Vua Gia Long vốn không phải là
con người hiếu sát, ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45
năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh
chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Đôi nét lịch sử
Sau 25 năm chiến
đấu kiên trì và gian khổ, ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (13/6/1801) Nguyễn
Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô cũ Phú Xuân, đuổi vua tôi Cảnh Thịnh
chạy dài ra Bắc. Một năm sau, ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1/6/1802), tuy
chưa chính thức lên ngôi hoàng đế (1) nhưng theo lời đề nghị của bầy tôi, vua
ban hành niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại mới của nhà Nguyễn.
Vào
đầu thế kỷ XX, vua Khải Định đã chọn ngày này (mồng 2 tháng Năm âm lịch) làm
ngày quốc khánh của nước Đại Nam, đặt tên là ngày Hưng quốc khánh niệm. Những
ai ở lứa tuổi trên 70 ở Trung kỳ, từng cắp sách đến trường có thể còn nhớ đôi
chút về ngày này, nhất là ở Huế. Đó là ngày mừng đất nước thống nhất. Niên hiệu
Gia Long bao hàm trong ý nghĩa đó - vua muốn nói ông là người đã đi từ Gia Định
thành tới Thăng Long thành để thống nhất đất nước (Võ Hương-An, Thăng Long và
Gia Long).
Ngay sau khi chiếm
lại Phú Xuân và trong khi vua Cảnh Thịnh của Tây Sơn đang còn làm chủ ở miền
Bắc thì Nguyễn Vương đã cho “Phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng,
phơi thây, bêu đầu ở chợ” (Thực lục I, tr.473).
Sau khi chiếm được
Bắc Hà, bắt được trọn gói vua tôi, anh em vua Cảnh Thịnh, hoàn thành cuộc thống
nhất đất nước từ Nam chí Bắc, vua Gia Long khải hoàn về kinh. Ngày Giáp Tuất
tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) vua đem tù binh
ra làm lễ hiến phù ở Thái Miếu. Hiến phù là lễ trình diện tù binh trước bàn thờ
tổ tiên, và Thái Miếu là nơi thờ 9 đời chúa Nguyễn.
Sau lễ, “Sai
Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri
Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản [vua Cảnh Thịnh] và em là Quang Duy, Quang
Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác, đem hài
cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu
của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ
Ngoại [Ngoại Đồ Gia, cơ quan chế tạo của triều đình, sau gọi là Võ Khố] (năm
Minh Mệnh thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần
Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống
chiếu bố cáo trong ngoài" (Thực lục I, tr.531).
Trong
chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 háng 11 Nhâm tuất, có
câu mở đầu: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” và
kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để
trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân” (Thực lục I, tr.532,533).
Theo tài liệu của
Bissachère, trước khi nhận lãnh cái chết thảm khốc, anh em vua Cảnh Thịnh còn
bị bắt phải chứng kiến cảnh lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của cha
(Nguyễn Huệ) và bác (Nguyễn Nhạc) (theo hồi ký của Bissachère) trước khi hài
cốt bị đem “giã nát rồi vất đi”.
Phẩm bình của lịch sử
Tại miền Nam trước
1975, có hai bộ thông sử tiếng Việt thông dụng là Việt Nam Sử Lược của Trần
Trọng Kim và Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn. Viết về vua Gia Long, cả hai bộ
sử đều giống nhau ở một điểm: có phê phán sự hẹp lượng của vua Gia Long qua
việc giết hại công thần (vụ án Nguyễn Văn Thành và vụ án Đặng Trần Thường), có
kể rõ việc hành hình trả thù Tây Sơn nhưng hoàn toàn không bình luận, phê phán
gì đến sự “quá tay” trong việc này. Tại sao?
Hoa Bằng, tác giả
Quang Trung, Anh hùng dân tộc (Nxb Bốn Phương, Saigon, 1953) khi kết luận
thiên biên khảo đầu tiên bằng tiếng Việt về đề tài này đã ngậm ngùi viết: “Vậy
mà Nã Phá Luân [Napoléon I] được gởi nắm xương trong đền Invalides để cho người
sau hoài niệm, viếng thăm; còn Quang Trung: mả phải đào, xương phải tán, dòng
dõi bị chu di, sự nghiệp liệt liệt oanh oanh gói tròn trong một chữ ‘Ngụy’”.
Nhà
viết sử Trần Gia Phụng trong Nhà Tây Sơn (Nxb Non Nước, Toronto, 2005) cũng đã
có lời bình phẩm nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc: “Cuộc trả thù được vua Gia Long
xem là ‘nghĩa lớn Kinh Xuân Thu’ nhưng hành hạ di cốt địch thủ trước mắt con
cái họ trái hẳn với đạo lý cổ truyền của dân tộc” (tr.240).
Phê bình mạnh tay,
mạnh mẽ hơn có Quách Giao:
Nhà Nguyễn đối với
nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém
giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn
truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo
nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ.
Còn đối với Nhà
Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng [Cảnh Thịnh],
cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái
Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục
thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể nhổ cỏ cho sạch
gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây
Sơn, và những Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã. Hai người con Vua
Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương
náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê.
Vua tôi Nhà Nguyễn
biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12
(1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ.
Bọn bất lương đi mật báo. Quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết
chết.
Ngót 150 năm, Nhà
Nguyễn cố làm cho người người quên Nhà Tây Sơn. Những người yêu nước vẫn luôn
nhớ đến Nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm tòi trong
nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về Nhà Tây Sơn.
Và tiếng Anh hùng
Áo Vải, Anh Hùng Dân Tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất
nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc. Còn Nhà Nguyễn đã làm được gì?
Có người bảo rằng
đã thống nhất Bắc Nam. Ðó là quên rằng chính Nhà Tây Sơn đã thống nhất Bắc Nam,
rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm trên tay Ðông Ðịnh Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao
phen bể nổi dâu chìm Nhà Nguyễn còn để lại tiếng Rước voi, cõng rắn.
Trăm năm bia đá
thời mòn/ Nghìn năm bia miệng mãi còn trơ trơ.
Trong
văn hóa phương Tây, đánh nhau là đánh nhau nhưng không có chuyện trả thù kẻ
chiến bại một cách tàn nhẫn, nhất là đối với người đã chết. Do đó, khi bắt gặp
hành động “dã man” này của vua Gia Long, Stanley Karnow, tác giả tiếng tăm bộ
sử VietNam, A History (Penguin Book, 1984) đã viết:
“Ông ta tỏ ra
chẳng khoan dung chút nào đối với kẻ thù đã chiến bại, dù đã chết hay còn sống.
Binh sĩ của ông đã quật xương cốt của một cặp vợ chồng cầm đầu Tây Sơn đã chết
[Nguyễn Huệ], tiểu tiện vào xương cốt đó trước sự chứng kiến của con cái họ và
những người này sau đó tay chân bị trói vào 4 con voi và xé nát.” (p.65)
Nếu Nhà Tây Sơn
không có Quang Trung Nguyễn Huệ với chiến thắng quân Thanh và quân Xiêm vang
dội trong lịch sử thì hành động “vì 9 đời mà trả thù” của vua Gia Long chưa
chắc đã bị búa rìu dư luận nhiều như đã xảy ra.
Ngoài việc ghi
chép khá rõ ràng của Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn thì hồi ký sống động của giáo sĩ
De la Bissachère về việc hành hình trả thù của vua Gia Long đối với anh em và
vua tôi Cảnh Thịnh (2), đã gây tác động tâm lý không nhỏ trong giới sử học Đông
Tây (Thực ra ông này không chứng kiến cuộc hành hình mà chỉ nghe ai đó kể lại).
Thử
đi vào mạng lưới toàn cầu, gõ mấy từ khóa như Gia Long, Tây Sơn, Nguyễn Huệ,
thì tha hồ đọc công luận phẩm bình, đa số đều chê Gia Long về việc này.
Điều này cũng dễ hiễu thôi vì hào quang chiến thắng quân Xiêm và quân Thanh của
vua Quang Trung rực rỡ quá, đã che mất sự thật thê thảm ở bên trong.
Thêm vào đó, với
mấy chục năm lịch sử triều Nguyễn do Gia Long khai sáng, đã bị miệt thị thậm
tệ, đã ảnh hưởng không ít trên sự nhận thức của người đọc, nhất là giới trẻ.
Mặc dầu ngày nay gió đã đổi chiều, đã bắt đầu có sự chuyển biến trong nhận thức
về sự nghiệp của Nhà Nguyễn (3) nhưng không thiếu chi người vẫn tư duy trong
nếp cũ.
Câu hỏi đặt
ra
Các sách sử Việt
Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia Long đều lấy tài liệu
từ các bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt
Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết khác do nguồn sử liệu Tây phương cung
cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đã không giấu diếm gì cả, viết trắng
chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người sau chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình
phẩm nặng nể mà không có bớt.
Riêng người viết,
trong niềm ngưỡng mộ chiến thắng oanh liệt hào hùng của vua Quang Trung trước
quân Xiêm và quân Thanh xâm lăng, ban đầu thì cũng đồng ý với những bình phẩm
chê trách hành động của vua Gia Long đối với Tây Sơn là thái quá, tàn nhẫn,
nhưng sau đó, khi được biết những nguồn tin khác, không khỏi đắn đo tự hỏi và
tìm lời giải đáp.
Vua
Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát (4)[1] .Ngay cả việc đối với họ
Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước
(1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như
với Tây Sơn?
Sau khi làm chủ
Bắc hà, vua “Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc thờ cúng họ Trịnh.
Trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai cũng sợ bị giết. Vua thấu
rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: ‘Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông
gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của
người trước, không nên nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối
tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình
hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ
việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời” (Thực lục I, tr.508).
Vậy là Trịnh Tư
được giao lo việc thờ cúng, họ Trịnh được cấp 500 mẫu ruộng để lấy huê lợi cúng
tế hàng năm, 247 người họ Trịnh được xét tha thuế dinh và miễn binh dao (đi
lính và chịu sưu dịch).
Ai cũng biết La
Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được coi như một Gia Cát Lượng của vua Quang Trung,
một cố vấn tối cao, được vua quan trên dưới đều kính nể (4 lần vua khẩn khoản
mời ra giúp, cuối cùng nhận chức Viện trưởng Viện Sùng Chính năm 1790, giúp vua
chấn chỉnh việc giáo dục, văn hóa, giúp vua chọn đất Nghệ An làm Phượng Hoàng
trung đô…).
Khi
Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân, ông đang ở Huế giúp vua Cảnh Thịnh nhưng không
chạy theo khi vua đào thoát (hay chạy theo không kịp?) và dường như không bị bị
bắt mà chỉ quản thúc tại gia, dù phía Nguyễn Vương biết rõ lý lịch, sau đó
Nguyễn Vương đã ra lệnh:
“Thả xử sĩ ở Nghệ
An là Nguyễn Thiếp về. Thiếp là người xã Nguyệt Áo huyện La Sơn, đậu Hương tiến
đời Lê, làm quan huyện Thanh Chương, bỏ quan về nhà. Khi nhà Lê mất, theo lời
mời của Nguyễn Quang Toản mà ở lại Phú Xuân. Tới nay vào yết kiến, xin trở về
làng. Vua [Nguyễn Vương] dụ rằng ‘Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được
người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò
để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của
ta.’ [người viết in đậm]. Bèn sai quan quân đưa về" (Thực lục I,tr.445).
Lại năm 1803, phái
đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và
Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành bắt giải về Kinh, vua Gia Long
tha hết cho về quê. Lại khi Bộ Hình tâu xin vua định đoạt số phận của người vợ
lẽ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên Đại và Vạn bị bắt thì vua nói: “Vợ lẽ
Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không
dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì?” (Thực lục I, tr.544).
Những chứng dẫn
nho nhỏ đó cho thấy vua Gia Long là con người phải chăng, tùy theo người, theo
trường hợp mà có quyết định tha hay phạt, chứ không phải bạ đâu giết đó, thà
giết lầm hơn bỏ sót. Vậy tại sao giết Tây Sơn chưa đủ, phải hành hạ mới hả, kể
cả nắm xương khô. Thù chi mà dữ vậy?
Sự thật là đây
Về chuyện vua Gia
Long trả thù Tây Sơn, nhà viết sử Trần Gia Phụng đã đi xa hơn các học giả đi
trước khi lần đầu tiên ông phân tích chính xác rằng:
“Không kể cá nhân
ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù
nhà Tây Sơn vì ba việc chính: thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần
[chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và
Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Thứ nhì, hai
người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về
tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc
Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790” (Việt Sử Đại
Cương, Tập 2, tr.445).
Chừng đó nợ máu
nghe đã nặng (5 người cật ruột), nhất là món nợ thứ 3, nhẹ vật chất mà nặng tâm
linh và đạo đức, ít người biết. Nhưng kể vậy cũng chưa đủ.
Khi
đọc câu mở đầu của chiếu bố cáo lễ hiến phù: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù
là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” * (Thực lục I, tr.532) tôi không khỏi mỉm cười một
mình với ý nghĩ: thiệt mấy ông đời xưa văn chương lớn lối quá, cái chi cũng lôi
điển tích với sách vở ra, tô vẽ cho long trọng. Nhưng sau đó, khi đọc kỹ Thực
lục mới biết mấy chữ vì 9 đời mà trả thù mang một ý nghĩa rất thực, rất cụ thể,
bên cạnh màu sắc điển tích văn chương tô điểm.
* “Xuân Thu, Công
Dương truyện: Trang công năm thứ 4 chép: Tề Tướng công giết nước Kỷ, vì ông tổ
xa đời là Ai công mà phục thù, đời gọi là mối thù 9 đời” (Chú thích của dịch
giả Thực lục I, tr.532).
Ngày 13/6/1801,
Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô Phú Xuân, nơi ông đã vội vã ra đi
khi mới 13 tuổi (ta), và ròng rã 27 năm mơ ước được trở về. Tuy đã làm chủ được
Phú Xuân nhưng lực lượng hùng hậu của Tây Sơn Cảnh Thịnh vẫn còn ở bên kia lũy
Trường Dục (Quảng Bình), vậy mà đến đầu tháng 8 năm đó đã lo sửa sang lăng mộ
tổ tiên và cấp tốc hoàn tất ngay trong tháng.
Sao việc này lại
làm gấp rút còn hơn cả công tác sửa sang thành trì, xây đồn đắp luỹ để phòng
chống Tây Sơn? Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của Thực lục sau đây, có thể thấy được
lý do thúc đẩy (những chữ in đậm là do người viết, chữ ghi giữa hai ngoặc đứng
[x] là chú giải của người viết):
“Tháng 9, ngày Ất
hợi [ 9/8/1801], sửa lại sơn lăng.
Trước kia giặc Tây
Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức
lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài
cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét
vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay
thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút,
nghiệp đế tất dấy.
Huệ bực tức, sai
đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa
[lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc
Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long
bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc
Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài
cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên.
Vua
thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng.
Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại. Các lăng đều theo nền cũ
mà xây cao lên. Ngày Kỷ hợi [1/11/1801], vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ,
bầy tôi đều khóc cả. Sai đổi xã Cư Hóa làm xã Cư Chính, cho dân miễn dao dịch
làm hộ lăng. Cho Huyên làm Cai đội (năm Minh Mệnh thứ 11[1830] phong An Ninh
bá, lập đền thờ ở núi Cư Chính) con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài tòng quân ở Bình Định
cũng được gọi về hậu thưởng cho” (Thực lục I, tr.466).
Gạt ra ngoài những
chi tiết hoa lá cành như hai con cọp trong bụi rậm nhảy ra, đang đào mả thì nhà
cháy, v.v., đoạn sử ngắn ngủi do Thực lục ghi lại tiết lộ hai điều quan trọng
mà ít người biết đến hoặc biết mà vì một lý do nào đó đã lơ đi hoặc chỉ phớt
nhẹ nói qua:
- Thứ nhất, Quang
Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy
hài cốt ném xuống sông. Việc này cộng với việc giết chết vị chúa thứ 9 là Định
Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên năm 1777 thì quả nhiên vua Gia Long tính
sổ 9 đời không sai chậy chút nào. Vì vậy có thể nói được rằng chữ 9 đời có một
ý nghĩa rất cụ thể.
Đây
là 8 đời chúa Nguyễn:
1.Chúa Tiên Nguyễn
Hoàng (1558-1613);
2.Chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên (1613-1635);
3.Chúa Thượng
Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
4.Chúa Hiền Nguyễn
Phúc Tần (1648-1687)
5.Chúa Ngãi Nguyễn
Phúc Thái (1687-1691);
6.Chúa Minh Nguyễn
Phúc Chu (1691-1725);
7.Chúa Ninh Nguyễn
Phúc Thụ (1725-1738);
8.Võ Vương Nguyễn
Phúc Khoát (1738-1765);
Về ông tổ Nguyễn
Kim, có lẽ vì không biết đích xác mộ phần nẳm ở đâu trong cái bát ngát của núi
Triệu Tường ở Thanh Hóa, nên vua Quang Trung đành phải cho qua mà không tính
sổ.
Tám đời chúa
Nguyễn này không có hận thù gì với anh em Tây Sơn, đã có công rất lớn đối với
dân tộc và đất nước khi kế tục nhau mở nước về phương Nam, đến tận Cà Mau, Châu
Đốc, cống hiến cho tổ quốc non một nửa nước, trài dài từ Phú Yên trở vào Nam,
với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn lãnh thổ nam tiến của các
triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cộng lại. Không có sự nghiệp này thì hậu thế ngày
nay lấy chi để khoe với thế giới rằng “nước ta hình cong như chữ S” với “rừng
vàng biển bạc”?!
- Thứ hai: Phần mộ
của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long cũng bị quật lên và hài cốt ném
xuống sông.
Ông Nguyễn Phúc
Côn là con thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm 1765, khi con là
Nguyễn Phúc Ánh đang còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế (1806) mới truy
tôn cha làm Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ cho đến khi chết dưới tay quyền
thần Trương Phúc Loan, ông chẳng làm vua làm chúa gì. Chỉ vì con ông là Nguyễn
Phúc Ánh dám chống lại Tây Sơn mà ông đã không được ngủ yên, lâm vào cảnh con
làm cha chịu!
Nguyễn
Phúc Tộc Thế Phả cho biết thêm một chi tiết khác:
“Theo truyền thuyết,
khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức Hưng Tổ ném xuống sông thì một hôm Nguyễn
Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho
là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên
ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, ngài cho
đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho
giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ
cốt nhục giữa hai người)" (tr.193).
Thực lục có nói
khi Nguyễn Ngọc Huyên chết thì được lập đền thờ và phong làm An Ninh bá. Ở
thượng lưu sông Hương có một ngôi miếu, tục gọi là miếu Ông Chài, chính là miếu
ông Huyên vậy.
Trong văn hóa Việt
Nam, phận làm con cháu là phải lo gìn giữ mồ mả tiên tổ cha ông. Do đó chúng ta
thông cảm với vua Gia Long chỉ trong 2 tháng sau khi tái chiếm Phú Xuân đã vội
vã hoàn tất việc tu sửa lăng mộ bởi khi đã biết tình trạng lăng mộ bị phá tanh
banh thê thảm như thế thì không một ai có thể chờ đợi được nữa.
Trong
lịch sử Việt Nam, việc tranh giành quyền lực dẫn đến những hành động giết hại
nhau tàn nhẫn không phải là hiếm. Điển hình, để cướp ngôi nhà Lý, Trần Thủ Độ
không ngần ngại dồn Lý Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ nhổ cỏ tận gốc, mặc dù
Huệ Tông đã biết thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở chùa Chân Giáo. Đã thế, Trần
Thủ Độ còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý chôn sống trọn gói (may mà Hoàng tử
Lý Long Tường nhanh chân thoát qua tị nạn ở Cao Ly, trở thành thuỷ tổ họ Lý của
xứ Đại Hàn ngày nay).
Nhưng có lẽ trong
cuộc tranh chấp quyền lực chưa có ai trong lịch sử phải trả cái giá 5 mạng
người ruột thịt và 9 ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh với xương cốt không biết
đâu tìm như trường hợp vua Gia Long trong khi đối đầu với Tây Sơn để phục hồi
cơ nghiệp của ông cha đã tốn công xây dựng.
Ở đời, có vay thì
có trả. Nợ nào cũng có tính lãi suất, chỉ có khác là nặng hay nhẹ, không hình
thức này cũng hình thức khác. Nếu Quang Trung Nguyễn Huệ không tạo nhân ác thì
có thể đã không gặp quả ác. Hận thù luôn luôn vẫy gọi thù hận là chuyện thường
của thế gian, huống chi lại có yếu tố tranh giành quyền lực trong đó, tham lam
và sân hận hẳn phải bốc lên ngùn ngụt.
Phải chăng nên thử
tự đặt mình vào địa vị của vua Gia Long để có nhiều thông cảm và có lời phẩm
bình phải chăng hơn.
Một vài cảm nghĩ
Là hậu thế, có lẽ
không mấy ai vui khi biết sự thật của tấn thảm kịch Nguyễn Quang Trung và
Nguyễn Gia Long. Cả hai, đối với chúng ta, đều có chỗ đáng tôn vinh lẫn chỗ bất
cập. Riêng ngưởi viết, từ tấn thảm kịch lịch sử này, học hỏi được một đôi điều,
xin gọi là chia sẻ.
1/ Qua việc điện
thư của bạn bè và thân hữu gởi đến tới tấp kèm chuyện “Một ngày lễ Vu lan sầu
thảm” của Tịnh Thuỷ, tôi nhận ra rằng té ra loại “lịch sử tiểu thuyết” dễ đi
vào lòng người hơn là chính sử khô khan. Đồng ý khi tiểu thuyết hóa lịch sử thì
tha hồ cho trí tưởng tượng vẽ vời nhưng cái căn bản của nó xin đừng đổi trắng
thay đen.
Thực
lục ghi rõ vụ hành hình vua tôi anh em Cảnh Thịnh diễn ra ngày giáp tuất tháng
11 năm Gia Long thứ 1 tức ngày 7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802. Làm chi có ngày
Vu Lan trong đó? Có lẽ tác giả muốn gây ấn tượng cho ngưởi đọc về sự tàn ác khó
dung tha của vua Gia Long nên mới lựa một ngày như thế. Tội nghiệp cho vua! Vua
chỉ dự lễ hiến phù, không dự cuộc hành hình, chỉ sai quan thi hành, nên cuộc
đối thoại tay đôi giữa vua và bà Bùi Thị Xuân cũng chỉ là cơ hội bày ra để mạt
sát thoải mái. Tội nghiệp.
2/ Việc cải táng
mộ ông Nguyễn Phúc Côn có thể hiểu được, vì tìm được hài cốt và hài cốt này đã
được vua Gia Long xác tín rằng đó là di cốt của người đã sinh thành ra ông.
Nhưng với 8 chúa thì sao? Sử nói Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Đồng
ý là xây lên cao, làm cho to lớn đẹp đẽ hơn xưa, nhưng hài cốt không tìm thấy
thì chôn cái gì trong đó? Chẳng lẽ chỉ là một ngôi mộ trống không? Một cái mả
gió?
Trong một dịp về
thăm Huế sau 7 năm “đi học làm người tốt” (!), tôi được biết sau năm 1975, do
đói quá, người ta đã làm bậy. Việc đào trộm mồ mả lăng tẩm giới quyền quí đã
xảy ra với ý đồ tìm vàng bạc châu báu tùy táng. Người bạn kể cho nghe (tôi chưa
có cơ hội kiểm chứng) khi cụ Vương Hồng Sển, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng của
Miền Nam, biết được kẻ gian đã kiếm được nữ trang trong lăng Hoàng Thái Hậu Từ
Dũ (vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức) và đem bán thì cụ đã kêu trời.
Dưới
cái nhìn cơm áo của kẻ trộm, đó là vàng, tính theo thời giá của chỉ và lượng.
Dưới cái nhìn của cụ Vương, đó là đổ cổ vô giá của quốc gia! Nhưng đó không
phải là chi tiết tôi quan tâm, vì bảo vật quốc gia người ta bán ra nước ngoài
nhiều rồi. Chi tiết lý thú mà tôi nghe được đã giúp tôi hiểu biết thêm và lý
giải thắc mắc nêu trên. Chi tiết đó là, bọn kẻ trộm, khi đào đến quan tài của
một ông chúa nào đó đã không thấy hài cốt mà chỉ thấy hình người ta bằng gỗ!
Điều này xác nhận giả thiết mà tôi đã nghĩ trong đầu nhưng không biết cách nào
để kiểm chứng, ấy là tục chiêu hồn nạp táng.
“Chiêu hồn nạp táng" là gì?
“Trong gia phả các
họ rất chú trọng mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục này có một số trường hợp ghi
chú: “Chiêu hồn nạp táng”. Đó là những ngôi mộ không có tử thi, hài cốt, mộ người
chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ… không tìm được tử thi. Thân nhân làm
hình nhân và làm lễ an táng theo như lễ an táng thông thường.
Được nghe các cụ
kể lại rằng: chất liệu làm hình nhân, có địa phương dùng cây núc nác (còn gọi
là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoàng bá, bạch ngọc nhi). Núc nác là loại gỗ
mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu hoai, lại dễ kiếm vì mọc ở nhiều
nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa dòng sông, có địa phương dùng mùn đào ở
giữa ngã tư đường cái.
Hình nhân được đẽo
gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được (vì đa số không phải là
nghệ nhân). Kích thước của hình nhân khoảng 30-40 cm chiều dài. Thi hài tượng
trưng đó cũng được khâm liệm, đưa vào áo quan làm bằng gỗ vàng tâm, kích thước
nhỏ bé, hoặc đưa vào tiểu sành.
Trên
hình nhân có phủ lên linh vị viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh
vị đặt ở bàn thờ. Trước khi làm lễ an táng có mời thầy cúng làm bùa ấn phù phép
để vong hồn nhập vào hình nhân. Lễ an táng và các lễ các lễ khác cũng tiến hành
như tang lễ thông thường.
3/ Hình như có một
nhà tư tưởng nào đó đã nói: “Làm thầy thuốc lầm thì chết một người; làm thầy
địa lý lầm thì giết một họ; làm chính trị lầm thì giết một nước, làm làm văn
hóa lầm giết cả một đời”.
Dưới ảnh hưởng của
môn phong thủy Trung Hoa, người Việt từ vua cho chí dân đều tin rằng âm phần tổ
tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh và tương lai của con cháu. Bởi vậy ai
cũng mong muốn tìm cho được một huyệt mả tốt để được kết phát, để con cháu được
hưởng phước vinh hoa phú quí dài lâu. Bởi vậy, để tận diệt kẻ thù không gì bằng
triệt long mạch, phá huyệt mộ, đào mả cha ông nhà người ta lên.
Làm thế thì chắc
chắn con cháu không thể nào ngóc đầu lên được, lấy gì mà chống trả. Quang Trung
Nguyễn Huệ, ngoài việc sử dụng binh lực đánh Nguyễn Vương chạy dài ra biển,
trốn qua đến Xiêm La hai lần, vẫn không quên sử dụng chiêu thức này để hỗ
trợ. Và để cho chắc ăn, thà phá lầm hơn bỏ sót, đã không những quật mồ thân
sinh vua Gia Long là huyết thống trực hệ mà còn quật mồ cả 8 đời chúa Nguyễn xa
lắc. Thật là một sự tính toán chu đáo.
Tuy toan tính chu
đáo như vậy nhưng Nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ chỉ tồn tại có 14 năm (1788-1802, 1788
là năm vua Quang Trung đăng quang trước khi ra Bắc phá quân Thanh), trong khi
Nguyễn Vương, mặc dầu bị đánh trúng tử huyệt (theo quan niệm phong thủy) nhưng
sau 25 năm bền bỉ chiến đấu nhọc nhằn, đã thống nhất đất nước, phục hưng được
cơ nghiệp tổ tiên, lập ra triều đại mới, tồn tại 143 năm (1802-1945).
Vậy là thế nào?
Chẳng lẽ phong thủy hoàn tòan là một thứ tin mê tín dị đoan? Không, không thể
vì vậy mà kết luận phong thủy một cách hồ đổ như thế được. Cái nước Mỹ của khoa
học kỹ thuật tiến bộ nhất thế giới này cũng đang chạy theo Feng Shui (Phong
thủy) của nền văn minh cổ Trung Hoa, có thua chi Việt Nam xưa và nay đâu, có
điều họ chú trọng đến dương cơ hơn âm phần. Như vậy phải có một yếu tố gì khác
làm cho độc chiêu do vua Quang Trung phát ra đã không có hiệu quả. Tôi chợt nhớ
đến chữ Đức trong câu ca dao: Người trồng cây hạnh người chơi/ Ta trồng
cây đức để đời về sau.
Trong 8 đời chúa
Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng lo làm cho dân
giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu Đốc chứng
minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ sự nghiệp nam
tiến đó!
Có 3 ông chúa mang
danh hiệu khác người: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình
biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn thì làm chi có
những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như thế?
Có
đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên
Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn
Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân
(Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt.
Nhiều ông chúa xây
chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền
lập chùa Túy Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa
Minh).
Có lẽ nhờ biết tu
nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số bất cập đức nên tai qua nạn khỏi, như
câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo,
người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ chính xác và minh triết
hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo. Theo thiển ý, có lẽ hiểu theo cách
này mới giải thích được chỗ bất cập của phong thuỷ.
Chú thích:
(1) Mãi đến mùa
hạ năm 1806 (Bính Dần) vua mới chính thức làm lễ lên ngôi Hoàng đế tại điện
Thái Hoà.
(2) Có thể xem:
La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine, hồi ký của Bissachère viết năm
1807 do Charles B. Maybon biên tập và xuất bản năm 1920, từ trang 118 đến trang 120 trong http://www.archive.org/stream/larelationsurlet00labi#page/n1/mode/2up
(3) Ngày 18 và 19/10/2008 tại Thanh Hóa có
một cuộc hội thảo “Đánh giá lại chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn” được phóng
viên ghi nhận là “một hội thảo lịch sử”, có lẽ vì phải chuẩn bị tài liệu đến 20
năm và tỉnh Thanh Hóa đã tài trợ gần một tỉ đồng VN để tổ chức, Có hai nhận xét
quan trọng được ghi nhận:
“Theo GS Văn
Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, cần có nhận thức mới về nhà Nguyễn trong
lịch sử dân tộc trên tinh thần “công minh lịch sử”.
“Tổng kết hội
thảo, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam khẳng định: Cuộc
hội thảo lần này đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi không chỉ của giới khoa học
mà còn của dư luận xã hội, chứng tỏ những nhận thức trước đây về vai trò của
chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc theo hướng phê phán và
phủ định đã không còn thỏa đáng nữa”
(http://www.thethaovanhoa.vn/133N20081020034945468T0/danh-gia-lai-chua-nguyen-va-vuong-trieu-nguyen-mot-hoi-thao-lich-su.htm
(4) Vua Gia
Long có một thanh gươm mang tên Qui Y. Sử ghi rằng thanh gươm này có tính ưa
giết người (hiếu sát), Tối hôm nào gươm tự động thoát ra khỏi vỏ thì hôm sau
thế nào cũng có người phạm tội bị chém bằng thanh gươm đó. Vua Gia Long ghét
tính hiếu sát của gươm bèn đem qui y cửa Phật và đặt tên là Qui Y (Quốc Triều
Chánh Biên Toát Yếu).
Nguồn: Nhà nghiên cứu lịch sử Võ Hương An(Khamphahue.com.vn)