Tôi không bao giờ phủ định rằng phong
trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:
- Ở Đàng Trong thì lật đổ các chúa
Nguyễn, rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ các chúa Trịnh cùng với triều Lê.
- Chiến thắng vĩ đại chống quân xâm lược
Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho.
- Đại chiến thắng chống vài chục vạn
quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789.
Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem
luốc bao nhiêu thì hình ảnh Nguyễn Huệ càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một
vai trò lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18. Nay theo
yêu cầu của Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói
tóm tắt đôi điều mà tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.
Trên đường từ Pháp về Ấn Độ, giám mục
Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ phiêu lưu người Pháp và với
một số rất ít kinh phí mua được vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi
là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi, cố
giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết hơi quá đà, rằng sự viện trợ
của Pháp là một trong những nhân tố quan trọng nhất để Nguyễn Ánh đánh bại Tây
Sơn.
Đứng về mặt cá nhân tôi hay là của
chúng ta nhỉ, cũng đáng nên khâm phục Nguyễn Ánh, một người có cá tính mạnh, từ
một cậu bé con của một ông chúa bị giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc
không còn một mảnh giáp, không còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính
trong cả nước Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ
thuật Việt Nam chỉ có những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định
thành là từ Nguyễn Gia Long.
Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm
khi linh mục Nguyễn Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe XHCN đến
phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế đã thống nhất
đất nước chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ.
Không nói gì đến ông Nguyễn Lữ không đủ
nội lực để đối địch với Nguyễn Ánh ở miền nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc
xuất thân “nậu nguồn” và ông em Nguyễn Huệ thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ
gia đình. Mà theo tôi “ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa
mãn nhỏ nhen được làm trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị với
em sau vụ Nguyễn Huệ tiến ra Thăng Long, đã vội vã ra bắc kéo em về, rồi lại
hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn nguôi và chiến tranh
giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng đế ở Quy Nhơn và một
ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể nói được là nước ta đã được thống
nhất ngay dưới thời Tây Sơn?
Tôi chỉ nói và viết đôi điều lặt vặt
mà tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long. Do
nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người bôn ba, từng trải, dù với ý định
chủ quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất. Nguyễn Ánh đã bôn ba từ đất liền
đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh
thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là quái ác – của vua Xiêm cũng có.
Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là
một vị tướng tài ba thắng không kiêu, bại không nản. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau
cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây áp lực song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách để
thoát ra được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn
là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho dù ông chịu
nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và
nước ngoài.
Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm
phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt,
ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn
cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên
trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn
nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.
Cho dù Nguyễn Ánh tin cậy và nhờ cậy
vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra khoan hòa với Thiên chúa giáo của phương Tây,
cho dù hoàng tử Cảnh đã trở thành giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định cũng
như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng người Việt
gốc Hoa, vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me,
hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người
Thượng.
Ở thập kỷ 80, tôi đi điền dã ở xứ Quảng,
ở Tây Nguyên, các tộc thiểu số vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một
thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn
ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi
sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể
“Quế Trà My”…
Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết
câu “luận anh hùng, chớ kể hơn thua”. Song nếu tôi là nhà sử học như các quý vị
Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách giải thích lịch
sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ?
Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp
Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Quang Trung
(tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông ở miền Trung, chỉ để
1 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 1 chùa ở cấp tổng. “Đất VUA – chùa LÀNG –
Phong cảnh BỤT”. Sáng chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư
giãn, để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người
Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại
tâm thức Việt Nam.
Quân Tây Sơn vào nam thì phá Cù Lao Phố
(Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy
đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm
sau còn chưa phục hồi lại được; ra bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa
lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn
Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào
đơn:
Thôi! Thôi! Thôi! Việc đã rồi!
Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta!
Nay mai dựng lại nước nhà,
Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
Gia Long dù bắt dời thủ đô cùng cả Quốc
Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một
tòa Khuê Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh
Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến
nay còn tồn tại. Vua Gia Long đã sai lập “đền Cố Lê” ở Hà Nội để thờ vua Lê cũ
và sai dỡ nhà Thái miếu ở Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ.
“Đền vua Lê” hiện vẫn còn và đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng.
Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long
và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn. Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời
gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái di sản văn hóa dân tộc, dân gian. Huế trở
thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện
nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là nhờ
ai?
Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi
là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt
đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ
Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không gian đó như một
TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM!
Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách
và “thăm hỏi" vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long
trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không!, tôi được chiêu đãi một bữa
bia đã đời, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình nghe lỏm – tôi đang giảng giải
cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà
nước bỏ quên. Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình
xã, tôi rất mừng vì các đảng viên Gia Miêu, quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có tư
duy đổi mới khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với
thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam.
Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng
chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục
nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ
Trịnh này. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã, đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước
Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia
Long, khai báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này
viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc, ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh là Trịnh
Cơ ra Thăng Long và phán bảo rằng:
- Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có
thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta!
Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ
mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù như Tây Sơn. Nhưng mà
không, vua Gia Long nói tiếp:
- Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng
là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song
họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung
khai về gốc gác họ Trịnh trình cho ta biết.
Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo
và cứ theo sự thực viết ra. Đọc xong gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho
họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh
Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định
trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến
Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để
đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu
tiên hàng đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn bình luận về ý đồ
chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường”
hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của
Nguyễn Ánh?
Hà Nội – Sài Gòn
Mùa thu tháng Tám, 1996
Kính nộp,
GS Trần Quốc Vượng
(Đại học Quốc gia Hà Nội)