ngại địa lý, nên nước Chiêm Thành gần như không bao giờ thực
hiện được trọn vẹn chính sách trung ương tập quyền, dù trên lý thuyết đã hợp nhất
thành một nước nhưng thực tế những sắc tộc lại chia thành thị tộc, các làng đầy
dị biệt và thường đem quân bản địa tàn sát lẫn nhau, không ai cản được.
Tìm hiểu lịch sử Chiêm Thành thật nhiêu khê vì tất
cả một chuỗi dài lịch sử phải nối khoen bằng những tài liệu vụn vặt góp nhặt từ
những ghi khắc trên bia ký còn trong đền tháp, qua những huyền thoại truyền khẩu
dân gian và mớ sử liệu hỗn tạp loạn ngầu trong các sách sử của những quốc gia
liên hệ như Đại Việt, Trung Hoa, Chân Lạp, Mã Lai. Người Pháp sau này cũng từ
những nguồn gốc trên mà đặt ra giả thuyết để ước đoán một sự kiện bị chìm đắm
theo những kẻ nắm quyền đã ngủ yên trong mồ.
Đây là một dân tộc rất giỏi nghề đi biển và cũng từng
là những hải tặc khét tiếng suốt vũng biển Thái Bình Dương cho tới vịnh Thái
Lan. Trong nước ruộng đất bề bề, đã có kỹ thuật canh tác và biết lập hệ thống dẫn
điền, có nền tiểu công nghệ tiến bộ và hữu ích trong đời sống hằng ngày như làm
gốm, dệt chiếu vải, đan, điêu khắc và xây cất nhà cửa, dinh thự, đền đài. Vậy
vì sao nước Chiêm Thành phải suy thoái và diệt vong? Một câu hỏi cần phải làm
sáng tỏ, để tránh những ngộ nhận cho các thế hệ hôm nay và mai sau trong một quốc
gia hớp chủng VN.
Như ta biết, cộng đồng dân tộc (communauté), theo
định nghĩa pháp lý, thì đó là một xã hội có nhiều người cùng nhau chia xẻ một
thân phận trong mọi hoàn cảnh, dù là ý thức hay vô ý thức. Đất nước nào trên thế
giới xưa nay, cũng bao gồm nhiều cộng đồng xã hội khác nhau, nhưng lại cùng sống
trong một lãnh thổ, tạo thành cấu trúc bất khả phân của một quốc gia và theo
pháp lý, tất cả các cộng đồng này đều bình đẳng về quyền lợi cũng như trách nhiệm,
bổn phận.
Trên bình diện quốc gia lại duy nhất chỉ có một
dân tộc mà thôi. Cho nên không thể gọi người Chàm, người Hoa, người Khmer hoặc
các bộ tộc vùng cao là dân tộc thiểu số như chúng ta đã lạm dùng sai sót trong
quá khứ và VC đang sử dụng để mị dân. Theo đúng nghĩa của phương tây, danh từ
Dân Tộc (nascere), đã được Isodore de Séville, sống trong thế kỷ thứ VII (STL),
định nghĩa là một cộng đồng sắc tộc, gồm những nhóm người có chung nguồn gốc,
hay nhiều nhóm khác nhau qua thời gian pha trộn, đã cùng sinh hoạt chung trên một
mảnh đất nhất định. Sau này danh từ Dân Tộc được đồng nghĩa với Tổ Quốc
(Patria), để gọi tất cả mọi người đang sống chung trên một lãnh thổ. Tóm lại
Dân Tộc VN ngày nay có ba họ chủng tộc khác nhau cấu thành, đó là người Kinh,
người Hoa và tập hợp những sắc tộc miền cao, kể cả người Chàm và Khmer ở Nam Phần.
Hội nhập và đồng hóa là hai vấn đề hoàn toàn khác
nhau. Ngoại trừ người Thượng Bắc phần hay Cao nguyên Trung phần, từng được
chính quyền VN bao đời coi như dân bản địa. Các sắc dân Chàm, Khmer và Minh
Hương đã hội nhập trong dân tộc VN nhưng không hề bị đồng hóa, như một vài người
mang thù hận truyền kiếp, đã cố tình bóp méo vấn đề, bằng cách viết nói lẫn lộn
để cho người khác phải hiểu sai, rồi kết luận người VN bao đời đều dùng chính
sách đồng hóa để phát triển cộng đồng. Từ những dẫn chứng thực tại của quốc gia
hợp chủng VN mà quyền hành bao đời vẫn theo trung ương tập quyền, dù triều
đình, chính phủ, nhà vua có đóng ở Thăng Long, Thuận Hoá hay Gia Định, tất cả
cũng đều do lệnh vua ban truyền, tuy nói chơi "lệ làng hơn phép vua".
Nhưng Chiêm Thành thì sao? Vẫn có tập quyền nhưng
chỉ thu gọn trong một thiểu số làng mạc cùng chung thị tộc hay gần gũi với
chính quyền mà thôi. Điều này cũng đâu lạ, vì Chiêm Thành ảnh hưởng sâu đậm An
Độ giáo cũng như phỏng theo nền chính trị của nước này. Bởi vậy xã hội Chàm gồm
bốn giai cấp: Brahman (tăng lữ Bà La Môn), Kshatriya (quý tộc), Vaishya (thường
dân bao gồm thương gia, điền chủ, những người giàu có) và Shudra (tiện dân).
Ngoài ra vì là một dân tộc hợp chủng nhưng thay vì chịu chấp nhận là một dân tộc
duy nhất Chiêm Thành, để phục vụ cho tổ quốc, người Chiêm do tính chất cách biệt
địa lý, nguồn gốc, ngôn ngữ, nên họ đã coi lệ làng hơn phép nước trong mỗi sắc
tộc, thị tộc riêng lẽ.
Chỉ riêng người Chàm cũng đã chia rẽ gay gắt, nhất
là giữa hai thị tộc mạnh nhất Cây Cau (Kramukavamca) thống trị miền nam tại 2
châu cũ chiếm của Phù Nam là Kauthara và Panduranga. Còn thị tộc Cây Dừa
(Narikelavamca) ở phiá bắc tại châu Indrapula. Do trên ta có thể khẳng định là
các bộ tộc sinh sống trên cao nguyên, trong đó có người Churu, Roglai, Rhadé,
Jara .tuy cùng sử dụng chung ngôn ngữ Malayo-Polynésien với người Chàm, nhưng
luôn luôn tự trị, chống đối Chiêm Thành, kể cả ba thế kỷ bị đô hộ.
Nói chung nội bộ nước Chiêm Thành luôn luôn ẩn chứa
những mầm phản loạn, và vì vậy khi vua chúa nào bị thua trận hay thất sủng, là
bị quyền thẩn giết ngay để dành ngai vua và đất nước, kể cả vị vua anh hùng nhất
của nước này là Chế Bồng Nga, cũng không được ngoại lệ. Tình trạng mạnh được yếu
thua này rất phổ quát trong thời phong kiến và quân chủ, ngay tại Trung Hoa và
Đại Việt cũng từng có nhưng chỉ là họa hoằn, chứ không gần như là cơm bữa tại
quốc gia này. Trong thượng tầng kiến trúc chính quyền, trung tâm đầu não của quốc
gia, thời nào cũng chỉ dành riêng cho thiểu số tăng lữ và quý tộc nhưng họ luôn
chỉ nghĩ tới quyền lợi của dòng họ và tộc đẳng mình mà thôi. Chiếm tỷ lệ dân số
đông đảo trong nước, vẫn là hai thành phần thường dân và tiện dân, nhưng họ chỉ
là những công cụ của thiểu số cầm quyền, phải đi lính, sản xuất, xây cung điện,
đền đài khắp nơi để thờ phụng đủ thứ thần linh trong nguồn tín ngưỡng mà vua
chúa chấp nhận.
Rồi thay vì, dùng nguồn lợi của quốc gia để lo cho
đời sống dân chúng, cải tiến phong tục xã hội, đem nền văn minh văn hiến của
dân tộc thu nhập, phổ biến, giáo dục cho mọi người, mọi thế hệ, để họ cùng mở
mang kiên thức, thăng tiến trong dòng văn minh lịch sử nhân loại để ai cũng có
quyền lợi hưởng và nhận chịu trách nhiệm khi đất nước lâm nguy, cần tới. Nhưng
Chiêm Thành thì hoàn toàn đi ngược lại, tiền bạc chỉ dùng để xây kinh đô, thánh
địa, mua sắm quân cụ vũ khí để đánh nhau. Bắt dân đi lính không phải để bảo vệ
tổ quốc, mà là giúp vương triều mở rộng lãnh thổ, thu chiến lợi phẩm cùng tù
binh, tạo thêm ưu thế cho tộc đẳng đương quyền.Bởi vậy, dân chúng trong nước chỉ
thấy mình làm nô lệ cho vua quan mà thôi, chứ khồng hề nghĩ tới dân tộc, tổ quốc,
nên khi có chuyện thì bỏ chạy và ít lo tới chế độ mình đang hiện hữu. Đây chính
là nguyên nhân nội tại, khiến Chiêm Thành bị suy thoái vì chia rẽ sắc tộc, thế
cấp và rắn mất đầu mỗi khi có biến loạn, mà lần cuối cùng vào thế kỷ XV, vua Lê
Thánh Tôn chiếm kinh đô Chà Bàn, chia ba Chiêm quốc, khiến cho giới tri thức,
khoa bảng lãnh đạo bị tan rã vì chết, trốn ra ngoại quốc, trong nước thiếu nhân
tài để tiếp tục lèo lái con thuyền quốc gia đang trong cơn bão tố, sóng dữ sắp
chìm.
Cũng phải nói tới thể diện con người, ta biết người
Chàm theo chế độ mẫu hệ, quyền hạn trong gia đình đều do phụ nữ chi phối và nắm
giữ, người đàn ông luôn cảm thấy mình mất tự do. Ngoài xã hội, tuyệt đại dân
chúng thuộc giai cấp tiện dân, bị áp bức bóc lột. Nên gặp lúc được tự do, ho đã
dễ dàng hướng ngoại, làm cho đất nước càng lúc càng thiếu nhân lực. Trong nước
lúc nào cũng có chiến tranh, đất ruộng vườn tược giao phó cho đàn bà và những
người lớn tuổi, nên họ làm sao kham nổi, bởi vậy lãnh thổ hầu hết như bị bỏ hoang.
Ngân sách, tài nguyên đều dùng để xây cất cung điện, thánh tích và quân sự.
Những lần thắng trận thì lấy chiến lợi phẩm đã cướp,
để bù đắp hoặc tổ chức những đám cướp biển. Nhu cầu này cũng cạn kiện dần mòn
khi đế quốc Hồi giáo hùng mạnh, khống chế toàn bộ con đường tơ lụa trên An Độ
Dương và biển Đông, đã bị các nước phương tây làm sụp đổ. Từ đó quyền lợi kiếm
được từ nguồn hải khấu của Chiêm Thành cũng chấm dứt, vì thuyền nước này nhỏ
bé, vũ khí lại thô sơ, làm sao chọi nổi với thương thuyền to chắc của Bồ, Y Pha
Nho, Pháp, Anh Cát Lợi, Hòa Lan...có trang bị hỏa lực hùng hậu.
Về những trách móc, thù hận hay dư luận cho rằng Đại
Việt tiêu diệt Chiêm Thành để cướp nước, qua hiện tượng biểu kiến của cuộc Nam
Tiến. Sự kiện này ngày nay đã được giải tỏa ẩn ức, không phải do người Việt Nam
tự biện bạch để chạy tội, mà chính là những trang lịch sử còn lưu lại của các
nước Đông Nam Á, có liên hệ tới Chiêm Thành. Nói theo kinh Phật, thì tất cả đều
là nhân quả, thiện ác nhãn tiền, người Chàm lúc nào cũng nuôi hận thù trong
tâm, nên thường đem quân khi thì đường bộ, lúc dùng thuyền bè, tấn công hết nước
này tới xứ khác, và ngược lại họ cũng phải bị nạn nhân trả thù, chống chọi để
giữ mạng, giữ nước. Với Phù Nam thì cướp hai châu và tấn công luôn Chân Lạp,
tàn phá Đế Thiên, Đế Thích (Angkor Wat, Angkor Thom) vào năm 1177 bởi vua Chàm
là Jaya Indravarman IV. Sau đó Chân Lạp phản công, đô hộ Chiêm Thành, cũng tàn
phá hết các công trình xây dựng từ kinh đô cho tới thánh tích.
Tháp Bà Po Nagar tại Kauthara, bị Chân Lạp phá huỷ
nhiều lần, cho tới khi châu này thành tỉnh Khánh Hòa của Đại Việt vào thế kỷ thứ
XVII, mới được người di dân VN, bảo quản và giữ gìn cẩn trọng cho tới hôm nay.
Ngoài ra, Chiêm Thành cũng bị người Tàu tàn phá hai lần vào năm 605 và 1282,
người Nam Dương cướp phá vào các năm 774, 787 nhưng tàn bạo nhất vẫn là những sự
trả thù dã man của Chân Lạp trên đất Chiêm Thành vào những năm 950, 1190 và thời
gian chiếm đóng từ 1203-1220. Nói chung theo sử liệu, Đại Việt là nạn nhân nhiều
lần vì bản chất hiếu chiến của người Chàm nhưng trên hết, vì Chiêm Thành là đồng
minh của Trung Hoa, suốt dòng lịch sử, luôn tấn công công tập hậu VN. Vì vậy Đại
Việt không còn lựa chọn nào hơn, là phải chống lại để tự vệ và giữ nước
Gây hấn rồi nhường đất chuộc mạng, bắt đầu từ thời
vua Chế Củ dâng nhà Lý ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, được các sử gia coi
đó là một sự kiện lịch sử quan trọng của Chiêm Thành, mở đường cho vua chúa Đại
Việt sau này, coi đó như một yếu tố tất thắng đối với kẻ chiến bại. Trong 30
năm cầm quyền, Chế Bồng Nga năm nào cũng đánh phá chém giết người Việt tận tuyệt,
luôn cả kinh thành Thăng Long cũng bị tàn phá trong ba lần lữa máu. Bởi vậy khi
Chàm suy yếu, Đại Việt lại trả thù phục hận và cũng đã khiến cho các triều đại
VN tỉnh ngộ, quyết ngăn chận Chiêm Thành, để không còn xảy ra tai họa khủng khiếp
trong dĩ vãng. Đó là chính sách nam tiến sau này, được thi hành ôn hòa qua kế
hoạch dinh điền, mở mang khai phá đất đai bị bỏ hoang ở biên trấn, sống hòa lẫn
cùng dân bản địa, vừa canh chừng giặc, vừa sản xuất lương mễ theo đường lối
"ngụ binh ư nông " mà Đại Việt đã khôn ngoan áp dụng từ khi thu hồi
được độc lập.
Nước Chiêm Thành suốt 17 thế kỷ trường tồn, nhờ nền
ngoại thương, ít chú trọng tới nông nghiệp. Mặt khác chính quyền Chàm lại không
có kế hoạch phòng thủ khi bế tắc, nên lúc việc buôn bán với nước ngoài không
còn thuận lợi, muốn quay lại nông nghiệp thì đã muộn màng.
Ngoài ra cái thời người Chàm cứ bỏ đất hoang, để
dân Việt tới khai phá gây dựng, rồi họ trở lại tấn công đoạt lại hay để kiếm
lương thực và chiến lợi phẩm, cũng đã cáo chung, vì từ thế kỷ thứ XVI, khi Nguyễn
Hoàng vào tọa trấn Thuận Quảng, ngoài việc xây dựng một quân đội hùng mạnh, còn
thành lập những xã thôn trù phú nơi biên thùy, vừa là tiền đồn cũng là tiền
dinh ngăn chặn các cuộc tấn công. Rốt cục chiến tranh có xảy ra, cũng chỉ gây
tang tóc cho cả hai bên mà thôi và càng tạo thêm cớ để Đại Việt nam tiến mà
thôi.
Qua dòng lịch sử nước nhà, hoặc chính do người Việt
ghi chép lại, hay từ các sử gia ngoại quốc, hoàn toàn không thấy nói tới sự tàn
ác dã man của quân Việt đối với tù binh hay dân chiến nạn như người Chàm. Sự việc
đã xảy ra suốt dòng lịch sử, khi người Việt trên con đường nam tiến, tới đâu
cũng tận tình bảo quản những di tích lịch sử của người Chiêm để lại, đồng thời
hòa đồng với họ khi đã sống lẫn lộn, tôn trọng tôn giáo riêng tư của kẻ khác,
cho nên nói người Chiêm sau khi mất nước phải hòa đồng vào dân tộc VN là đúng,
nhưng bảo người Việt đã diệt chủng và đồng hóa Chiêm Thành như đã xảy ra dưới
thời vua Minh Mạng, là một bịa đặt không ai tin được.
Câu hỏi cuối cùng được đặt ra, là tại sao hơn ba
thế kỷ tiến hóa, tính từ niên lịch 1693 tới ngày nay, nhân số trong cộng đồng sắc
tộc Chàm, vẫn không thấy gia tăng quá con số 100.000 người, nếu so với người
Minh Hương, Khmer hay cả với các sắc dân thiểu số cao nguyên? Khó có thể giải
thích vì người Chàm dù bị vong quốc, họ vẫn tiếp tục sống với lối khép kín bao
đời, theo bản làng thị tộc. Ngoài ra các giới lãnh đạo cộng đồng Chàm, vẫn còn
đầu óc phân chia giai cấp, nại lý do bảo tồn văn hóa truyền thống thị tộc,
nghiêm cấm đồng bào mình hướng ngoại và kết hôn với các thị tộc Chàm khác, dù đều
là người Chiêm Thành.
Nay có dịp nghe lại ca sĩ Chế Linh hát "Hận Đồ
Bàn" của Xuân Tiên, mới biết rõ vì sao, rừng hoang vu vùi lấp bao uất hận
căm thù, núi trầm cô tịch, đèo cao thác sâu, ngàn muôn tiếng ngân, âm thầm hoà
bài hận vong quốc ca. Từ đó mới thấy đến bây giờ, mà sự thù hận giữa hai dân tộc
Chiêm-Việt, vẫn còn ẩn ức nơi hồn một thiểu số, vì chính những người này, đã không
biết tại sao mình phải suy tàn. Tóm lại Chiêm Thành mất nước là do họ tự đạo diễn.
Cuộc nam tiến của Đại Việt chẳng qua cũng chỉ là một ngẫu cảm trùng hợp. Sự đụng
chạm nếu có trong quá khứ, chẳng qua vì cá nhân trong lúc cùng sống lẫn lộn,
hay trường hợp vua Minh Mạng đối xử gay gắt với cá nhân những người Chàm tại
Bình Thuận, có liên hệ tới cuộc phản loạn của Lê văn Khôi năm 1851 tại thành
Gia Định, đều là vấn đề ngoại lệ của lịch sử.
Ngày nay Chiêm Việt hòa đồng, đồng bào Chàm chỉ mất
có triều đình nhưng giữ lại gần như đầy đủ các công trình sáng tạo tại các đền,
chùa, thánh tích nổi tiếng của dân tộc mình ở điện Ngọc Trản (Huế), thánh tích
Mỹ Sơn, Đồng Dương, Tháp Bà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Sau rốt nền văn minh
Chiêm Thành vẫn tồn tại qua mọi lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, kể cả tín ngưỡng
của người Việt Trung Phần, đó không phải là một hãnh diện hay sao? Thời VNCH
(1955-1975), chính phủ có một bộ phát triển sắc tộc, dành riêng cho các sắc dân
thiểu số trong đó có người Chàm.
Ngay từ thời Pháp thuộc, vua Bảo Đại có ban hành bộ
luật Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật, nhưng vẫn cố tránh làm đảo lộn nếp sống cổ
truyền của đồng bào thiểu số, trong đó có người Chàm, nên đả ban hành thêm đạo
luật số 51 ngày 25-5-1943 với đặc ân cho người thiểu số, trong đó có Chàm khỏi
thi hành. Vì vậy cho nên với pháp luật thời đó, chỉ áp dụng luật Chàm để xử họ
và tôn trọng chế độ mẫu hệ bao đời.
Thời VNCH (1955-1975), tại các tỉnh Ninh Thuận và
Bình Thuận có đông người Chàm cư ngụ. Trong sự tế nhị và nâng đỡ, chính phủ đã
bổ nhiệm các quận trưởng và phó quận, phần lớn là người Chàm, để dễ dàng hành sử
với đồng bào của họ, vì các Quận Trưởng Chàm đều kiêm nhiệm chánh án tòa sơ thẳm
trong vùng. Ngày nay đọc lại danh sách các viên chức hành chánh cao cấp của tỉnh
Bình Thuận, tính đến ngày 30-4-1975, ta mới thấy tình người giữa Việt-Chiêm, thật
ấm áp và đầy ý nghĩa.
- Quận Trưởng Phan Lý Chàm: Thiếu Tá Đặng Chánh
Anh. Phó QT là đốc sự Ya Pha (còn sống tại VN).
- Quận Trưởng Hàm Thuận: Trung Tá Dụng văn Đối.
- Quận Thiện Giáo: Phó QT, đốc sự Nguyễn Trọng Chống
(còn ở VN).
- Quận Hải Ninh: Phó QT, đốc sự Đắc Hữu Thiên (ở Mỹ).
- Quận Tuy Phong: Phó QT, đốc sự Lâm Quang Chân
(đã chết trong tù cải tạo VC).
- Quận Hải Long: Phó QT, đốc sự Mai Tường (ở Mỹ).
- Đác văn Kiết, Tham sự hành chánh, Trưởng Ty Phát
triển sắc tộc Bình Tuy.
- Nhiều Sĩ Quan giữ các chức vụ quan trọng tại
TK.Bình Thuận, Ninh Thuận. Nổi tiêng nhát tại địa phương, có ai sánh nổi Thiếu
Tá Thô Thêm, Tiểu Doàn Trưởng TD 230 DPQ/BT hay Đại Uý Đặng Phiên, DDT/DPQ đã
cùng với một số sĩ quan DPQ. Bình Thuận, trong đó có Đại Uý Nguyễn Văn Ba, Cựu
học sinh Trung Học PBC, xuất thân sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt, đã mất tích,
trong khi vượt traị tù VC ở Lương Son, quận Hòa Đa, Bình Thuận.
- Nhiều công chức, cán bộ và giáo chức..
Tất cả những viên chức trên đều là người Chàm.
Những cái nhìn tiêu cực đầy thiên vị và không phân
biệt được trắng đen của một ít người khi viết những trang sử cận đại, xét cho
cùng một phần do sự mâu thuẩn địa phương, mà thời nào cũng có trong xã hội người
Việt. Ngoài ra, đây cũng là hậu quả tất yếu của 100 năm Pháp thuộc và trên hết
là chính sách mị dân đầy chất cải lương của Việt Cộng, mà mặt thật là để khuếch
đại, phô trương cái đỉnh cao vượn khỉ của đảng, hầu bôi bác, đạp đổ công lao mở
nước của tiên nhân nước Việt bao đời.
Giờ thì Kinh Thượng đều là một nhà VN, đang nai
lưng gánh chịu tất cả oan khiên trời đau biển hận, trong thiên đàng xã nghĩa suốt
mấy chục năm qua. Đó mới chính là niềm đau nhân thế của kiếp người, khi nghĩ tới
tương lai của con cháu của bất cứ ai, đang sống trong căn nhà VN không biết sẽ
về đâu. Nên phải đoàn kết mới mong quang phục lại đất nước đang đắm chìm trong
nô lệ chủ nghĩa , có như vậy mới mong tìm lại những ngày xưa thân ái tại Bình
Thuận, mới chỉ nhớ tới, cũng đã ngậm ngùi /-
Xóm
Cồn
Tháng hai 2006
MƯỜNG GIANG