Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2016

Vì sao vua Gia Long trả thù tàn khốc nhà Tây Sơn?

Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát, ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?

Đôi nét lịch sử
Sau 25 năm chiến đấu kiên trì và gian khổ, ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (13/6/1801) Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô cũ Phú Xuân, đuổi vua tôi Cảnh Thịnh chạy dài ra Bắc. Một năm sau, ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1/6/1802), tuy chưa chính thức lên ngôi hoàng đế (1) nhưng theo lời đề nghị của bầy tôi, vua ban hành niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại mới của nhà Nguyễn.
Vào đầu thế kỷ XX, vua Khải Định đã chọn ngày này (mồng 2 tháng Năm âm lịch) làm ngày quốc khánh của nước Đại Nam, đặt tên là ngày Hưng quốc khánh niệm. Những ai ở lứa tuổi trên 70 ở Trung kỳ, từng cắp sách đến trường có thể còn nhớ đôi chút về ngày này, nhất là ở Huế. Đó là ngày mừng đất nước thống nhất. Niên hiệu Gia Long bao hàm trong ý nghĩa đó - vua muốn nói ông là người đã đi từ Gia Định thành tới Thăng Long thành để thống nhất đất nước (Võ Hương-An, Thăng Long và Gia Long).
Ngay sau khi chiếm lại Phú Xuân và trong khi vua Cảnh Thịnh của Tây Sơn đang còn làm chủ ở miền Bắc thì Nguyễn Vương đã cho “Phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ” (Thực lục I, tr.473).
Sau khi chiếm được Bắc Hà, bắt được trọn gói vua tôi, anh em vua Cảnh Thịnh, hoàn thành cuộc thống nhất đất nước từ Nam chí Bắc, vua Gia Long khải hoàn về kinh. Ngày Giáp Tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) vua đem tù binh ra làm lễ hiến phù ở Thái Miếu. Hiến phù là lễ trình diện tù binh trước bàn thờ tổ tiên, và Thái Miếu là nơi thờ 9 đời chúa Nguyễn.
Sau lễ, “Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản [vua Cảnh Thịnh] và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại [Ngoại Đồ Gia, cơ quan chế tạo của triều đình, sau gọi là Võ Khố] (năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài" (Thực lục I, tr.531).
Trong chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 háng 11 Nhâm tuất, có câu mở đầu: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” và kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân” (Thực lục I, tr.532,533).
Theo tài liệu của Bissachère, trước khi nhận lãnh cái chết thảm khốc, anh em vua Cảnh Thịnh còn bị bắt phải chứng kiến cảnh lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của cha (Nguyễn Huệ) và bác (Nguyễn Nhạc) (theo hồi ký của Bissachère) trước khi hài cốt bị đem “giã nát rồi vất đi”.
Phẩm bình của lịch sử
Tại miền Nam trước 1975, có hai bộ thông sử tiếng Việt thông dụng là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn. Viết về vua Gia Long, cả hai bộ sử đều giống nhau ở một điểm: có phê phán sự hẹp lượng của vua Gia Long qua việc giết hại công thần (vụ án Nguyễn Văn Thành và vụ án Đặng Trần Thường), có kể rõ việc hành hình trả thù Tây Sơn nhưng hoàn toàn không bình luận, phê phán gì đến sự “quá tay” trong việc này. Tại sao?
Hoa Bằng, tác giả Quang Trung, Anh hùng dân tộc (Nxb Bốn Phương, Saigon, 1953) khi kết luận thiên biên khảo đầu tiên bằng tiếng Việt về đề tài này đã ngậm ngùi viết: “Vậy mà Nã Phá Luân [Napoléon I] được gởi nắm xương trong đền Invalides để cho người sau hoài niệm, viếng thăm; còn Quang Trung: mả phải đào, xương phải tán, dòng dõi bị chu di, sự nghiệp liệt liệt oanh oanh gói tròn trong một chữ ‘Ngụy’”.
Nhà viết sử Trần Gia Phụng trong Nhà Tây Sơn (Nxb Non Nước, Toronto, 2005) cũng đã có lời bình phẩm nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc: “Cuộc trả thù được vua Gia Long xem là ‘nghĩa lớn Kinh Xuân Thu’ nhưng hành hạ di cốt địch thủ trước mắt con cái họ trái hẳn với đạo lý cổ truyền của dân tộc” (tr.240).
Phê bình mạnh tay, mạnh mẽ hơn có Quách Giao:
Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ.
Còn đối với Nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng [Cảnh Thịnh], cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã. Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê.
Vua tôi Nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật báo. Quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết.
Ngót 150 năm, Nhà Nguyễn cố làm cho người người quên Nhà Tây Sơn. Những người yêu nước vẫn luôn nhớ đến Nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm tòi trong nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về Nhà Tây Sơn.
Và tiếng Anh hùng Áo Vải, Anh Hùng Dân Tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc. Còn Nhà Nguyễn đã làm được gì?
Có người bảo rằng đã thống nhất Bắc Nam. Ðó là quên rằng chính Nhà Tây Sơn đã thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm trên tay Ðông Ðịnh Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao phen bể nổi dâu chìm Nhà Nguyễn còn để lại tiếng Rước voi, cõng rắn.
Trăm năm bia đá thời mòn/ Nghìn năm bia miệng mãi còn trơ trơ.
Trong văn hóa phương Tây, đánh nhau là đánh nhau nhưng không có chuyện trả thù kẻ chiến bại một cách tàn nhẫn, nhất là đối với người đã chết. Do đó, khi bắt gặp hành động “dã man” này của vua Gia Long, Stanley Karnow, tác giả tiếng tăm bộ sử VietNam, A History (Penguin Book, 1984) đã viết:
“Ông ta tỏ ra chẳng khoan dung chút nào đối với kẻ thù đã chiến bại, dù đã chết hay còn sống. Binh sĩ của ông đã quật xương cốt của một cặp vợ chồng cầm đầu Tây Sơn đã chết [Nguyễn Huệ], tiểu tiện vào xương cốt đó trước sự chứng kiến của con cái họ và những người này sau đó tay chân bị trói vào 4 con voi và xé nát.” (p.65)
Nếu Nhà Tây Sơn không có Quang Trung Nguyễn Huệ với chiến thắng quân Thanh và quân Xiêm vang dội trong lịch sử thì hành động “vì 9 đời mà trả thù” của vua Gia Long chưa chắc đã bị búa rìu dư luận nhiều như đã xảy ra.
Ngoài việc ghi chép khá rõ ràng của Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn thì hồi ký sống động của giáo sĩ De la Bissachère về việc hành hình trả thù của vua Gia Long đối với anh em và vua tôi Cảnh Thịnh (2), đã gây tác động tâm lý không nhỏ trong giới sử học Đông Tây (Thực ra ông này không chứng kiến cuộc hành hình mà chỉ nghe ai đó kể lại).
Thử đi vào mạng lưới toàn cầu, gõ mấy từ khóa như Gia Long, Tây Sơn, Nguyễn Huệ, thì tha hồ đọc công luận phẩm bình, đa số đều chê Gia Long về việc này. Điều này cũng dễ hiễu thôi vì hào quang chiến thắng quân Xiêm và quân Thanh của vua Quang Trung rực rỡ quá, đã che mất sự thật thê thảm ở bên trong.
Thêm vào đó, với mấy chục năm lịch sử triều Nguyễn do Gia Long khai sáng, đã bị miệt thị thậm tệ, đã ảnh hưởng không ít trên sự nhận thức của người đọc, nhất là giới trẻ. Mặc dầu ngày nay gió đã đổi chiều, đã bắt đầu có sự chuyển biến trong nhận thức về sự nghiệp của Nhà Nguyễn (3) nhưng không thiếu chi người vẫn tư duy trong nếp cũ.
Câu hỏi đặt ra
Các sách sử Việt Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia Long đều lấy tài liệu từ các bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết khác do nguồn sử liệu Tây phương cung cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đã không giấu diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người sau chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà không có bớt.
Riêng người viết, trong niềm ngưỡng mộ chiến thắng oanh liệt hào hùng của vua Quang Trung trước quân Xiêm và quân Thanh xâm lăng, ban đầu thì cũng đồng ý với những bình phẩm chê trách hành động của vua Gia Long đối với Tây Sơn là thái quá, tàn nhẫn, nhưng sau đó, khi được biết những nguồn tin khác, không khỏi đắn đo tự hỏi và tìm lời giải đáp.
Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát (4)[1] .Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Sau khi làm chủ Bắc hà, vua “Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc thờ cúng họ Trịnh. Trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: ‘Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời” (Thực lục I, tr.508).
Vậy là Trịnh Tư được giao lo việc thờ cúng, họ Trịnh được cấp 500 mẫu ruộng để lấy huê lợi cúng tế hàng năm, 247 người họ Trịnh được xét tha thuế dinh và miễn binh dao (đi lính và chịu sưu dịch).
Ai cũng biết La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được coi như một Gia Cát Lượng của vua Quang Trung, một cố vấn tối cao, được vua quan trên dưới đều kính nể (4 lần vua khẩn khoản mời ra giúp, cuối cùng nhận chức Viện trưởng Viện Sùng Chính năm 1790, giúp vua chấn chỉnh việc giáo dục, văn hóa, giúp vua chọn đất Nghệ An làm Phượng Hoàng trung đô…).
Khi Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân, ông đang ở Huế giúp vua Cảnh Thịnh nhưng không chạy theo khi vua đào thoát (hay chạy theo không kịp?) và dường như không bị bị bắt mà chỉ quản thúc tại gia, dù phía Nguyễn Vương biết rõ lý lịch, sau đó Nguyễn Vương đã ra lệnh:
“Thả xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về. Thiếp là người xã Nguyệt Áo huyện La Sơn, đậu Hương tiến đời Lê, làm quan huyện Thanh Chương, bỏ quan về nhà. Khi nhà Lê mất, theo lời mời của Nguyễn Quang Toản mà ở lại Phú Xuân. Tới nay vào yết kiến, xin trở về làng. Vua [Nguyễn Vương] dụ rằng ‘Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta.’ [người viết in đậm]. Bèn sai quan quân đưa về" (Thực lục I,tr.445).
Lại năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành bắt giải về Kinh, vua Gia Long tha hết cho về quê. Lại khi Bộ Hình tâu xin vua định đoạt số phận của người vợ lẽ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên Đại và Vạn bị bắt thì vua nói: “Vợ lẽ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì?” (Thực lục I, tr.544).
Những chứng dẫn nho nhỏ đó cho thấy vua Gia Long là con người phải chăng, tùy theo người, theo trường hợp mà có quyết định tha hay phạt, chứ không phải bạ đâu giết đó, thà giết lầm hơn bỏ sót. Vậy tại sao giết Tây Sơn chưa đủ, phải hành hạ mới hả, kể cả nắm xương khô. Thù chi mà dữ vậy?
Sự thật là đây
Về chuyện vua Gia Long trả thù Tây Sơn, nhà viết sử Trần Gia Phụng đã đi xa hơn các học giả đi trước khi lần đầu tiên ông phân tích chính xác rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì ba việc chính: thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790” (Việt Sử Đại Cương, Tập 2, tr.445).
Chừng đó nợ máu nghe đã nặng (5 người cật ruột), nhất là món nợ thứ 3, nhẹ vật chất mà nặng tâm linh và đạo đức, ít người biết. Nhưng kể vậy cũng chưa đủ.
Khi đọc câu mở đầu của chiếu bố cáo lễ hiến phù: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” * (Thực lục I, tr.532) tôi không khỏi mỉm cười một mình với ý nghĩ: thiệt mấy ông đời xưa văn chương lớn lối quá, cái chi cũng lôi điển tích với sách vở ra, tô vẽ cho long trọng. Nhưng sau đó, khi đọc kỹ Thực lục mới biết mấy chữ vì 9 đời mà trả thù mang một ý nghĩa rất thực, rất cụ thể, bên cạnh màu sắc điển tích văn chương tô điểm.
* “Xuân Thu, Công Dương truyện: Trang công năm thứ 4 chép: Tề Tướng công giết nước Kỷ, vì ông tổ xa đời là Ai công mà phục thù, đời gọi là mối thù 9 đời” (Chú thích của dịch giả Thực lục I, tr.532).
Ngày 13/6/1801, Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô Phú Xuân, nơi ông đã vội vã ra đi khi mới 13 tuổi (ta), và ròng rã 27 năm mơ ước được trở về. Tuy đã làm chủ được Phú Xuân nhưng lực lượng hùng hậu của Tây Sơn Cảnh Thịnh vẫn còn ở bên kia lũy Trường Dục (Quảng Bình), vậy mà đến đầu tháng 8 năm đó đã lo sửa sang lăng mộ tổ tiên và cấp tốc hoàn tất ngay trong tháng.
Sao việc này lại làm gấp rút còn hơn cả công tác sửa sang thành trì, xây đồn đắp luỹ để phòng chống Tây Sơn? Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của Thực lục sau đây, có thể thấy được lý do thúc đẩy (những chữ in đậm là do người viết, chữ ghi giữa hai ngoặc đứng [x] là chú giải của người viết):
“Tháng 9, ngày Ất hợi [ 9/8/1801], sửa lại sơn lăng.
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.
Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên.
Vua thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại. Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Ngày Kỷ hợi [1/11/1801], vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều khóc cả. Sai đổi xã Cư Hóa làm xã Cư Chính, cho dân miễn dao dịch làm hộ lăng. Cho Huyên làm Cai đội (năm Minh Mệnh thứ 11[1830] phong An Ninh bá, lập đền thờ ở núi Cư Chính) con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài tòng quân ở Bình Định cũng được gọi về hậu thưởng cho” (Thực lục I, tr.466).
Gạt ra ngoài những chi tiết hoa lá cành như hai con cọp trong bụi rậm nhảy ra, đang đào mả thì nhà cháy, v.v., đoạn sử ngắn ngủi do Thực lục ghi lại tiết lộ hai điều quan trọng mà ít người biết đến hoặc biết mà vì một lý do nào đó đã lơ đi hoặc chỉ phớt nhẹ nói qua:
- Thứ nhất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy hài cốt ném xuống sông. Việc này cộng với việc giết chết vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên năm 1777 thì quả nhiên vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chậy chút nào. Vì vậy có thể nói được rằng chữ 9 đời có một ý nghĩa rất cụ thể.
Đây là 8 đời chúa Nguyễn:
1.Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613);
2.Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635);
3.Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
4.Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
5.Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691);
6.Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725);
7.Chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738);
8.Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765);
Về ông tổ Nguyễn Kim, có lẽ vì không biết đích xác mộ phần nẳm ở đâu trong cái bát ngát của núi Triệu Tường ở Thanh Hóa, nên vua Quang Trung đành phải cho qua mà không tính sổ.
Tám đời chúa Nguyễn này không có hận thù gì với anh em Tây Sơn, đã có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước khi kế tục nhau mở nước về phương Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, cống hiến cho tổ quốc non một nửa nước, trài dài từ Phú Yên trở vào Nam, với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn lãnh thổ nam tiến của các triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cộng lại. Không có sự nghiệp này thì hậu thế ngày nay lấy chi để khoe với thế giới rằng “nước ta hình cong như chữ S” với “rừng vàng biển bạc”?!
- Thứ hai: Phần mộ của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long cũng bị quật lên và hài cốt ném xuống sông.
Ông Nguyễn Phúc Côn là con thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm 1765, khi con là Nguyễn Phúc Ánh đang còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế (1806) mới truy tôn cha làm Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ cho đến khi chết dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan, ông chẳng làm vua làm chúa gì. Chỉ vì con ông là Nguyễn Phúc Ánh dám chống lại Tây Sơn mà ông đã không được ngủ yên, lâm vào cảnh con làm cha chịu!
Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết thêm một chi tiết khác:
“Theo truyền thuyết, khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức Hưng Tổ ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người)" (tr.193).
Thực lục có nói khi Nguyễn Ngọc Huyên chết thì được lập đền thờ và phong làm An Ninh bá. Ở thượng lưu sông Hương có một ngôi miếu, tục gọi là miếu Ông Chài, chính là miếu ông Huyên vậy.
Trong văn hóa Việt Nam, phận làm con cháu là phải lo gìn giữ mồ mả tiên tổ cha ông. Do đó chúng ta thông cảm với vua Gia Long chỉ trong 2 tháng sau khi tái chiếm Phú Xuân đã vội vã hoàn tất việc tu sửa lăng mộ bởi khi đã biết tình trạng lăng mộ bị phá tanh banh thê thảm như thế thì không một ai có thể chờ đợi được nữa.
Trong lịch sử Việt Nam, việc tranh giành quyền lực dẫn đến những hành động giết hại nhau tàn nhẫn không phải là hiếm. Điển hình, để cướp ngôi nhà Lý, Trần Thủ Độ không ngần ngại dồn Lý Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ nhổ cỏ tận gốc, mặc dù Huệ Tông đã biết thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở chùa Chân Giáo. Đã thế, Trần Thủ Độ còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý chôn sống trọn gói (may mà Hoàng tử Lý Long Tường nhanh chân thoát qua tị nạn ở Cao Ly, trở thành thuỷ tổ họ Lý của xứ Đại Hàn ngày nay).
Nhưng có lẽ trong cuộc tranh chấp quyền lực chưa có ai trong lịch sử phải trả cái giá 5 mạng người ruột thịt và 9 ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh với xương cốt không biết đâu tìm như trường hợp vua Gia Long trong khi đối đầu với Tây Sơn để phục hồi cơ nghiệp của ông cha đã tốn công xây dựng.
Ở đời, có vay thì có trả. Nợ nào cũng có tính lãi suất, chỉ có khác là nặng hay nhẹ, không hình thức này cũng hình thức khác. Nếu Quang Trung Nguyễn Huệ không tạo nhân ác thì có thể đã không gặp quả ác. Hận thù luôn luôn vẫy gọi thù hận là chuyện thường của thế gian, huống chi lại có yếu tố tranh giành quyền lực trong đó, tham lam và sân hận hẳn phải bốc lên ngùn ngụt.
Phải chăng nên thử tự đặt mình vào địa vị của vua Gia Long để có nhiều thông cảm và có lời phẩm bình phải chăng hơn.
Một vài cảm nghĩ
Là hậu thế, có lẽ không mấy ai vui khi biết sự thật của tấn thảm kịch Nguyễn Quang Trung và Nguyễn Gia Long. Cả hai, đối với chúng ta, đều có chỗ đáng tôn vinh lẫn chỗ bất cập. Riêng ngưởi viết, từ tấn thảm kịch lịch sử này, học hỏi được một đôi điều, xin gọi là chia sẻ.
1/ Qua việc điện thư của bạn bè và thân hữu gởi đến tới tấp kèm chuyện “Một ngày lễ Vu lan sầu thảm” của Tịnh Thuỷ, tôi nhận ra rằng té ra loại “lịch sử tiểu thuyết” dễ đi vào lòng người hơn là chính sử khô khan. Đồng ý khi tiểu thuyết hóa lịch sử thì tha hồ cho trí tưởng tượng vẽ vời nhưng cái căn bản của nó xin đừng đổi trắng thay đen.
Thực lục ghi rõ vụ hành hình vua tôi anh em Cảnh Thịnh diễn ra ngày giáp tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 tức ngày 7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802. Làm chi có ngày Vu Lan trong đó? Có lẽ tác giả muốn gây ấn tượng cho ngưởi đọc về sự tàn ác khó dung tha của vua Gia Long nên mới lựa một ngày như thế. Tội nghiệp cho vua! Vua chỉ dự lễ hiến phù, không dự cuộc hành hình, chỉ sai quan thi hành, nên cuộc đối thoại tay đôi giữa vua và bà Bùi Thị Xuân cũng chỉ là cơ hội bày ra để mạt sát thoải mái. Tội nghiệp.
2/ Việc cải táng mộ ông Nguyễn Phúc Côn có thể hiểu được, vì tìm được hài cốt và hài cốt này đã được vua Gia Long xác tín rằng đó là di cốt của người đã sinh thành ra ông. Nhưng với 8 chúa thì sao? Sử nói Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Đồng ý là xây lên cao, làm cho to lớn đẹp đẽ hơn xưa, nhưng hài cốt không tìm thấy thì chôn cái gì trong đó? Chẳng lẽ chỉ là một ngôi mộ trống không? Một cái mả gió?
Trong một dịp về thăm Huế sau 7 năm “đi học làm người tốt” (!), tôi được biết sau năm 1975, do đói quá, người ta đã làm bậy. Việc đào trộm mồ mả lăng tẩm giới quyền quí đã xảy ra với ý đồ tìm vàng bạc châu báu tùy táng. Người bạn kể cho nghe (tôi chưa có cơ hội kiểm chứng) khi cụ Vương Hồng Sển, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng của Miền Nam, biết được kẻ gian đã kiếm được nữ trang trong lăng Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức) và đem bán thì cụ đã kêu trời.
Dưới cái nhìn cơm áo của kẻ trộm, đó là vàng, tính theo thời giá của chỉ và lượng. Dưới cái nhìn của cụ Vương, đó là đổ cổ vô giá của quốc gia! Nhưng đó không phải là chi tiết tôi quan tâm, vì bảo vật quốc gia người ta bán ra nước ngoài nhiều rồi. Chi tiết lý thú mà tôi nghe được đã giúp tôi hiểu biết thêm và lý giải thắc mắc nêu trên. Chi tiết đó là, bọn kẻ trộm, khi đào đến quan tài của một ông chúa nào đó đã không thấy hài cốt mà chỉ thấy hình người ta bằng gỗ! Điều này xác nhận giả thiết mà tôi đã nghĩ trong đầu nhưng không biết cách nào để kiểm chứng, ấy là tục chiêu hồn nạp táng.
“Chiêu hồn nạp táng" là gì?
“Trong gia phả các họ rất chú trọng mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục này có một số trường hợp ghi chú: “Chiêu hồn nạp táng”. Đó là những ngôi mộ không có tử thi, hài cốt, mộ người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ… không tìm được tử thi. Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an táng theo như lễ an táng thông thường.
Được nghe các cụ kể lại rằng: chất liệu làm hình nhân, có địa phương dùng cây núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoàng bá, bạch ngọc nhi). Núc nác là loại gỗ mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu hoai, lại dễ kiếm vì mọc ở nhiều nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa dòng sông, có địa phương dùng mùn đào ở giữa ngã tư đường cái.
Hình nhân được đẽo gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được (vì đa số không phải là nghệ nhân). Kích thước của hình nhân khoảng 30-40 cm chiều dài. Thi hài tượng trưng đó cũng được khâm liệm, đưa vào áo quan làm bằng gỗ vàng tâm, kích thước nhỏ bé, hoặc đưa vào tiểu sành.
Trên hình nhân có phủ lên linh vị viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bàn thờ. Trước khi làm lễ an táng có mời thầy cúng làm bùa ấn phù phép để vong hồn nhập vào hình nhân. Lễ an táng và các lễ các lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thông thường.
3/ Hình như có một nhà tư tưởng nào đó đã nói: “Làm thầy thuốc lầm thì chết một người; làm thầy địa lý lầm thì giết một họ; làm chính trị lầm thì giết một nước, làm làm văn hóa lầm giết cả một đời”.
Dưới ảnh hưởng của môn phong thủy Trung Hoa, người Việt từ vua cho chí dân đều tin rằng âm phần tổ tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh và tương lai của con cháu. Bởi vậy ai cũng mong muốn tìm cho được một huyệt mả tốt để được kết phát, để con cháu được hưởng phước vinh hoa phú quí dài lâu. Bởi vậy, để tận diệt kẻ thù không gì bằng triệt long mạch, phá huyệt mộ, đào mả cha ông nhà người ta lên.
Làm thế thì chắc chắn con cháu không thể nào ngóc đầu lên được, lấy gì mà chống trả. Quang Trung Nguyễn Huệ, ngoài việc sử dụng binh lực đánh Nguyễn Vương chạy dài ra biển, trốn qua đến Xiêm La hai lần, vẫn không quên sử dụng chiêu thức này để hỗ trợ. Và để cho chắc ăn, thà phá lầm hơn bỏ sót, đã không những quật mồ thân sinh vua Gia Long là huyết thống trực hệ mà còn quật mồ cả 8 đời chúa Nguyễn xa lắc. Thật là một sự tính toán chu đáo.
Tuy toan tính chu đáo như vậy nhưng Nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ chỉ tồn tại có 14 năm (1788-1802, 1788 là năm vua Quang Trung đăng quang trước khi ra Bắc phá quân Thanh), trong khi Nguyễn Vương, mặc dầu bị đánh trúng tử huyệt (theo quan niệm phong thủy) nhưng sau 25 năm bền bỉ chiến đấu nhọc nhằn, đã thống nhất đất nước, phục hưng được cơ nghiệp tổ tiên, lập ra triều đại mới, tồn tại 143 năm (1802-1945).
Vậy là thế nào? Chẳng lẽ phong thủy hoàn tòan là một thứ tin mê tín dị đoan? Không, không thể vì vậy mà kết luận phong thủy một cách hồ đổ như thế được. Cái nước Mỹ của khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất thế giới này cũng đang chạy theo Feng Shui (Phong thủy) của nền văn minh cổ Trung Hoa, có thua chi Việt Nam xưa và nay đâu, có điều họ chú trọng đến dương cơ hơn âm phần. Như vậy phải có một yếu tố gì khác làm cho độc chiêu do vua Quang Trung phát ra đã không có hiệu quả. Tôi chợt nhớ đến chữ Đức trong câu ca dao: Người trồng cây hạnh người chơi/ Ta trồng cây đức để đời về sau.
Trong 8 đời chúa Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng lo làm cho dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu Đốc chứng minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ sự nghiệp nam tiến đó!
Có 3 ông chúa mang danh hiệu khác người: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn thì làm chi có những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như thế?
Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt.
Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền lập chùa Túy Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa Minh).
Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số bất cập đức nên tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ chính xác và minh triết hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo. Theo thiển ý, có lẽ hiểu theo cách này mới giải thích được chỗ bất cập của phong thuỷ.
Chú thích:
(1) Mãi đến mùa hạ năm 1806 (Bính Dần) vua mới chính thức làm lễ lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hoà.
(2) Có thể xem: La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine, hồi ký của Bissachère viết năm 1807 do Charles B. Maybon biên tập và xuất bản năm 1920, từ trang 118 đến trang 120 trong http://www.archive.org/stream/larelationsurlet00labi#page/n1/mode/2up
(3) Ngày 18 và 19/10/2008 tại Thanh Hóa có một cuộc hội thảo “Đánh giá lại chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn” được phóng viên ghi nhận là “một hội thảo lịch sử”, có lẽ vì phải chuẩn bị tài liệu đến 20 năm và tỉnh Thanh Hóa đã tài trợ gần một tỉ đồng VN để tổ chức, Có hai nhận xét quan trọng được ghi nhận:
“Theo GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, cần có nhận thức mới về nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc trên tinh thần “công minh lịch sử”.
“Tổng kết hội thảo, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam khẳng định: Cuộc hội thảo lần này đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi không chỉ của giới khoa học mà còn của dư luận xã hội, chứng tỏ những nhận thức trước đây về vai trò của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc theo hướng phê phán và phủ định đã không còn thỏa đáng nữa”
(http://www.thethaovanhoa.vn/133N20081020034945468T0/danh-gia-lai-chua-nguyen-va-vuong-trieu-nguyen-mot-hoi-thao-lich-su.htm
(4) Vua Gia Long có một thanh gươm mang tên Qui Y. Sử ghi rằng thanh gươm này có tính ưa giết người (hiếu sát), Tối hôm nào gươm tự động thoát ra khỏi vỏ thì hôm sau thế nào cũng có người phạm tội bị chém bằng thanh gươm đó. Vua Gia Long ghét tính hiếu sát của gươm bèn đem qui y cửa Phật và đặt tên là Qui Y (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu).

Nguồn: Nhà nghiên cứu lịch sử Võ Hương An(Khamphahue.com.vn)

Thứ Tư, 12 tháng 10, 2016

Bởi vì ngươi là con lừa!

Chỉ có hai người trong một toa riêng, trên chuyến tàu đêm: Một chàng trai và một cô gái. Họ còn phải đi rất xa nữa, họ làm quen với nhau và nói chuyện phiếm. Để giết thời gian, cô gái bắt đầu kể câu chuyện ngụ ngôn:
“Một lần, nhà vua quyết định đi săn. Ông gọi người hầu thân cận vào, dặn phải trông coi công chúa cẩn thận và phải thực hiện mọi mong muốn của công chúa, nếu không sẽ bị chém đầu. Đêm đến, công chúa gọi người hầu vào phòng ngủ. Người hầu bước vào phòng.
Công chúa trần truồng trên giường nói:
- Ta đang rất lạnh!
Người hầu tìm thấy cái chăn trong phòng đắp cho công chúa rồi bỏ đi. Đêm hôm sau, cũng vẫn tình huống như hôm trước, chỉ khác là trong phòng không có cái chăn nào. Người hầu liền giật cái rèm treo ở cửa sổ xuống, đắp cho công chúa và cũng bỏ đi. Đêm thứ ba thì cái rèm không còn nữa và người hầu buộc phải cởi áo của mình đắp cho công chúa.
Nhà vua đi săn trở về. Ngài cho gọi cả công chúa và người hầu đến hỏi:
- Nào, người hầu, ngươi hãy cho ta biết ngươi đã thực hiện các nghĩa vụ của ngươi ra sao?
- Muôn tâu bệ hạ, thần đã thực hiện mọi mong muốn của công chúa rồi ạ.
- Thế còn công chúa có thể nói gì?
- Hắn ta chẳng thực hiện một mong muốn nào của con cả!
- Thế thì, ngươi hãy chuẩn bị, sáng mai ta sẽ cho đao phủ chặt đầu ngươi.
Người hầu trung thực tìm đến nhà thông thái, kể lại câu chuyện đó và mong ông giải thích cho tại sao công chúa lại nói vậy. Nhà thông thái chỉ tay vào đống cỏ khô và nói:
- Ngươi có thấy đống cỏ khô đó không? Hãy đến đó và ăn đi!
- Tại sao?
- Bởi vì ngươi là con lừa!”
Kể đến đây, cả hai người trong toa tàu cùng cười phá lên vì người hầu ngu ngốc kia…
Và cũng đến lúc cô gái phải xuống tàu…
Chàng trai giúp cô mang những cái túi và vali nặng ra khỏi tàu. Trước khi chia tay, cô gái đưa cho chàng trai một ít tiền. Chàng liền nói:
- Cô ơi, cô làm sao đấy. Đơn giản là tôi muốn giúp cô thôi mà!
- Không! Anh không hiểu ý em rồi. Tiền này để anh đi mua… cỏ khô!

(Ảnh chỉ mang tính minh họa cái rèm cửa).
Sưu tầm từ FB Thái Phiên

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2016

Cuộc đấu trí giữa Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào (phần 3): Cao trào ám sát và chính biến

Hiện nay nhiều người đã nghe nói đến việc Giang Trạch Dân lên kế hoạch chính biến để đưa Bạc Hy Lai lên thay thế Hồ Cẩm Đào, vậy cụ thể diễn biến thế nào?

Hồ Cẩm Đào quyết định, vào đại hội Đảng thứ 17, ông sẽ loại bỏ Giang Trạch Dân khỏi cuộc chơi. Không ngờ Giang cũng đã sớm chuẩn bị, đưa một số người tích cực bức hại Pháp Luân Công như Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai…vào danh sách các thường ủy viên, nên bây giờ là 9 thường ủy, lại quy định mỗi thường ủy trông coi một việc, không can thiệp vào nhau, việc lớn việc nhỏ đều báo cho Giang, để ông ta quyết định.
Trong tổng số các thường ủy, bởi phe của Giang đông người, thiểu số phục tùng đa số, các người như Ôn Gia Bảo… đành im lặng chịu đựng. Lúc đưa tên Bạc Hy Lai vào danh sách thường ủy, Hồ chịu đựng hết nổi, nói, nếu đưa Bạc vào, Hồ sẽ từ chức tổng bí thư ngay.
Tăng Khánh Hồng và Giả Khánh Lâm đành nhượng bộ, nên Hồ điều Bạc đến Trùng Khánh. Kết cuộc số người hai phe Giang, Hồ ngang nhau.
Giang Trạch Dân vẫn chưa chịu thôi, chưa mưu sát được Hồ thì Giang vẫn chưa ngủ yên, nên thành tâm bệnh. Do vậy trong buổi hội nghị quốc tế tại Thượng Hải lại tìm cách mưu sát Hồ. Nhưng Hồ đã cho kiểm tra trước, tìm ra một trái bom gài nơi đó, một lần nữa Giang đã thất bại.
Khi biết Hồ lại thoát chết, mặt Giang tím lại, vỗ mạnh tay lên bàn làm sách vở, ly tách đổ ngổn ngang, đưa ánh mắt tóe lửa nhìn Tăng Khánh Hồng, nói: “Ai để lộ việc này, đem đầu nó về đây cho tôi”. Tăng tự nhận lỗi và an ủi Giang, hứa hẹn lần sau sẽ không để thất bại nữa.
Sau mấy lần bị mưu sát, Hồ vô cùng hoảng sợ, ông lập tức tổ chức một ban tham mưu thân tín tìm kế đối sách, nhưng tất cả đều bó tay. Sau cùng, vị cao nhân bên Đạo gia nói: “Xã hội và bản thân anh có được yên ổn hay không, hãy tìm một vị có mở thiên mục ở tầng thứ cao xem xét mới biết rõ, anh hãy tìm học viên Pháp Luân Công”.
Hồ liền tìm cách mời học viên Pháp Luân Công tham gia vào ban tham mưu của mình, nhưng học viên Pháp Luân Công không tham gia chính trị đã từ chối, và giới thiệu Hồ một vị phương trượng chùa Tu Di nơi có hoa Ưu Đàm nở, bên Hàn Quốc. Vị phương trượng nói với Hồ: Hoa Ưu Đàm đã nở, Pháp Luân Thánh Vương đã giáng hạ cứu người, nên ông cần đi vân du tìm Pháp Luân Công để luyện; nếu Hồ muốn xã hội phát triển, dân chúng sống thái bình an lạc, phải thả ngay tất cả học viên Pháp Luân Công đang bị giam giữ, đồng thời phải đưa Giang Trạch Dân, La Cán, Tăng Khánh Hồng tạ tội cùng thế giới.
Hồ biết rõ, nếu làm vậy chẳng khác nào làm cho đảng cộng sản tan rã, đồng thời bản thân ông sẽ ra sao đây? Hồ không dám làm vậy nên im lặng không nói gì.

Lúc nguy khó mới thấy rõ ai tốt, ai xấu

Năm 2008, tại Trung Quốc phát sinh địa chấn lớn ở Vấn Xuyên, Giang lệnh cho Quách Bá Hùng không được đưa quân đội đi cứu giúp.
Cuối cùng, đang lúc Hồ Cẩm Đào đi thực tế vùng tai nạn tại Vấn Xuyên, ngoài việc nhà cửa đổ nát hoang tàn, còn lại là thảm tượng dân chết hoặc thương tích nằm lăn lóc đầy đất, không có một quân nhân nào cứu viện, chỉ có vài người tự nguyện hợp sức cùng dân sở tại đang thu dọn phế vật, săn sóc giúp đỡ cứu trị các nạn nhân bị thương và chôn cất người chết. Hồ Cẩm Đào hỏi thăm vài người đang làm công tác cứu trợ: “Vùng này không có người cứu trợ, các anh từ đâu đến giúp vậy? Các anh là đảng viên hả?”.
Không ngờ họ trả lời: “Chúng tôi từ thành thị xuống đây cứu trợ, chúng tôi không phải là đảng viên mà là học viên Pháp Luân Công”.
Hồ Cẩm Đào thấy sững sờ, tựa hồ không nghe rõ, hỏi thêm: “Có người phái các anh đi cứu trợ phải không?”.
Nhưng những người cứu trợ nói: “Không, chúng tội tự ý tình nguyện, thấy nơi nào tai nạn nghiêm trọng, nạn nhân nhiều mà không ai cứu giúp thì chúng tôi giúp đỡ. Sư Phụ chúng tôi nói rằng, làm người cần phải trọng đức, coi trọng tâm tính, phải làm người tốt và người tốt hơn nữa, giúp đỡ người khổn nạn, do vậy chúng tôi đi cứu trợ một cách tự nguyện”. Nói xong họ lại tiếp tục lo cứu trợ, thu dọn…
Sau khi xuất hiện ngụy án tự thiêu giả mạo nhất thế kỷ tại Thiên An Môn, trong xã hội, không một ai dám đứng trước mặt một người lãnh đạo đảng mà đàm luận về Pháp Luân Công, huống chi là nói với tổng bí thư. Vì thế Lệnh Kế Hoạch giận dữ ton hót: “Thật lớn gan, dám tự xưng như vậy với tổng bí thư, phải thủ tiêu chúng ngay”. Nói xong định phái người đi bắt họ, nhưng Hồ khoát tay: “Không được, để họ đi cứu người thôi”.
Do vậy lúc khai mạc Thế vận hội Olympic 2008, Giang Trạch Dân cố tình đến trước mặt Ôn Gia Bảo, sai người của Giang khiêu khích, còn có người của Giang trực tiếp khiêu chiến với Hồ. Trong giới truyền thông lại đăng tải: “Không có lý lịch quân nhân, không có kinh nghiệm chiến đấu, không có năng lực quản lý kinh tế, làm sao có có tư cách quản lý chính trị trên quốc tế? Trong lịch sử, kỷ luật của đảng quy định: bí thư đảng có thể bị đa số đảng viên phế trừ”. Lời đăng tải này cũng bằng như mạ lị Hồ Cẩm Đào không xứng đáng, cần loại bỏ.
Giang Trạch Dân trực tiếp nói với Bạc Hy Lai: “Anh đến Trùng Khánh, học vài kinh nghiệm quản lý, sao cho có năng lực trấn áp được học viên Pháp Luân Công và Chân Thiện Nhẫn; lấy lý do tư bản chính trị, loại Trần Lương Vũ khỏi ghế bí thư, rồi anh ngồi vào đó”.

Bạc Hy Lai Gây tội ác kinh thiên động địa ở Trùng Khánh

Do vậy tại Trùng Khánh, Bạc Hy Lai mặc sức ngang ngược, vận dụng các phương pháp kỳ quái, bắt chước “Cách mạng Văn hóa” tạo hình tượng sùng bái cá nhân, để tích lũy kinh nghiệm chính trị. Ông ta ra lệnh dùng mọi thủ đoạn để lùng bắt học viên Pháp Luân Công, đem họ nhốt vào các khu quân sự bỏ hoang, rồi kiểm tra máu của họ, nếu như ở bệnh viện có bệnh nhân có tiền muốn cấy ghép nội tạng thì liên lạc với ông, ông sẽ cho mổ sống cướp lấy nội tạng của học viên Pháp Luân Công đem bán cho việc cấy ghép mà kiếm tiền.
Có thể đưa các ví dụ điển hình như, có mấy hung thần ác độc, đem 3 học viên Pháp Luân Công đã bị tra tấn đến suy yếu, rồi đưa vào tầng hầm dưới đất; một tên hung dữ cầm cây gậy to, đánh một vị học viên Pháp Luân Công đến bất tỉnh, sau đó cầm dao mổ bụng vị này và hỏi tên kia: “Mày muốn ăn phần nào?”. Hắn cắt lấy phần ấy đưa cho tên kia, thân thể người chết bị các tên ác ôn cắt ra từng phần đem xào nấu mà ăn. Hai vị học viên còn lại vẫn không nói một lời, một người rơi nước mắt, một tên ác ôn liền chỉ vào vị này cười man rợ, nói: “Ngày mai mi sẽ bị làm thịt’. Một tên ác nhân ăn no xong còn đem về cho vợ ăn, người vợ không biết gì nên cùng ăn với hắn, ăn xong hắn nói: “Ngày mai ta sẽ làm món chưng ăn”.
Có học viên Pháp Luân Công sau khi bị giết cướp đi nội tạng đem bán xong, còn bị mấy tên cắt lấy bao tử, đem tẩm gia vị mà nướng ăn, lấy phổi đem nấu canh. Bởi tại Sơn Đông có rất nhiều các loại động vật như: nhện, muỗi, kiến, rết… cảnh sát để bắt các học viên Pháp Luân Công viết hối quá thư (giấy cam kết từ bỏ tu luyện)… chúng đánh đập khảo tra khiến họ máu me thương tích đầy mình, chúng trói tay chân học viên vào các cột sắt, côn trùng ngửi thấy mùi máu từ các vết thương, bò lại cắn hút…
Có nữ học viên nhìn thấy con nhện to, sợ hãi co rút người lại, bọn cảnh sát thấy vậy, bèn cởi hết đồ cô ấy ra, cột tay chân lại cho nhện bò lên người.
Một tên đứng đầu phòng 610 (cơ qua chuyên trách đàn áp Pháp Luân Công), bắt hai con rắn độc bỏ đói nhốt vào lồng, một nam học viên bị nhốt đơn độc trong phòng nhỏ, chúng đem rắn vào dụ cho rắn cắn vào cổ vị này, hôm sau chúng trở lại, mở to mắt kinh ngạc, thấy học viên này vẫn sống, chúng lấy từ chỗ cổ bị cắn ra một cái nanh rắn.
Sau một thời gian, cảnh sát thấy các học viên bị côn trùng cắn chích mà vẫn không hề hấn gì, giống như có thần thông bảo hộ, chúng rất sợ hãi, vài tên không dám quá tàn nhẫn nữa. Cũng có tên không tin, đem chó săn đến cho cắn những học viên không chịu viết hối quá thư, chó cắn đến thương tích đầy mình, rồi chúng còn dội nước lạnh lên mình vị này, rồi nói với nhau đem vị học viên này chôn sống… 
Có cảnh sát còn bắt học viên Pháp Luân Công ăn phân uống nước tiểu, rồi ra ngoài rêu rao nói học viên Pháp Luân Công luyện công bị điên rồi, nên ăn phân uống nước tiểu.
Sau đó Bạc Hy Lai trở lại báo cáo cho Giang rằng, hắn đã học đủ kinh nghiệm chính trị tư bản “xướng hồng đả hắc” và kinh nghiệm bức hại Pháp Luân Công. Nghe xong, Giang vô cùng thích chí, nói: “Bây giờ là lúc cho tên Hồ Cẩm Đào hạ đài, rồi anh lên làm tổng bí thư, đem các kinh nghiệm trên nhân rộng ra toàn quốc, tôi mới yên tâm”.
Thêm một cuộc ám sát
Năm đó một cuộc diễn tập quân đội quốc tế được tổ chức tại vùng biển Thanh Đảo. Giang dự định lấy mạng của Hồ trong buổi diễn tập này. Hồ Cẩm Đào cũng cảnh giác, sợ bị mưu sát như lần trước, nên ngay lúc diễn tập, Hồ cho thay đổi đảo lộn vài chương trình và còn cho vài tên thân tín của Giang luôn theo mình, trong lúc theo dõi buổi diễn tập, đề phòng nếu Giang có cho bắn cũng phải kiêng dè.
Tăng Khánh Hồng thấy cuộc mưu sát Hồ bị trở ngại, liền báo cho Giang; Giang giận dữ la lớn: “Không cần quái gì hết, mấy tay thân tín của ta có chết theo Hồ cũng chẳng sao, cứ thấy Hồ ở tàu nào là bắn vào đó, tôi muốn Hồ phải chết”.
Pháo thủ được lệnh liền chuẩn bị, ngay lúc buổi diễn tập vừa kết thúc, nhân lúc quân hạm Hồ quay về, chúng định cho súng bắn vào quân hạm đó, nhưng thật kỳ quái, ngay lúc ấy trên mặt biển xuất hiện một đám sương mù che mắt tất cả, khiến các pháo thủ không xác định được vị trí các quân hạm; đến lúc sương mù tan đi thì quân hạm chở Hồ đã không còn dấu tích.
Nghe được tin Hồ lại thoát chết, như có thần phù hộ, Giang bật ngửa người trên ghế, mặt tím ngắt, vừa sợ vừa tức, không nói được một lời.
Triệt hạ Bạc Hy Lai
Hồ được mật báo: âm mưu ám sát tại buổi diễn luyện quân không thành, Giang, Tăng, Chu, Bạc bốn người đang mật nghị tại nhà Chu, chuẩn bị bắt chước phương thức Đặng Tiểu Bình đã dùng phế truất Hoa Quốc Phong, để phế truất Hồ, rồi đưa Bạc lên thay thế. Hồ Cẩm Đào vội vã triệu tập ban tham mưu của mình để thương nghị kế sách; có người đề nghị cho Hạ (Hạ Quốc Cường) đi bắt Bạc trước để Giang mất đi vây cánh tương lai, có người nói: tuy Hạ có cừu hận với Bạc, vì Bạc trong lúc ở Trùng Khánh tích lũy tài phú chính biến đã phế trừ nhiều tay chân cũ của Hạ, nhưng Hạ là kẻ hai lòng, không thể tin tưởng.
Hồ nghĩ một hồi rồi nói: “Bắt Bạc để thị uy với Giang, tôi đã có cách”.
Hồ bí mật triệu Hạ đến nhà mình, đưa ra một tập hồ sơ, rồi nói, trung ương có người đưa cho Hồ danh sách báo cáo việc tham ô của gia đình Hạ, cấp trên đã bí mật ghi lại thời gian, địa điểm, phương thức và số loại tham ô của người nhà Hạ.
Hạ sợ hãi toát mồ hôi, hai tay đan vào nhau, đầu óc quay cuồng, cầu xin Hồ đứng ra giải quyết giùm. Bấy giờ Hồ mới thủng thẳng nói: “Tôi mời anh đến nhà riêng của tôi, đây không phải chỗ làm việc. Việc nhà anh có nhiều người tham ô, có việc còn hơn thế nữa, anh cũng không nên quá căng thẳng”.
Hạ tỏ vẻ không hiểu, đưa mắt nhìn Hồ, Hồ ngừng một chút, rồi nói: “Còn có người muốn làm hủ bại đảng, làm tan rã đảng. Đảng mà bị hạ đài, mọi người sống không yên đâu. Ví như Bạc ở Trùng Khánh, là một tay âm mưu nham hiểm, là phần tử đại tham ô. Tôi cho anh phụ trách một đoàn đội đi thực tế về việc tham ô của Bạc, anh nhận không?”.
Hạ đứng dậy, chắp hai tay nói: “Hạ tôi đáng muôn lần chết, xin lãnh lệnh đi thực tra kỹ lưỡng”.
Do vậy mới có việc Bạc Hy Lai bị kỷ luật đảng. Hạ cũng nghĩ ra cách ly gián Bạc với Vương Lập Quân – một tâm phúc chuyên bức hại Pháp Luân Công của Bạc. Hạ Quốc Cường đã ba lần nói với Bạc về vấn đề Vương Lập Quân phạm tội, khiến Bạc vô cùng hoang mang.
Lần thứ nhất, Hạ đôn đốc đảng ủy Trùng Khánh, xét xử án Vương Lập Quân trước kỳ điều tra. Hạ cường điệu nói với Bạc: đây là chỉ thị quan trọng, nhiệm vụ cốt lõi của trung ương đưa xuống lần đầu để kiểm tra tư cách chính trị, tư tưởng, tác phong của anh.
Lần thứ hai, tại buổi sinh hoạt chính trị của trung ương cục, Hạ nói với Bạc, trong nội bộ có báo cáo về Vương Lập Quân lúc làm cục trưởng công an tại thị trấn Thiết Lĩnh và lúc làm cục trưởng công an tại thị trấn Cẩm Châu ở Liêu Ninh, khi thu quét phần tử hủ bại hắn đã làm nhiều án giả, án oan khiến nhiều người bị gia phá nhân vong. Làm sao giải quyết vấn đề này đây? Hạ nói thêm, cần phải cách chức rồi mới thanh trừ được, nếu không sẽ là áp lực rất lớn cho trung ương, với anh áp lực cũng không nhỏ đâu.
Bạc hỏi: “Đây là ý kiến của cục chính trị thường ủy trung ương, của trung kỷ ủy hay của Hạ thư ký vậy?”. Hạ không đáp thẳng, chỉ nói: “Vì để duy hộ việc thanh lý Trùng Khánh, duy hộ danh dự của đảng ủy và chính phủ”.
Sau đó Hạ lại kêu riêng Vương Lập Quân lại, lấy tội tham ô hủ bại và việc thăng chức công an bộ để vừa uy hiếp vừa dụ dỗ Vương, yêu cầu Vương bí mật thu thập lời nói, ý kiến của Bạc lúc riêng tư cũng như trong hội nghị, yêu cầu Vương giám sát lời nói của Bạc. Ngay lần đầu tiên lúc Vương báo cáo với Hạ các tin tức về nội bộ của Bạc, Hạ lại cho người báo cho Bạc biết là Vương đang bán đứng Bạc.
Lần thứ ba, Hạ lại yêu cầu Bạc điều tra Vương cho kỹ. Bạc hiểu rõ quan trường hiểm ác, biết rõ cuộc đấu tranh chính trị sắp phát khởi, không thể tránh được. Bạc đành phải “đoạn vĩ cầu sinh” (cắt đuôi để giữ mạng sống) quyết định “tiên hạ thủ vi cường”.
Trước nhất Bạc cần xử lý Vương Lập Quân trước, không để Vương rơi vào tay trung ương ở Bắc Kinh. Bạc bắt đầu giám sát Vương, đợi đúng thời sẽ bắt Vương.
Trước tiên Bạc Hy Lai lo thanh lý vây cánh của Vương Lập Quân. Các người của Vương như: bảo mẫu, đầu bếp, tài xế…tất cả 11 người đều bị bắt. Bạc còn bức Vương “thoát cảnh” (rời ngành công an) bằng cách điều Vương vào chức vị phó thị trưởng về văn hóa.
Vương đến chỗ Bạc khóc lóc kể khổ, bị Bạc tát tai chảy máu mũi, nổ đom đóm mắt. Vương nghĩ đến Liễu Văn Cường, nguyên là cục trưởng cục công an kiêm cục tư pháp, trước khi bị Vương giết, từng nói với Vương: “Vương à! Mày vì tên Bạc mà bán mình, số phận tao hôm nay sẽ là số phận mày trong tương lai đó”.
Vương bị quản thúc tại gia, Bạc nói với mọi người là Vương không làm tròn công tác, tâm lý bị ức chế (nôm na gọi là bệnh tâm thần), cần an dưỡng một thời gian. Vương biết rõ Bạc muốn lấy mạng mình, không những thế cả Chu Vĩnh Khang và người của bộ công an, bên trung ương cũng muốn lấy mạng mình. Muốn giữ mạng sống, chỉ còn cách duy nhất là trốn vào đại sứ quán Mỹ.
Vì thế, nhân lúc tối trời, lính canh gác không đề phòng, Vương giả bộ bên cửa sổ uống rượu say cho lính canh thấy, rồi vào phòng nghỉ, giả trang thành phụ nữ má phấn môi son độn ngực, nhân trời chưa sáng lái xe đi thẳng đến đại sứ quán Mỹ.
Bạc Hy Lai hốt hoảng hạ lệnh đuổi gấp với 70 xe cảnh sát và bọc thép, đây cũng chính là sự kiện mở đầu cho cuộc đấu đá quyền lực cấp cao nhất của ĐCS Trung Quốc
Bên phía Mỹ báo cho Hồ Cẩm Đào. Hồ thất kinh, lập tức lệnh cho khâm sai của bộ công an và bộ an ninh quốc gia đến Thành Đô, lệnh cho quân đội Tứ Xuyên cô lập quân đội Trùng Khánh. Khi khâm sai đến sứ quán Mỹ, thì thấy quân của Bạc Hy Lai đã bao vây sứ quán Mỹ, lúc ấy quân đội Tứ Xuyên và quân đội Trùng Khánh cũng đang bắn nhau. Giải quyết mọi việc xong, khâm sai đưa Vương về Bắc Kinh.
Vương đưa ra chứng cớ các việc: Bạc Hy lai nghe lén điện thoại của Hồ, Ôn, việc tổ chức chính biến sẵn sàng đảo chính giành lại quyền lực, việc mổ cắp nội tạng sống của học viên Pháp Luân Công, của người nước ngoài nhập cư làm thuê không giấy tờ, của người lang thang, ăn xin, lấy nội tạng đem bán, thân thể đem nấu ăn.
Đặc biệt rút lấy não tủy của học viên Pháp Luân Công cung cấp cho Giang Trạch Dân, và âm mưu giết Tập Cận Bình để đoạt chính quyền.
Trước sự việc trên Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo cùng nhất quyết bắt Bạc Hy Lai.
Vì Giang Trạch Dân sắp xếp việc nghe lén điện thoại của Hồ, Ôn, nên hắn lập tức triệu tập hội nghị lâm thời đặc biệt để giải quyết việc Trùng Khánh. Giang nói: “Cần phải xét đến ảnh hưởng quốc tế và sự đoàn kết trong nội bộ đảng, cần xem lại hình tượng của đảng, kết tội Vương, còn đối với Bạc chỉ cần giáo dục là đủ”.
Giang bao che cho Bạc vì có ý phế bỏ Tập Cận Bình, cho Bạc giữ chức tổng bí thư, để làm cái máy cho Giang điều khiển, tiếp tục thao túng chính trường.
Lần đầu tiên Hồ dám cả gan lên tiếng phản đối Giang: “Không bắt Bạc thì làm sao còn có luật pháp quốc gia, làm sao còn có kỷ luật của đảng? Làm sao ăn nói với nhân dân, với lịch sử?”.
Giang vờ khóc, nói: “Tôi có thoải mái được gì đâu? Vì để thúc đẩy cải cách khai phóng, tôi hứa cho các nhà tư bản gia nhập đảng, cải sửa tư tưởng Mác – Lê; vì để giữ gìn quyền lực của đảng, tôi đã chịu toàn thế giới lăng mạ khi tranh đấu với Pháp Luân Công; vì để ổn định chính trị xã hội, tôi đã bị thế giới lên án; vì để có dân chủ trong nội bộ đảng, lập ra cửu quyền phân vị (9 người thường ủy), mỗi người trông một việc, phá đi quy củ lịch sử. Kuhn nói tôi đã cải cách được Trung Quốc, tôi vì sự phát triển của đảng mà hao tổn tâm huyết, có ai biết được cái khổ của tôi, có ai hiểu được lòng tôi? Có ai chịu tội cùng với tôi? Đặng Tiểu Bình có thể cải cách, có thể chỉ định người tiếp ban, tại sao tôi không thể làm như vậy?”.
Nói xong, Giang cho tay vào túi lấy vật gì đó, mọi người tưởng hắn lấy lược ra chải đầu, không ngờ hắn lấy ra khăn tay lau nước mắt. Đây là lần thứ hai, Giang lấy khăn lau nước mắt trước mặt mọi người.
Hồ Cẩm Đào không biết làm thế nào, bèn nói: “Xin các lão thường ủy quyết định cho”.
Giang Trạch Dân đổi khóc thành cười, cho là sẽ dựa vào các người của Giang như Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm mà tăng số phiếu quyết định để thủ thắng.
Không ngờ ngoài các tay chân của Giang trong các lão thường ủy, thì tất cả các lão thường ủy còn lại đều quyết định bắt Bạc.
Tranh luận tới lui, cuối cùng Tập Cận Bình quyết định. Tập là người do Hồ, Ôn và tay chân của Giang thỏa thuận cho tiếp nhận chức tổng bí thư kế tiếp, Giang muốn nhân lúc Tập trong thời kỳ quá độ, vào đại hội thứ 19, Chu Vĩnh Khang và Quách Bá Hùng sẽ sử dụng lực lượng quân đội mà hạ bệ Tập, đưa Bạc lên thay thế.
Tập Cận Bình suy nghĩ rất lâu, lý trí bảo Tập viết hai chữ “đồng ý”.
Kỳ thực Tập Cận Bình là người vô tình mà ngồi vào ghế tổng bí thư. Tập biết rõ, trong lịch sử ĐCSTQ, những người lãnh đạo đảng, bao gồm cả những người bị bức hại chết trước và sau lúc Cách mạng văn hóa như Bành Đức Hoàn, Lý Lập Tam, Lưu Thiếu Kỳ…không ai có kết cục tốt đẹp cả. Đối với việc Giang Trạch Dân, La Cán dàn dựng ngụy án tự thiêu dối trá nhất thế kỷ, cùng những lời hoang ngôn xảo trá bôi nhọ vu cáo Pháp Luân Công với mục đích bức hại Pháp Luân Công trên phạm vi toàn cầu, Tập Cận Bình không muốn làm việc dối trá lịch sử, cũng không muốn bị liên can. Đây là lý do chính khiến Tập rất đắn đo khi nhận chức tổng bí thư. Sau này Hồ, Ôn bắt Chu Vĩnh Khang giao cho Tập xử lý.
Sau khi Bạc Hy Lai bị bắt, Chu Vĩnh Khang phản kháng quyết liệt, đem lực lượng vũ cảnh xung kích Trung Nam Hải, cũng lại ám sát Tập Cận Bình. Do Tập yêu cầu, nên Hồ, Ôn cùng lệnh bắt Chu Vĩnh Khang.
Tăng Khánh Hồng vì muốn chiếm lấy quyền lực nên đảo loạn liên tục. Chuyển kế sách từ bạo lực khủng bố quốc gia chuyển sang khủng bố giới bình dân, tại xã hội liên tục xảy ra các hoạt động sát hại người dân bình thường, bao gồm các việc: chém chết người ở nhà ga Quảng Đông, Vân Nam; kho hóa dược phát nổ tại Thiên Tân, Hồ Bắc, Tứ Xuyên; tàu đắm chìm ở Trường Giang…
Cũng tại Hồng Kông, Tăng Khánh Hồng cho phát hành “sách trắng” yêu cầu phải để Đảng cộng sản lãnh đạo người dân Hồng Kông, khiến dân chúng kháng nghị, để cho quân đội trấn áp, mục đích của hắn là làm loạn xã hội; lấy cớ xã hội đảo loạn để cho Giang Trạch Dân xuất hiện đổ trách nhiệm cho Tập Cận Bình mà phế truất Tập.
Sau này cuộc trấn áp tại Hồng Kông bị Tập ra lệnh đình chỉ. Còn các loại hoạt động khủng bố tại Trung Quốc, vì dân chúng trải qua các năm tháng bị đảng cộng sản đe dọa làm cho sợ hãi nên cũng không dám biểu tình phản đối, gây loạn xã hội… các âm mưu của Giang, Tăng đều thất bại.
Hồ Cẩm Đào tìm cách giúp Tập Cận Bình, đồng thời loại bỏ quyền lực của Giang Trạch Dân
Trước lúc thoái hưu, Hồ Cẩm Đào lại phát hiện ra tên Lệnh Kế Hoạch – bí thư thân tín của Hồ là kẻ hai mặt, là kẻ do Giang Trạch Dân phái đến, để đôn đốc việc bức hại Pháp Luân Công, kết hợp với Tăng Khánh Hồng và Chu Vĩnh Khanglàm loạn. Do đó sau này khi Tập ra lệnh bắt Lệnh Kế Hoạch, có hỏi ý Hồ. Hồ nói: “Lệnh là đứa vô nhân tính, hắn không phải người của tôi”.
Tại đại hội thứ 18, Hồ thoái hưu, mọi người muốn Hồ trông coi quân quyền, nhưng Hồ đề nghị tất cả quyền lực giao cho Tập Cận Bình, Hồ lại quy định là tất cả lãnh đạo thoái hưu không được can thiệp vào cách làm việc của Tập.
Đây chính là giữa đại chúng mà Hồ đánh vào mặt Giang Trạch Dân. Bởi từ trước đến nay khi Tổng bí thư về hưu nhưng thực chất là Thái Thượng Hoàng vẫn tìm cách đưa tay chân vào và nắm quyền lực.
Nay Hồ Cẩm Đào chủ động trao hết quyền cho Tập Cận Bình thì tức là Giang Trạch Dân cũng tương tự không được phép nắm quyền nữa. Từ đây Giang không có quyền ra ý kiến, chỉ thị hay kiến nghị gì đối với Tập trong việc chính trị, đồng thời Hồ cũng triệt tiêu phòng làm việc của Giang .
Sắp xếp đâu đó xong xuôi, Hồ đã khóc ngay tại hội nghị. Hồ nghĩ lại thời mình nắm chính quyền trong mười năm thật không dễ dàng, nghĩ lại còn có nhiều việc không dám làm hoặc làm không tốt, xấu hổ với lịch sử với nhân dân, nghĩ lại việc không dám ra lệnh ngưng việc bức hại Pháp Luân Công, nghĩ lại việc hoàn cảnh chính trị và nhân quyền ở Trung Quốc lúc mình nắm quyền lại không cải biến được gì, Hồ khóc là vì thế.
Do vậy, sau này khi Tập Cận Bình “đả hổ diệt ruồi”, Hồ đã thoái hưu không can thiệp, nhưng cũng biểu thị đồng tình, ủng hộ.
(Hết)
Chánh Bình, dịch từ Epoch Times

Theo tinhhoa.net

Thứ Tư, 5 tháng 10, 2016

Cuộc đấu trí giữa Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào (phần 2): Ám sát


Cuộc đối đầu giữa Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào lên cao trào sau khi Hồ Cẩm Đào lên nắm quyền, chúng ta cùng xem tiếp phần 2

Sau khi biết Tiểu Trương được nuôi tại nhà mình, Hồ Cẩm Đào phát hoảng, gọi Tiểu Trương đến phòng làm việc của mình tại cục cảnh vệ, nói: “Đây là đấu tranh chính trị, ‘anh chết tôi sống’, nếu cháu còn ở nhà ta, thì cháu không nên luyện Pháp Luân Công nữa”.
Tiểu Trương khóc nói:
“Hồ bá bá, cháu có vài điều chưa rõ lắm, mong bá bá chỉ dạy: Vì sao trước năm 1999 các giới trên toàn quốc đều khen ngợi Pháp Luân Công, các cấp chính phủ đều ủng hộ Pháp Luân Công, vậy mà sau năm 1999 tất cả đều phê phán, trừng phạt Pháp Luân Công? Vì sao tất cả sách vở, băng đĩa, tư liệu về Pháp Luân Công đều bị tịch thu và thiêu hủy hết, không để cho nhân dân tự coi, tìm hiểu mà hiểu rõ chân tướng?
Vì sao toàn quốc không có học viên Pháp Luân Công nào tự thiêu mà chỉ tại Thiên An Môn ở Bắc Kinh mới có tự thiêu? Vì sao trước năm 2001 không có tự sát tự thiêu, sau năm 2001 cũng không có tự sát tự thiêu mà ngay tại năm 2001 mới có? Mà cũng chỉ có 1 lần duy nhất? Vì sao toàn thế giới đều có người luyện và ủng hộ Pháp Luân Công, chỉ tại Trung Quốc là không được? Nếu nói Pháp Luân Công là muốn cướp quyền chính quyền, thì không lẽ các nước trên thế giới đều không có chính quyền? ”.
Hồ Cẩm Đào mặt tối sầm lại, không thốt được lời nào. Lúc này có thuộc cấp đến báo cáo, nói: “Phó chủ tịch Quân ủy Quách Bá Hùng đem theo vài quân nhân đến muốn gặp”.
Hồ Cẩm Đào chẳng chú ý, huơ tay nói: “Không tiếp!”. Không ngờ Quách Bá Hùng đã dắt vài người đi vào, nói: “Nghe nói có kẻ “phản cách mạng” vào trong phòng làm việc của thủ trưởng, nên chúng tôi đến để bảo vệ thủ trưởng”.
Hồ đứng dậy, miễn cưỡng bắt tay Quách nói: “Không có gì đâu! Các anh về đi”.
Quách nói: “Chúng tôi được lệnh đến đây bắt người đi”. Nói xong, kêu hai người tùy tùng đến bắt Tiểu Trương.
Tiểu Trương sợ hãi cầu cứu Hồ Cẩm Đào: “Hồ bá bá, Hồ phó chủ tịch, trời đất đều hiếu sinh, cháu là kẻ bất hạnh, xin hãy cứu cháu!”.
Hồ nói với Quách: “Tôi hoàn toàn tán thành thái độ của chủ tịch Giang đối với Pháp Luân Công”. Cảm thấy lời nói mình chưa nặng ký, nên Hồ nói thêm: “Đồng ý trấn áp”. Hồ lại hạ giọng: “Nhưng cô bé này, gia đình không còn ai, chẳng nơi nương tựa, để tôi lưu lại chút nhân tình, cho tôi giữ cô ấy lại để dạy dỗ có được không?”.
Quách nói: “Chúng tôi phải trở về theo lệnh của Giang chủ tịch”. Nói xong bắt Tiểu Trương đi.
Sau khi Tiểu Trương bị bắt. Hồ nghiêm mặt hỏi Lệnh Kế Hoạch, là thuộc cấp của mình: “Làm sao Giang biết con bé có mặt nơi đây?”.
Lệnh Kế Hoạch trả lời: “Dạ, tôi cũng không biết, xin hỏi Quách Bá Hùng xem?”.
Nghĩ ngợi hồi lâu, Hồ khoát tay nói: “Thôi đi!”

Giang Trạch Dân trao quyền lực cho Hồ Cẩm Đào nhưng vẫn tìm được cách nắm quân đội

Do Giang Trạch Dân đã bức hại học viên Pháp Luân Công trên toàn quốc một cách tàn khốc, vi phạm nhân quyền rất nghiêm trọng, mức độ thảm khốc trước nay chưa từng có. Học viên Pháp Luân Công trên toàn thế giới vì để phản đối tội ác diệt chủng này, đã đệ đơn lên tòa án của các quốc gia, lên Liên Hiệp Quốc tố cáo Giang Trạch Dân.
Giang sợ hãi, vội vận dụng các lực lượng ngoại giao, quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế, để đòi hỏi các quốc gia thực hiện quyền bãi miễn và miễn tố đối với các nguyên thủ cho hắn. Thế nhưng, trong buổi giao thời giữa năm 2001 và năm 2002, do Đặng Tiểu Bình ủy thác, Giang Trạch Dân phải giao quyền lực cho Hồ Cẩm Đào. Khi không còn giữ chức tổng bí thư và chủ tịch nước, Giang sẽ không còn được hưởng quyền bãi miễn nữa, nên lại càng khủng hoảng.
Các nước trên thế giới bắt đầu kết án việc làm của Giang. Lúc Giang lấy lợi để dụ hoặc, thì vài quốc gia không chấp nhận như Tây Ban Nha, Argentina đã cho tòa án gửi lệnh truy nã đến Trung Nam Hải.
Giang cực kỳ hoảng sợ liền phái đặc phái viên đến tòa án các nước đó du thuyết, nói sẽ dùng hình thức “văn cách” để kết thúc bức hại, bao nhiêu học viên Pháp Luân Công bị bức tử thì sẽ có bấy nhiêu cảnh sát tham gia bức tử bị xử bắn, thậm chí còn xử bắn nhiều hơn. Nhưng Học hội Pháp Luân Đại Pháp không đồng ý, bởi vì các cảnh sát đó hoặc bị cấp trên lừa dối, hoặc bị lợi dụng, hoặc bị dụ dỗ bởi quyền lợi. Nếu chỉ trừng phạt các cảnh sát, tương lai cái ác vẫn tiếp tục bức hại nhân dân Trung Quốc. Vì tương lai của đất nước, cần trừng phạt kẻ đầu não là Giang Trạch Dân, làm gương cho thế hệ mai sau.
Do vậy Giang Trạch Dân nghĩ đến sức mạnh của quyền lực, đặc biệt là quân lực. Trong lịch sử, ĐCSTQ luôn dùng quân lực để khống chế đảng viên và khuynh đảo quốc gia: Mao Trạch Đông để có được quyền lực tối cao, đã đoạt lấy chính quyền. Đặng Tiểu Bình để thu tóm quyền lực đã phế truất Triệu Tử Dương, Na Vương Minh, Hoa Quốc Phong, Hồ Diệu Bang…Tóm lại nếu không nắm vững quân đội, sẽ bị hạ đài thê thảm. Vì thế Giang nghĩ đến việc nắm lấy quân đội khi chuyển giao quyền lực, do vậy mới có việc Trương Vạn Niên thúc ép trong hội nghị.
Trương vận dụng 20 vị đứng đầu trong quân đội, tại đại hội 16, dù Giang Trạch Dân bàn giao quyền lực cho Hồ Cẩm Đào nhưng vẫn giữ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương để nắm quân đội. Trương Vạn Niên cùng đồng bọn đồng đề cử Giang Trạch Dân kế nhiệm chức chủ tịch quân ủy, các người như Quách Bá Hùng, Từ Tài Hậu liền đồng ý. Trương liền hỏi những người chưa có ý kiến, như Lưu Hoa Thanh… thì tất cả đều đồng ý. Cuối cùng, y hỏi Hồ Cẩm Đào, người nãy giờ vẫn im lặng: “Với việc Giang chủ tịch lưu nhiệm chức chủ tịch quân ủy, đồng chí Cẩm Đào có ý gì không?”.
Lúc đó Hồ Cẩm Đào nghĩ: “Tính khí Giang Trạch Dân rất tàn ác, việc đề nghị cho Giang lưu nhiệm chủ tịch quân ủy, chắc chắn do y chủ mưu, nếu mình không đồng ý, hắn sẽ lập tức kêu lính gác ngoài cửa bắt mình đi, với lý do mình thuộc ‘phần tử xét lại’ hay một phần tử nào đấy do hắn nghĩ ra. Nhưng Hồ lại nhớ đến lời ‘chế ngự, phản đối’ mà Đặng Tiểu Bình đã dặn…”.
Sau trận cuồng phong nổi lên trong tâm, Hồ biết cần phải bày tỏ thái độ ngay, thời gian đại hội đã kéo dài, mọi người đều biết Hồ không đồng tình. Hồ ngước nhìn mọi người, khóe miệng nhếch lên, không biết đang cười hay khóc, nói: “Cá nhân tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị của đồng chí Quách Bá Hùng”. Hồ cảm thấy tiếng nói của mình chưa đủ mạnh, nên nở thêm một nụ cười, cái cười lần này xem ra chất lượng hơn, thái độ thêm rõ ràng: “Hy vọng Giang chủ tịch giúp đỡ”.
Giang Trạch Dân ra vẻ miễn cưỡng, nhưng trong lòng cực kỳ hoan hỷ, khẽ liếc Trương gật đầu hài lòng, dĩ nhiên không ai nhận ra việc này, chỉ có Trương là ngầm hiểu. Xem thấy nét mặt Hồ đầy vẻ gượng gạo, đang cố lấy lại dáng vẻ tự nhiên, Trương nói luôn: “Hội nghị đến đây là tốt rồi, ta nghỉ thôi”.
Hồ trở về phòng làm việc, nói với Lệnh Kế Hoạch: “Từ nay về sau, việc trấn áp Pháp Luân Công do Giang phụ trách, thực thi, trông coi mọi sự, chúng ta không quản cũng không nhúng tay vào”.
Trong lịch sử, tất cả việc bức hại những người có chính tín, rốt cuộc đều bị Trời phạt. Nhiều thiên tai địa ách xảy ra trong thời kỳ Hồ Cẩm Đào kế thừa Giang Trạch Dân. Vì bị các quốc gia khởi tố nên Giang rất cừu hận các người như Kiều Thạch, Lý Thụy Hoàn, Chu Dung Cơ…từ đó cừu hận luôn Hồ Cẩm Đào, vì học viên Pháp Luân Công không khởi tố Hồ. Do vậy Giang tìm đủ cách để Hồ phải dính líu vào việc bức hại Pháp Luân Công, để Hồ cùng chịu nhục chung với mình trong lịch sử. Giang cùng Tăng Khánh Hồng, một mặt âm mưu ám sát Hồ Cẩm Đào, một gia tăng việc bức hại Pháp Luân Công để đổ tội cho Hồ.

Kế hoạch dùng dịch bệnh giết Hồ Cẩm Đào

Năm 2003, ở Quảng Đông có người bị chết vì bệnh truyền nhiễm về hô hấp, sau đó bệnh này lây lan toàn quốc. Giới y học không biết là bệnh gì. Sau đó tại Bắc Kinh, mỗi ngày đều có nhiều người chết vì bệnh này, Giang vui mừng tột bậc, cho rằng ngày chết của Hồ Cẩm Đào đã tới gần. Giang biết ai ở trong vùng truyền nhiễm đều bị nhiễm bệnh, bệnh đã nhiễm thì không chết cũng thành phế nhân, nên phái Hồ đến khu vực truyền nhiễm nghiêm trọng nhất để vấn an nhân dân, hỏi thăm bác sĩ. Còn Giang cùng gia đình, tay chân thuộc hạ rời đi xa, tìm đến Cửu Hoa sơn, Phổ Đà sơn, Ngũ Đài sơn, tìm khắp chùa miếu, đạo quán linh thiêng, cầu Bồ Tát thần tiên tha thứ cho mình. 
Hồ biết việc cử mình đến vùng truyền nhiễm thị sát, là mưu của Giang muốn giết mình mà không cần dùng dao, nên nhờ một vị cao nhân bên Đạo gia toán quái giúp, xem mình đi đến khu vực bệnh lây nhiễm có bị nguy hiểm gì không? Cao nhân nói:“Ngài có sứ mệnh lịch sử, không dễ gì mắc bệnh đâu!”. Do vậy mới có việc Hồ thăm hỏi các bác sĩ trong vùng có bệnh, đăng trên tin thời sự. Sau khi Giang Trạch Dân xem qua thời sự, cảm thấy thất vọng.
Kế hoạch dùng súng bắn vào Hồ Cẩm Đào
Không lâu sau, bệnh truyền nhiễm lắng xuống, Hồ liên tục xuất hiện trên tin thời sự, Giang vô cùng thất vọng. Tăng Khánh Hồng nói nhỏ với Giang: “Qua sự việc bệnh truyền nhiễm, Hồ rất hận ông, nếu không trực tiếp…”. Tăng ngừng nói, đưa tay giả như con dao chặt xuống một cái.
Giang nói: “Tôi thì nghĩ là phải do anh thực hiện, tôi mới an tâm, hắn chẳng thể uy hiếp gì được tôi, mà tôi chỉ lo rằng, trong việc trấn áp Pháp Luân Công hắn chẳng có liên can gì, sau này vụ án này khởi ra, chúng ta sẽ chẳng có ngày nào yên đâu”.
“Vậy thì trong buổi diễn quân, chúng ta sẽ…”, Tăng dừng lại, đưa mắt nhìn Giang chờ đợi.
Dĩ nhiên là Giang ngầm hiểu, nói với Tăng: “Anh mau đi sắp xếp việc này, sao cho mọi việc được chu toàn”.
Dựa vào tình hình quốc tế, Cục chính trị đưa ra cuộc diễn tập hải quân tại Hoàng Hải vào năm 2006. Với âm mưu của Giang, Tăng định là trong buổi diễn tập hải quân sẽ nã súng vào Hồ. Âm mưu này họ đã chuẩn bị kỹ trong11 tháng. Cuối cùng vào thời khắc diễn tập tại Hoàng hải, đang lúc Hồ đứng trên quân hạm quan sát, đúng lúc cao trào nhất thì súng trên quân hạm diễn luyện bắn vào Hồ. Trên tàu của Hồ có 5, 6 người bị bắn chết. Hạm thuyền chở Hồ vội chạy xa đến nơi an toàn, Hồ ngồi trực thăng bay đến Thanh Đảo, sau đó đi đến Vân Nam, lắng nghe tin tức thì thấy Bắc Kinh không có động tĩnh gì, bèn ra lệnh cho quân đội, cảnh vệ chuẩn bị sẵn sàng, sau đó mới từ từ về Bắc Kinh.
Về tới Bắc Kinh, Hồ ra lệnh cho Lệnh Kế Hoạch phụ trách chọn người từ các đội cảnh vệ, quân đội Bắc Kinh, vũ cảnh, quốc an, công an…lập thành các đội trinh sát, dò xét âm mưu mưu sát, nội trong một ngày phải cho y rõ.
Lệnh Kế Hoạch tức thời báo cho quân ủy gọi người phụ trách buổi diễn tập trên Hoàng Hải đến.
Tư lệnh hải quân Trương Định Phát liền đi Bắc Kinh, vừa đến Bắc Kinh, Trương liền bị bắt. Tay chân của Hồ làm đủ cách: uy hiếp, dụ dỗ, cương nhu để buộc Trương khai ra ai chủ mưu ám sát Hồ. Trương Định Phát một mực khai là do bắn nhầm, xin chịu tội chết.
Người của Hồ nói: “Tội chết ư? Đâu có dễ vậy. Thật ra chúng tôi đã sớm biết việc này, chẳng qua là muốn đề bạt người của anh lên làm việc tại Trung Nam Hải thôi”.
Trương nói: “Tôi không hiểu lời anh nói”.
Khi nghe Lệnh Kế Hoạch báo cáo lại buổi tra vấn, Hồ nói: “Tôi không tin không khui được cái miệng của hắn. Kêu quân ủy cùng tra vấn hắn, bất kể thế nào đều phải giữ lại khẩu cung”.
Do vậy, Lệnh Kế Hoạch bèn kêu Từ Tài Hậu đến bàn bạc, thảo luận cả ngày, sau đó Từ Tài Hậu trực tiếp tra vấn Trương tại phòng giam. Trương bị treo lên, bị dùng thanh sắt nung đỏ, dùng gậy điện… tra tấn đủ cực hình, kêu la thảm thiết. Sau buổi tra tấn, toàn thân Trương máu me đầm đìa, có chỗ lòi cả xương, tóc tai bê bết máu. Từ Tài Hậu quát: “Ai ra lệnh mày bắn, có phải vì mày hận Hồ không đề bạt mày phải không?’.
Trương thều thào nói: “Không… phải… tôi”, rồi gục đầu chết.
Hồ đang nói với Lệnh: “Không nói? Chúng ta có nhiều thời gian, hãy để cho hắn thông suốt, rồi hắn sẽ nói thôi…”, thì Từ Tài Hậu bước vào nói: “Trương sợ tội đã treo cổ lên song sắt cửa sổ chết rồi”.
Thật ra Hồ Cẩm Đào trong lòng đã sớm biết ai là kẻ chủ mưu. Để trả đũa Giang Trạch Dân, mượn lý do tuổi đã đáo hạn, cho các ủy viên lớn tuổi về hưu, bức bách Tăng Khánh Hồng thoái hưu; lại lấy danh nghĩa phản hủ bại, bắt Trần Lương Vũ – người mà Giang Trạch Dân định cho nhận chức thủ tướng.
Thấy vậy cũng chưa đủ, Hồ còn đưa ra một bộ lý luận để cảnh cáo bè phái của Giang, đồng thời cũng để cho mọi người biết y đã nắm quyền, ai không nghe lời sẽ có kết cục không tốt. Bộ lý luận của Hồ là: “bất chiết đằng, bất tùng giải, bất động giao” (Không gây sức ép, không buông trễ, không lay được) và “kiến lập xã hội hài hòa”. Hiển nhiên đây chính là có ý phản đối việc bức hại Pháp Luân Công của Giang, đồng thời còn yêu cầu toàn xã hội học tập quan điểm khoa học của mình. Sau một tháng phát động phong trào học tập, Hồ cảm thấy khá trôi chảy, liền đi vài nơi để thị sát xem rốt cuộc xã hội có theo lời mình nói không.
Đến Hắc Long Giang. Nhìn hai bên bờ sông phong cảnh sơn thanh thủy tú, Hồ đề xuất đi đến đảo Khố Hiệt, Hạt Tử để xem. Tư lệnh đóng quân vùng Đông Bắc nói:“Nơi đó không nên đi”.
Hồ biến sắc hỏi: “Vì sao?”.
Vị tư lệnh nói: “Vùng đó thuộc nước Nga, không có quân ta đóng quân”.
Hồ cho là mình nghe không rõ, bèn lại gần vị này hỏi lại: “Tại sao lại thuộc Nga? Một vành đai từ Đông Siberia đến đảo Hạt Tử, chẳng phải ta có 8 trăm vạn quân trú đóng sao? Làm sao không thể đến?”.
Tư lệnh nói: “Trước năm 2004, quân của ta đã lui vào nội địa 5 trăm dặm rồi, chỗ đó bây giờ thuộc về nước Nga”.
Hồ đứng ngay lại, đưa mắt nhìn vị tư lệnh, hỏi: “Ai ra lệnh nhường đất đó cho Nga. Ai ra lệnh rút quân 5 trăm dặm? Sao tôi không biết?”.
Tư lệnh: “Chúng tôi được thông báo từ quân ủy, do Giang chủ tịch mệnh lệnh”.
Một cơn gió lạnh thổi qua, làm Hồ run lên, quay lại nói với Lệnh Kế Hoạch: “Đồ Môn Giang có cá tươi không? Ta trở về thị trấn ăn cá đi, tất cả đói rồi đấy”.
Lệnh Kế Hoạch: “Vâng, đói rồi!”.
Về đến thị trấn, đoàn xe đi qua một tiệm sách lớn nhất khu phố, Hồ chợt khởi ý, quay lại nói với Lệnh Kế Hoạch: “Đến hiệu sách xem thử, hiện tại họ đang bán sách gì?”.
Đến tiệm sách, Hồ thấy chỉ toàn bày bán cuốn “tam đại biểu” (sách của Giang) mà không hề bày bán “khoa học phát triển quan”, “hòa hài xã hội” và “tam bất lý luận” (sách của Hồ). Hồ quay lại nói với người bí thư tỉnh ủy: “Trong tỉnh ta có sách ‘tam bất lý luận’ để học tập không?”.
Người bí thư tỉnh ủy bối rối, ngơ ngác hỏi lại: “Trung ương yêu cầu học tập ‘tam bất lý luận’ lúc nào ạ?”.
Hồ chẳng còn lòng dạ nào đi thị sát nữa, bèn trở về Trung Nam Hải. Vào đến phòng làm việc, lần đầu tiên Hồ nổi nóng với Lệnh Kế Hoạch: “Khi nào anh mới lệnh cho các địa phương học tập ‘tam bất lý luận’ đây? Hay để lạc mất rồi?”.
Lệnh Kế Hoạch: “Nửa tháng trước, đã đưa cho quốc vụ viện, ngày thư hai, quốc vụ viện đưa lên trên, bên trên hội lại thảo luận 20 ngày, sau này tất cả là do hội nghị thảo luận quyết định. Tôi đã thôi thúc đồng chí Khánh Lâm mấy lần, đồng chí ấy nói, cần phải thảo luận thêm nữa mới được”.
Hồ cảm thấy kỳ quái, liền hỏi lại: “Đang quyết định? Chẳng phải là cục chính trị đã thảo luận rồi sao? Bên đồng chí Khánh Lâm chẳng phải đã hồi đáp việc này rồi sao?”.
Lệnh Kế Hoạch: “Vậy để tôi hối thúc thêm xem sao?”.
Hồ bước lại ngồi vào ghế, mặt sạm đen, thở một hơi dài, đầu cúi gục, Hồ trước nay chưa từng hút thuốc, nay lại cầm lấy hộp thuốc lá rút lấy một điếu, rồi nói gọn lỏn: “Khỏi cần!”.
Chánh Bình, dịch từ Epoch Times

Theo tinhhoa.net