•Tác giả: Larry Engelmann
-Người dịch:
Nguyễn Bá Trạc
Dương Quang Sơn:
-Đêm nào tôi
cũng khóc cho Việt Nam. Tôi nhớ và tôi khóc. Trong bóng đêm đen, trí nhớ biến
thành nước mắt. Những giọt nước mắt cho bố, cho mẹ, cho các anh chị em tôi, cho
tất cả những người đã buộc phải bỏ đất nước ra đi, cho cả những người không ra
đi được. Tôi không muốn ký ức của tôi mất đi như nước mắt trong mưa. Nên tôi
xin kể cho ông nghe câu chuyện của tôi để ông kể lại cho những người khác, nhờ
thế có thể có nhiều người sẽ biết đến những gì xảy ra ở Việt Nam.
Nhờ thế ký ức
của tôi không uổng phí. Nhờ thế ký ức của tôi sẽ là những giọt nước mắt trước
cơn mưa. Vậy xin hãy lắng nghe. Những gì tôi kể rất quan trọng. Những gì tôi nhớ.
Những gì xảy ra cho tôi. Những gì tôi nói đây chính là những giọt nước mắt trước
cơn mưa lũ.
Bố tôi tên
Trần Phong. Ông theo Phật giáo, sinh trưởng ở Hải Phòng, Bắc Việt. Ông đã đi
kháng chiến chống Pháp, nhưng khi Cộng sản chiếm miền Bắc năm 1954, ông di cư
vào Nam, định cư ở Sài Gòn. Bố tôi ghét Cộng sản. Bố tôi yêu Tự Do. Chỉ vì muốn
một đời sống Tự Do mà năm 1954 ông đã phải trở thành người di cư.
Ông rất buồn
vì đất nước chia đôi, nhưng ông lại muốn tránh xa Cộng sản. Mẹ tôi cũng sinh
trưởng ở miền Bắc. Cũng di cư vào Nam với bố tôi năm 1954. Bà ngoại tôi, các
anh chị em của mẹ tôi đều ở lại ngoài Bắc cả.
Cuộc sống
chúng tôi tại Sài Gòn rất tốt đẹp. Bố tôi kiếm được khá tiền nhờ nghề sửa tàu
biển. Trong gia đình, tôi là đứa con bé nhất, nên bố tôi gọi là thằng “Út”, tiếng
Việt nghiã là “đứa con nhỏ nhất”. Tôi có một người anh, hai người chị. Cô tôi
cũng ở chung với gia đình tôi trong một căn nhà rộng rãi tại Quận Nhứt, Sài
Gòn. Tôi học Trung học Công lập, anh tôi đã học Đại học. Mùa xuân năm 1975, tôi
vừa được mười sáu tuổi. Lúc này bọn học trò đều chộn rộn về chuyện Cộng sản xâm
chiếm. Có đứa bàn tán cả chuyện bỏ nước ra đi. Nhiều hôm trên đường tan trường
về, tôi thấy người ta đứng xếp hàng dài để xin giấy tờ hoặc đổi tiền để ra khỏi
nước.
Có một buổi
anh tôi ở Đại học về, bố tôi bảo hai anh em tôi rằng bố tôi muốn đưa hai đứa ra
khỏi nước một thời gian. “Chúng mày hãy còn bé”. Bố tôi nói “Chúng mày còn có
tương lai. Khi nào yên ổn, các con lại về”. Bố tôi nghĩ chúng tôi nên sang Mỹ học,
khi trở về, tương laì chúng tôi sẽ khá hơn. Nhưng bấy giờ ra khỏi Việt Nam là
việc thực khó, nên suốt một thời gian, hai anh em tôi chẳng ai tin là sẽ đi được.
Tôi có một
thằng bạn thân tên là Quang. Chị nó tên Hương làm thư ký Tòa Đại sứ Mỹ. Thằng
Quang bảo tôi là chị nó có thể đưa chúng tôi đi được. Người Mỹ đã hứa cho chị
nó cùng thân nhân ra khỏi Việt Nam. Nếu chúng tôi muốn đi, chị nó chỉ cần thêm
tên vào danh sách là xong.
Chúng tôi
nói thế thì tốt quá. Chị ấy bèn đến nói với thượng cấp cũng là người Việt – rằng
chị có hai chú nhỏ muốn rời Việt Nam nhưng không có họ hàng gì. Chị muốn đánh
thêm hai tên này lên danh sách, chẳng biết có được hay không? Cấp trên của chị
bảo rằng được. Thế là sau khi đã cho tên chúng tôi vào đanh sách, chị ấy bảo
chúng tôi phải sẵn sàng, đêm ngày gì cũng vậy, có thể đi bất cứ lúc nào. Chị
cũng bảo chị sẽ cho biết địa điểm và lịch trình chuyến đi.
Thế là mười giờ
sáng ngày 28 tháng Tư, chị Hương đến nhà nói với tôi: “Sơn ạ, em sửa soạn ngay.
Một tiếng đồng hồ nữa phải đi.” Chị cho chúng tôi biết phải đến chỗ nào. Xe
buýt sẽ đưa chúng tôi ra phi trường. Chúng tôi chỉ được phép mang theo mỗi người
một túi áo quần. Chúng tôi chẳng có thời giờ từ biệt ai cả. Tôi chỉ còn kịp bảo:
“Bố ạ, con thương bố lắm. Con phải đi ngay bây giờ”. Sáng hôm ấy bố mẹ tôi đều
khóc. Bố mẹ tôi căn dặn anh tôi: “Con phải săn sóc thằng ‘Út’ cho cẩn thận”.
Bố tôi lái
xe chở chúng tôi đến địa điểm đón xe buýt. Chúng tôi chẳng có giấy tờ gì đặc biệt,
cũng không rõ họ sẽ hỏi han gì. Đến một cao ốc lớn, chung quanh có hàng rào, gõ
cửa, một người đàn ông mở cho chúng tôi vào. Ông này có một danh sách. Tên
chúng tôi có trong danh sách rồi. Khi qua khỏi bờ rào, chúng tôi ngạc nhiên,
bên trong là một cái sân rất rộng đã đầy người đợi. Những người ấy từ khắp nơi,
nhiều người rải rác tận các tỉnh ngoài Trung, khoảng ngàn người có mặt. Tôi hỏi
thăm vài người xem họ ở đâu đến. Người thì bảo Đà Nẵng. Người thì bảo Nha
Trang. Chúng tôi không gặp người quen nào cả, hình như chẳng ai ở Sài Gòn ngoại
trừ hai anh em chúng tôi.
Lúc ấy lòng
tôi sướng vui rộn rã. Tôi hãy còn nhỏ, tôi không phải sống dưới chế độ Cộng sản,
tôi sẽ được đi học ở Mỹ, khi nào hết Cộng sản thì tôi trở về Sài gòn.
Chúng tôi đợi
trong sân không lâu thì họ gọi tên. Hai anh em tôi đi ra cổng. Ngoài ấy có tài
xế xe buýt đang đứng kiểm người trong danh sách. Lên xe buýt, chúng tôi không
tin nổi. Chúng tôi là những người đầu tiên ở trong sân được gọi đi. Hai anh em
mỗi người một cái túi, chẳng tiền bạc gì. Bố tôi đã dặn khi đến thì gọi điện
thoại, bố tôi sẽ gửi tiền sang vì chúng tôi dự định sẽ đến California ở với một
người quen.
Người ta chở
chúng tôi ra phi trường. Phi trường đông nghịt người, trời nóng hừng hực. Chúng
tôi ra khỏi xe, đứng một bên chờ trong khung cảnh ồn ào ấy: Máy phóng thanh
oang oang gọi tên người, hàng quà, hàng nước, người bán hàng rong rao inh ỏi. Bọn
đổi tiền lăng xăng gạ gẫm. Nhiều người đứng khóc. Người ta choáng váng chẳng rõ
mọi việc ra sao, rồi đây sẽ đến nơi nào.
Chúng tôi
cũng chẳng rõ mọi việc ra sao, nhưng đột nhiên máy phóng thanh kêu tên. Ngạc
nhiên, tôi hỏi vài người ở đấy xem họ đã đợi bao lâu. Có người bảo: “Cả tuần lễ
rồi”. Có người thì hai, ba ngày. Tôi đang nghĩ có lẽ chẳng bao giờ tới lượt anh
em chúng tôi, thì chợt họ gọi tên, đưa chúng tôi ra Trạm khởi hành.
Họ khám người,
khám hành lý.
Họ bảo anh
em chúng tôi đứng sắp hàng. Một lúc sau, họ dẫn chúng tôi ra máy bay. Bên ngoài
máy bay có hai quân cảnh Việt Nam đứng gác để ngăn ngừa những người đào ngũ chạy
ra khỏi nước. Họ nhìn mọi người một cách cẩn mật, nhưng không hỏi gì chúng tôi.
Anh em chúng tôi bước vào máy bay.
Tôi tưởng là
một cái máy bay đàng hoàng, nào ngờ chỉ là một chiếc C-130. Chúng tôi vào theo
lối đàng đuôi, bên trong không có ghế. Chúng tôi phải ngồi chen chúc trên sàn
như cá hộp. Lúc ấy cửa sổ còn mở, chợt bên ngoài vang lên một tiếng nổ lớn, tôi
hoảng hốt nghĩ: “Trời ơi, cái gì thế”. Một tiếng nổ thật lớn ngay đằng sau máy
bay.
Chiếc máy
bay chuyển dịch. Chạy, trong lúc cửa còn mở. Tôi nhìn qua cửa thấy người ta chạy
khắp bốn phía, nã đạn lên trời. Họ đều có vẻ hoảng hốt. Những người bên cạnh
tôi trong máy bay rú lên kêu khóc. Vài người bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng. Tôi
nắm lấy anh tôi mà bảo: “Cầu cho máy bay này đừng rớt”.
Người ta vẫn
không có thì giờ đóng cửa. Chiếc máy bay chạy trên phi đạo nhưng cửa vẫn còn mở.
Khi máy bay cất cánh, chúng tôi có thể nhìn rõ qua phiá sau, dưới đất người ta
chạy toán loạn với hàng trăm tiếng nổ. Trong lửa đạn, cả phi trường đắm chìm
trong cơn điên loạn.
Theo sau
chúng tôi một chiếc C-130 nữa tiến tới. Chỉ vài giây sau khi chúng tôi cất
cánh, nó bốc lên theo. Tôi nghĩ đây là hai chiếc máy bay cuối cùng cất cánh từ
Tân Sơn Nhất. Chúng tôi may mắn quá.
Lúc chúng
tôi rời Sài Gòn, một người lính Mỹ đứng trấn ở cửa sau máy bay ôm súng bắn xuống
đất. Máy bay cất cánh lên rồi, anh ta vẫn cứ bắn. Bên trong máy bay, nhiều người
khóc om sòm. Lúc nhìn người lính Mỹ đang bắn, tôi tự hỏi chẳng biết anh ta bắn
gì. Tôi nghĩ anh ta đang cố chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ một lần cuối cùng.
Tôi nghĩ anh ta muốn bảo mọi người, với khẩu súng, là: “Đừng bắn vào phi cơ
chúng tôi! Đừng lộn xộn với cái phi cơ này! Bọn này là Mỹ đây. Trên phi cơ có
súng – tránh ra. Để chúng tôi yên!” Nhưng tôi chỉ đoán thế. Tôi không nghĩ anh
ta biết được chuyện gì đang xảy ra. Tất cả chúng tôi lúc ấy đều thực sự rối
ren.
Dẫu sao, đó
là hình ảnh cuối cùng tôi thấy ở quê nhà. Trong lúc máy bay cất cánh tôi đã thấy
hình ảnh Việt Nam với một người lính đang cầm súng bắn vào đất nước ấy. Chúng
tôi hạ cánh ở Phi Luật Tân, tại Phi trường Clark. Người ta đưa chúng tôi đến một
nhà kho rất lớn, người Mỹ đã sắp đặt mọi thứ chu đáo làm chúng tôi ngạc nhiên.
Họ đưa chúng tôi vào một khu chuyển tiếp khá rộng rãi, có cả máy truyền hình,
giường nệm đầy đủ. Ngày hôm sau, người ta bảo Cộng sản đã chiếm Sài Gòn. Chúng
tôi đều bàng hoàng. Chúng tôi lo lắng chẳng rõ gia đình ra sao. Bố mẹ thế nào.
Cuộc đời chúng tôi khi đến đất nước Hoa Kỳ sẽ đi đến đâu. Bao nhiêu câu hỏi nảy
ra trong tâm trí anh em tôi.
Chúng tôi
xem tin trên truyền hình, nhìn cảnh Bộ đội Cộng sản tiến vào Sài Gòn. Nhiều người
khóc khi thấy cảnh đó. Anh em tôi cũng khóc. Gia đình chúng tôi vẫn còn ở Việt
Nam. Anh em tôi nhìn nhau tự hỏi: “Rồi ngày mai, cuộc đời chúng tôi sẽ ra sao?”
(Còn nữa)
Nguồn: Blog
Phan Ba
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét