Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2021

Nguyễn Gia Việt : Cái thói "Bố đời" của người Bắc

Trên FB thấy một người xưng quê Cà Mau mà mở miệng cứ “Lịt mẹ mày", rồi "Con ch.ó", “Bố mày bảo", “Bố mày cho" nghe phát mệt.

Rồi "Mày nên bỏ thói quen vào facebook bố mày đi. Mày biết bố mày là ai không?"

Thích xưng danh... Ta coi hát bội, thấy các nhân vật ra sân khấu sẽ tự xưng danh “Như ta đây" để khán giả biết, nhưng đó là sân khấu, ngoài đời ít ai "tự xưng" kiểu vậy lắm vì rất kỳ khôi.

Cái thói "Bố mày ban cho", “Ông mày nói cấm cãi" là cái thói xấc xược, kênh kiệu của văn hóa Miền Bắc mà thiện hạ kêu là chủ nghĩa bố đời: thích ban phát những thứ không thuộc về mình, phải hơn thiên hạ dù bằng lời nói dù bản chất, trí thức, của nả không hơn ai.

Người Miền Bắc sống sau lũy tre làng bé nhỏ nhưng có tư tưởng rất "ngông nghinh" kiểu là anh cả, trưởng tộc có quyền sanh sát, chỉ tay năm ngón, ban ơn, phân loại kẻ khác.

Nho sinh, có học như Cao Bá Quát - khi mà tánh khiêm cần phải thể hiện mà còn ngông kiểu "Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, mình tôi chiếm hai bồ, anh tôi và bạn tôi, Nguyễn Văn Siêu, chiếm một bồ, còn bồ thứ tư chia - cho mọi kẻ khác” thì đủ biết sĩ phu Bắc Hà họ sống ảo cỡ nào!

Có giai thoại nói Cao Bá Quát là người kiêu căng, ngạo mạn, khi nghe những bài thơ của Mạc Vân Thi Xã (Tùng Vân Thi Xã) do Tùng Thiện Vương Miên Thẩm và Tuy Lý Vương Miên Trinh sáng lập ở Huế, ông bịt mũi lại và ngâm "Ngán thay cái mũi vô duyên, Câu thơ Thi Xã, con thuyền Nghệ An".

Xưa dân Nghệ An hay chở mắm và nước mắm vô Huế đi bán, trong các loại mắm thì mắm Nghệ An có mùi thúi kinh khủng nhứt. Đọc giai thoại thấy kinh khủng chưa.

Nhưng thực ra Cao Bá Quát có thể bị "nhét" giai thoại, tức là bị gán, chưa có sự thực chứng minh. Tuy nhiên, giai thoại ngông nghênh này của sĩ phu Bắc Hà chứ của ai, tạo ra và cho chúng ta thấy rõ cái "bố đời" trong xã hội đó.

Nam Kỳ không có gia phả, không lũy tre làng, không lý trưởng, không trưởng tộc, không phân loại ngụ cư nên đôi lúc đối nghịch với cái thói mà người ta kêu là "rởm đời" đó.

Một số bạn Bắc ở thế dưới, cần van xin thì cứ run run nép sát xuống đất: "Dạ, vâng, em xin, em nghe...” nhưng khi trên cao thiên hạ thì rung đùi "Bố mày bảo cho chúng mày biết nhá!”

Nó có nguồn hết...

Văn hiến Việt bắt đầu từ vùng Bắc Kỳ ngày nay, xứ này thích kêu người “cha” sanh ra mình là bố, bố là tiếng phổ thông, cha là tiếng trung gian khi ám chỉ bố.

Người Bắc thích xài “Bố”.

Bố tương đương chữ phụ () của tiếng Hán. Bằng chứng rõ ràng nhứt là danh xưng “Bố Cái Đại Vương”của Phùng Hưng.

Bố Cái Đại Vương được giải nghĩa là ‘Cha mẹ’ (là) đại vương.

Nhiều người Bắc nói trong chữ Nôm, Bố là cha, Cái là mẹ; ai có ân đức lớn thì dân coi như cha mẹ. Người Bắc kêu “bố” cũng là “bô”. Ta có từ “bô lão” đồng nghĩa với “phụ lão”.

Người Bắc Kỳ hầu như không kêu “cha", họ chỉ kêu bố, dù cha cũng là một danh xưng tồn tại trong xã hội Bắc Kỳ từ xưa.

Bắc Kỳ mà chửi nó kiểu Nam Kỳ là "Tổ cha mày” thì không ép phê bằng "Đ.ịt bố mày”. Chửi “Đ.ịt bố mày” nó mới tức điên.

Tại vì từ đ.ịt là ám chỉ hành động giao cấu trong làm tình, nhưng cái nghĩa nó còn là đánh rắm, xì hơi, thành ra "đ.ịt bố" nó có cái nghĩa là xéo xắt, đê tiện, dơ dáy, hạ nhục, và mất dạy ở trong đó.

Nam Kỳ chửi "ĐM mày" mà người nghe không tức, nhưng Bắc Kỳ chửi "Đ.ịt bố mày" là người bị chửi nếu là Bắc sẽ tức điên tiết lên liền.

Người Bắc còn chế ra những câu chửi như lấy d.ao ngoáy vào lòng người ta, xát muối ớt vô, đại loại là "Tiên sư bố nhà mày", “Tao lịt cả lò chúng mày"...

Bắc Kỳ là một xứ có “Văn hóa chửi mắng”, chửi là đặc sản, chửi có lớp lang, có vần, có vè, lên bổng, lúc xuống trầm, chửi sáng chửi trưa, rủa chiều xả tối, chửi ba ngày ba đêm, chửi cả tháng...

Nhớ hồi năm 2018 một nhà dân chủ ở HN đăng đàn chửi sao mà "Tế cái mả bố..."

Có tiếng, nổi tiếng mà mở miệng đòi đụng vô cái “mả bố” thiên hạ thì e rằng nó không có đặng, quá xá lưu manh!

Đó là thói quen đào mồ cuốc mả người ta, thói rất lưu manh.

Mày động mả cha người khác thì người ta để yên mả cha mày à?

Mất con gà mà chửi có điệu luôn.

Xứ Bắc có tiếng là đất học, đất “lý thuyết suông Nho học”, lúc nào cũng chứng tỏ hàn lâm, có vô số cử nhơn, tấn sĩ trong các ngôi làng. Văn chương linh láng nên chửi cũng rặc vần điệu, lên xuống, nhấn nhá thả hơi.

Bắc Kỳ nổi tiếng “thâm”, cái chữ thâm cũng đủ hiểu mức độ. Chửi vần điệu nhưng ngoáy vào người ta như dùng con d.ao mà đ.âm ng.oáy sâu vô, xong còn cho thêm miếng mắm tôm, miếng muối cho vết thương nó rát âm ỉ trong thời gian dài.

Chửi làm sao người ta phải “đau”, đau mà ngủ không yên, ngủ không ngon giấc, phải đau đầu khi nhớ về câu chửi, tức âm ỉ tới bể phổi, đứt gân máu mà chết.

Xứ Bắc Kỳ là xứ “tổ” chửi, chửi trở thành văn hóa đặc trưng của Bắc Kỳ, tới cụ tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến còn làm thơ chửi mà:

“Xem hoa, ta chỉ xem bằng mũi

Đếch thấy hơi hương một tiếng khà“

Nguyễn Du cũng không thua chị kém em, cũng chửi:

“Phụt ngọn đèn trước mặt, đếch sự đời! Chẳng phải đứa tiểu tâm

Đùng tiếng lói sau nhà, đù mẹ kiếp!

Bỗng có thằng đại phá...”

(Văn tế Trường Lưu nhị nữ)

Mất có con gà thôi mà Bắc Kỳ cho vô “huyền thoại” chửi.

Đây nè:

"...Mả bố đứa nào bắt gà của bà! Mày bắt gà bà, mày băm, mày bổ, mày rỉa, mày rói, mày gói, mày dâng cho thằng trắng râu đầu bạc, nó sắp sửa ngồi bát bình hương nhà mày nó xơi nhá...

Ché.m cha đứa nào bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy còn, sáng hôm nay bà gọi nó, nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đ.ào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai quật bật săng thằng ngũ đại, lục đại nhà mày lên.

Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái xám. Hôm qua tôi còn cho nó ăn, thế mà bây giờ nó bị mất. Ai bắt được thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe.

Ấy... ấy...

Bố cái thằng chết đ.âm, cha cái thằng chết x.ỉa. Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà, này bà bảo cho chúng mày biết: Con gà nó ở nhà bà, nó bị bắt trộm về nhà mày thì nó thành con cú, con cáo, con "thành đanh mỏ đỏ", nó m.ổ mắt x.é xác ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái nhà mày đấy.

Ấy... ấy...

Mày ăn thịt con gà nhà bà thì mày ăn một miếng, ch.ết một đứa, ăn hai miếng ch.ết hai đứa, ăn ba miếng c.hết ba đứa và ăn cả con gà đó sẽ chết cả ổ nhà mày.

Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn mang trả ngay con gà đó cho tao, kẻo không tao đ.ào mồ, qu.ật mả cao tầng tổ khảo, cao tằng tố tỉ, thúc, bá, huynh, đệ, cô, dì, tỉ muội nhà mày đấy!

Cha tiên nhân ông nội, ông ngọai, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhé. Mày gian tham đã ăn trộm, ăn cắp con gà nhà tao. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước, đầu ra sau, đẻ sót nhau. Chết mau chết sớm, chết trẻ đẻ ngang nhé... nhé!

Ch.a tiên nhân tam tứ đại đồng đường nhà mày, đồ quạ tha ma bắt, đồ ăn gian nói dối, dám đổi trắng thay đen, dám vu oan giá họa cho nhà bà. Bà truyền bảo ba hồn chí vía cho nhà mày biết: Quân điêu ngoa đi ngang về tắt, quen thói giăng hoa chim chuột, không ch.ết treo chết ch.ém thì cũng ch.ết sông chết ngòi, ch.ết đường chết xá, mưa sa gió dập đời mày. Ba vạn chín nghìn âm binh quen đựng điều đặt chuyện, cũng không cứu nổi cái tội mỏng môi hay hớt của m..à..y... m...à..y... đấy nhá! nhá!

Con gà của tao nuôi bằng gạo, bằng thóc, vậy thằng cha nhà mày đã bắt con gà của tao. Nó là con gà, con qué, nó về nhà mày là con cú, con cáo, nó m.ổ gan l.òi ruột đứa nào ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thành đanh đỏ mỏ r.út ruột r.út gan nhà mày ra. Mày không thả gà nhà tao ra, tao đóng ghế 9 tháng 10 ngày, buổi sáng tao chửi, buổi chiều tao tế, buổi trưa tao hú, buổi tối tao nguyền. Tao rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui, cho thần trùng đến rút từng khúc ruột cha, ông, vợ, con nhà mày ra.

Tao hú ba hồn bẩy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con đàn bà bắt con gà nhà tao. Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cờ đỏ đứng sau nhà, ông cờ vàng dựa bên hữu, ông cờ trắng nghiêng bên tả, yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ng.ược, sinh cháu ra thì ngang vì dám cả gan ăn con gà mái nhà tao.

Cha đẻ mẹ thằng đàn ông, con đàn bà nào quen thói bán không mua chịu, quên vay đầy giả vơi, đẻ con có mồm mà nói điêu, có mắt mà nói mò như mày...

Cha đẻ nhà chúng mày nhá.

Hôm nay tao chửi một, ngày mai tao chửi hai, tao chửi cho chúng mày hóa điên hóa cuồng, tao rủa suốt tháng liên miên không ngừng, năm này qua năm nọ. Bây giờ tao mệt quá rồi, tao vào lo cơm nước, muốn sống thì phải thả gà tao ra, lạy tao hai lạy, tao tha cho mày. Nếu không, ngày mai tao tế sống chúng mày cho mà biết, chúng mày hãy vén màng tai, gài mái tóc, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi: Bớ con nào bắt gà nhà tao thì đẻ con không có l.ỗ đít.

Bớ...

Có là... là... hùm, là hổ thì cũng chui từ cái lỗ kín của đàn bà mà ra. Từ ông ba mươi đến con thối thây, thối xác cũng chẳng thóat được cái lỗ rò ấy. Đời con đời cháu nhà mày cũng ở cái giống ấy mà chui ra. Này, bà báo đời cho mày biết nhá, con đĩ gầy, đ.ĩ rạc, con đ.ĩ chửa hoang.

Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Con gà nó ở nhà tao nó là con gà, nó sang nhà mày nó là thần đanh đỏ mỏ.

Cha năm đời mười đứa nào bắt gà của bà thì thò mặt ra nghe bà chửi thêm nhé! Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc, mày nấu, mày nướng. Cho vợ, cho chồng, cho con, cho cái, khi khi khú khí với nhau nhá! Mày có khôn hồn thì trả ngay cho bà, nếu không ngày rằm, ngày một bà trồng cây chuối ngược…” (Hết trích dẫn)

Nay chửi bà này, mai chửi ông kia, trên FB chỉ toàn chửi:

“Hôm nay bà chửi một bài

Ngày mai bà sẽ chửi hai lần liền

Bà chửi cho mày hóa điên

Bà rủa suốt tháng liên miên không ngừng”

Làng kịch Tp HCM đón cái tiểu phẩm "Bà mất gà chửi" là do Hồng Vân diễn đầu tiên, bà này BK gốc. Sau đó lan ra, gần nhứt là "Pe.de chửi" trong "Ghe bẹo", nhìn rất kỳ cục, chửi có vần, có bài mà áp trong xã hội Nam Kỳ là không trúng rồi.

Dân SG mất tiền ngồi coi... chửi.

Nam Kỳ “Tổ bà mày”, “Bà nội cha mày” mà người bị chửi cười khì khì; Bắc Kỳ chửi “Tiên sư bố mày” thì tức điên.

Những người có lòng với sử học xứ Việt rất bực mình khi chứng kiến cảnh “hạ nhục” màu cờ đối thủ của một số người Bắc.

Sau 1975, Bắc Việt vào Nam Kỳ, dẹp VNCH lên đỉnh cao, và họ bắt đầu chiến dịch lăng nhục VNCH, CS kêu quân dân VNCH là “Ngụy quân”, “Ngụy quyền”, kêu lá cờ của VNCH là “Cờ ba que”.

Ba que là một thành ngữ của người Bắc Kỳ , nguyên câu là “Ba que xỏ lá”, nghĩa là quân lừa lọc, bịp bợm, đểu cán, lưu manh.

“Ba que xỏ lá” tương ứng với câu “Quân đá cá lăn dưa” của người Nam Kỳ.

Hãy đọc bài đồng dao của Bắc Kỳ sau:

“Hít le ba que xỏ lá

Ăn cắp cá của nhân dân

Ăn cắp quần của bộ đội

Lội xuống ao

Không có tao, mày chết đuối”

Đã có lời giải thích cho thành ngữ “Ba que xỏ lá” rồi.

Trong bài “Phú tổ tôm” của ông Trần Văn Nghĩa thời vua Minh Mạng liệt kê những trò lừa gạt xưa ở Bắc Kỳ có câu:

“Lạt nước ốc trò chơi vô vĩ, tam cúc, đố mười, bấy linh, bầy kiệu, thấy đâu có vẻ thanh tao. Ngang càng cua lới ở bất bình, xa quay, chẳng lẻ, dồi mỏ, ba que hết thảy những tuồng thô suất”.

Như vây “Ba que xỏ là” là một trò chơi dạng hội chơ lô tô như ngày nay, người chơi phải thọt hay phóng đủ 3 cái que vô một cái lá thì trúng, nhưng chủ trò thường sẽ có chiêu gian lận, thành ra người chơi ít có thắng.

Người Nam kêu “cái cây” dù nhỏ hay lớn, còn Bắc Kỳ kêu những cái cây nhỏ, ốm là cái que.

Năm 1906, Nguyễn Khuyến bị đục thủy tinh thể mắt nhìn không rõ, năm đó ông làm giám khảo cuộc thi vịnh Kiều.

Chu Mạnh Trinh thắng giải, nhưng trong bài “Vịnh Sở Khanh“ của Chu Mạnh Trinh có câu: “Làng Nho người cũng coi ra vẻ, Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay”. Đọc thấy chướng, Nguyễn Khuyến phê mấy chữ thẳng vô: “Rằng hay thì thật là hay, Nho đối với xỏ, lão này không ưa.”

Chu Mạnh Trinh để bụng, Tết đó gởi tặng Nguyễn Khuyến một chậu bông trà - thứ hoa có sắc nhưng không có hương ngầm đá xéo Nguyễn Khuyến mắt mờ không thấy cái đẹp.

Nguyễn Khuyến tạ lại người cho hoa trà bằng bài thơ ''Sơn trà'' trong đó có hai câu thứ 5 và 6, câu:

''Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp

Tiêu sắc thần phong oán lạc dà''

(Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá

Gió to luống sợ lúc rơi dà)

Phạm Duy Tốn trong bài luận “Con người Sở Khanh” đăng ở Nam Phong năm 1919 có câu:' “Trời đất ôi! Ngờ đâu con người thế, mà xỏ lá ba que!...“

“Cờ ba que” mà Bắc Kỳ CS chửi vốn là cờ VNCH, cờ vàng, dân gian Nam Kỳ kêu là cờ ba sọc.

Quốc gia Việt Nam đã chọn lá cờ nền vàng có ba vạch đỏ quẻ Càn trong Kinh Dịch làm quốc kỳ, kéo dài hết thời Đệ Nhứt và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà.

Họ chửi "cờ ba que", coi nó thâm cỡ nào.

Coi thi bolero sợ nhứt là cái giọng chảy thiu nhớt nhợt cùng với cách xài từ dao búa lè lưỡi và giả nai, cưa sừng làm nghé của bà Trác Thúy Miêu.

Bà này rất giỏi "đảo chữ" và "tráo chữ", tức là xào những câu Sài Gòn xưa, thêm vô những câu tối nghĩa, uốn éo nó ra ngôn ngữ của bà, rồi tóc tai, quần áo, ẹo ẹo vài cái, nhưng ai cũng thấy sự xéo xắt trịch thượng trong những câu nói đó.

Trác Thúy Miêu cố giả cách Sài Gòn xưa nhưng chính ngôn ngữ thọc chọt, móc xỉa và "bố đời" từ miệng thốt ra đã không che giấu được cái Bắc cố hữu trong con người của cô này.

Chúng ta nhớ cái phim “Ngôi Nhà Hạnh Phúc "của Hàn Quốc do Bi (Rain) đóng vai chánh Lee Young Jae.

Cái vai của Bi (Rain) nó nữa con nít nữa người lớn, hờn lẫy, giận rồi vui, ăn rồi ngủ; túm lợi nó đáng yêu biết chừng nào.

Ai dè qua phiên bản VN thì Vương Hoàng của Lương Mạnh Hải nó không có đáng yêu, nó không hồn nhiên kiểu con nít như Bi (Rain), cái vai của Lương Mạnh Hải thành nhỏ nhen, ti tiện, nhìn rất phản cảm.

Anh Lương Mạnh Hải là một người Bắc, anh có cái liếc, cái lườm kiểu Bắc, thành ra không thể tròn vai như Bi (Rain).

Bộ phim phiên bản Việt thất bại hoàn toàn.

Viết bài này ra không phải phân biệt vùng miền, đả kích ai hết, nói là nói thẳng. Không phải người Bắc nào cũng có thói "Bố đời", nhưng tỷ lệ cũng không phải là ít nên nó thành hiện tượng đó thôi.

Lịch sử và văn hóa nó đã là như vậy rồi.

Theo Nguyễn Gia Việt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét