Xác lập luận về lãnh thổ và biên giới của Campuchia từ giữa thế
kỷ XX liên quan đến hai vấn đề lớn: thứ nhất là vùng hạ lưu sông Mekong thuộc
về ai? Và đường biên giới ngày nay hình thành như thế nào? Cả hai đều liên quan
đến một diễn trình lịch sử lâu dài và cực kỳ phức tạp trong suốt hai nghìn năm
qua mà nhiều câu hỏi trong số đó vẫn chưa được giải đáp một cách thỏa đáng. Vấn
đề thứ nhất là rất nan giải, có thể được bắt đầu từ vương quốc Phù Nam. Liệu
những người Phù Nam này là các cư dân nói tiếng Nam Á hay Nam Đảo? Quan hệ giữa
Phù Nam với các vương quốc người Khmer là như thế nào? Khi “Tân Đường Thư” nói
rằng Chân Lạp của người Khmer đã xâm lược Phù Nam vào thế kỷ thứ VII và sau đó
phân chia thành “Thủy Chân Lạp” và “Lục Chân Lạp” thì điều đó có ý nghĩa gì về
mặt lãnh thổ? Những người Khmer sau đó đã cư trú ở vùng hạ lưu Mekong như thế
nào từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVII? Chúng ta cũng biết khi phái đoàn nhà Nguyên
do Chu Đạt Quan dẫn đầu đến Angkor vào cuối thế kỷ XIII đã mô tả các vùng đất
dọc theo sông Mekong không hề có cư dân mà chủ yếu là rừng rậm và các bầy trâu
nước. Sử gia Nhật Bản Yumio Sakurai thì lập luận rằng người Khmer đã bỏ hoang
nhiều khu vực ở hạ lưu sông Mekong như vùng Đồng Tháp Mười trong hơn một nghìn
năm. Vượt qua các vấn đề về chủng tộc và ngôn ngữ, chúng ta vẫn chưa rõ về mối
quan hệ giữa các trung tâm chính trị vùng hạ lưu sông Mekong trước thế kỷ XVII
cũng như sự ràng buộc của các thủ lĩnh Khmer hạ lưu (Okna) với triều đình
Campuchia vùng thượng lưu cho đến khi hình thành các nhà nước tập quyền sơ kỳ
hiện đại. Liệu mối quan hệ này nằm trong cấu trúc lỏng lẻo như mô tả ở Đông Nam
Á truyền thống như các chính thể theo giải ngân hà hay mạng lưới mandala
(galactic polities or mandala systems – đề cập đến mối quan hệ lỏng lẻo giữa
các trung tâm quyền lực với các thế lực địa phương).
Vấn đề xác định lịch sử đường biên cũng không dễ dàng vì những
biến động lịch sử ở cả Việt Nam và Campuchia trong suốt 200 năm qua, kể từ khi
Việt Nam được thống nhất vào năm 1802 và chính thức xác lập quyền kiểm soát đầy
đủ và có hệ thống ở hạ lưu sông Mekong. Mặc dù người Pháp vẽ các bản đồ mà từ
đó đường biên giới này được quốc tế công nhận, và sau này cả Việt Nam và
Campuchia dựa vào đó để hoạch định đường biên, thực tế là nó dựa trên cơ sở của
đường biên xác lập bởi nhà Nguyễn và các vương triều Campuchia từ 1755 đến
1847, thông qua chiến tranh, mở rộng lãnh thổ, cắt nhượng đất đai, di cư, xây
dựng hệ thống thủy lợi, và các tuyến phòng thủ. Nhà Nguyễn đã sử dụng các yếu
tố địa lý tự nhiên như phương tiện xây dựng hệ thống quân sự, bố trí dân cư và
từng bước tổ chức hệ thống hành chính nhằm “lãnh thổ hóa” vùng hạ lưu Mekong.
Đến giữa thế kỷ XIX thì về cơ bản đường ranh giới này đã được định hình và được
công nhận bởi cả Huế, Phnom Penh và Bangkok. Điều này chống lại hoàn toàn lập
luận từng rất phổ biến của Campuchia là người Pháp lấy sáu tỉnh Nam Kỳ trong
tay Campuchia vì thế cần phải trả lại cho Campuchia trong quá trình phi thực
dân hóa.
Dự án lãnh thổ hóa hạ lưu Mekong và thiết lập đường biên giới
giữa Việt Nam và Campuchia được thực hiện dưới ba triều vua là Gia Long
(1802-1820), Minh Mệnh (1820-1841), và Thiệu Trị (1841-1847). Một trong những
giai đoạn đỉnh cao của nó chính là việc Minh Mệnh can dự trực tiếp vào
Campuchia trong những năm 1830s, thiết lập nền cai trị trực tiếp và chia lãnh
thổ của vương quốc này thành 11 phủ và 25 huyện. Tuy nhiên cuộc xâm lược của
Bangkok và nổi dậy của người Khmer dưới sự giúp sức của người Thái đã nhanh
chóng làm thay đổi cán cân quyền lực trong khu vực dẫn đến việc Thiệu Trị rút
quân về nước, công nhận vua Campuchia là Ang Duong với tư cách đồng thời là chư
hầu của Bangkok và Huế. Sự kiện này chấm dứt tham vọng của triều Nguyễn ở
Campuchia, đồng thời cũng củng cố các nỗ lực nhằm xác lập đường biên giới Việt
Nam-Campuchia dựa trên các đường gianh giới tự nhiên, quân sự, và dân cư.
Nguyễn Ánh, người sáng lập vương triều Nguyễn cũng chính là
người đầu tiên nhận thức được vai trò chiến lược của hạ lưu sông Mekong và biến
nó thành sức mạnh trong cuộc tranh chấp quyền lực ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.
Sau gần ba thập kỷ tiến hành chiến tranh, chiến thắng của ông vào năm 1802
trước Tây Sơn đã lần đầu tiên hình thành một Việt Nam thống nhất từ biên giới
Việt-Trung đến bờ vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, dù Huế kiểm soát các khu vực quan
trọng như Quang Hóa (Tây Ninh), và các khu dân cư dọc theo Châu Đốc, Hà Tiên và
các hòn đảo trong Vịnh Thái Lan như Phú Quốc, chưa có một đường ranh giới thống
nhất và được hoạch định rõ ràng giữa Việt Nam và Campuchia. Thực tế là Hà Tiên
vẫn nằm dưới sự kiểm soát của họ Mạc (dù họ được bổ nhiệm bởi Huế). Ớ phía tây
Hà Tiên vẫn còn tình trạng xen lẫn các nhóm quân sự Việt Nam và Thái. Một số
trong các đạo quân này được cử đến chiếm đóng từ thời vua Taksin của vương
triều Thonburi (1767-1782). Chính Gia Long viết thư yêu cầu Bangkok rút các lực
lượng này về, theo ghi chép cả cả biên niên sử hoàng gia Thái Lan và ghi chép
của sứ đoàn triều Nguyễn năm 1810 (xem Xiêm La Quốc Lộ Trình Tạp Lục).
Sự thay đổi mạnh mẽ về cấu trúc chính trị, phân chia địa lý và
tổ chức dân cư dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia được định hình về cơ bản
dưới thời Minh Mệnh (1820-1841). Quá trình này là hệ quả của nhiều nhân tố, bao
gồm có sự gia tăng xung đột giữa Huế và Bangkok xung quanh vấn đề Campuchia.
Năm 1813, nhà Nguyễn phái 13,000 đưa vua Campuchia là Ang Chan về nước, đồng
thời gia tăng quyền lực cho viên quan bảo hộ Chân Lạp trong việc kết nối tình
hình ở Campuchia với thành Gia Định. Điều này thúc đẩy các tranh chấp quân sự
và lãnh thổ giữa Bangkok và Huế trong ba thập kỷ sau đó dẫn đến việc các hệ
thống phòng thủ quân sự được xây dựng quy mô dọc theo Tây Ninh, Châu Đốc, Tân
Châu, Hà Tiên, Phú Quốc và sự gia tăng của binh lính đồn trú. Yếu tố thứ hai
chính là sự gia tăng của các di dân người Việt và người Hoa dưới sự bảo trợ của
hệ thống hành chính và quân sự triều Nguyễn thiết lập làng xóm, đồn điền dọc
theo các kênh đào, thành lũy quân sự và đường mới xây dựng.
Các kênh đào và hệ thống đường bộ được xây dựng với quy mô lớn
thời Minh Mệnh giúp người Việt củng cố việc kiểm soát lãnh thổ, di cư, và xây
dựng hệ thống phòng thủ vững chắc chống lại các cuộc tấn công xâm lược của
người Thái và nổi dậy của người Khmer. Kênh Vĩnh Tế dài 87 km nối liền Hà Tiên
với Châu Đốc đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong dự án chính trị và lãnh thổ
của người Việt nửa đầu thế kỷ XIX. Hàng vạn người Việt và Khmer được huy động
xây dựng các hệ thống thủy lợi, kênh rạch, đường xá đã làm thay đổi phân bố dân
cư, thiết lập các cấu trúc mới về không gian lãnh thổ và quan hệ chính trị ở hạ
lưu sông Mekong. Hệ quả của nó là sự mở rộng của không gian hành chính và lãnh
thổ của nhà Nguyễn. Khi kênh Vĩnh Tế được hình thành, có khoảng 20 làng mới
được thiết lập dọc theo bờ đông. Các con đường mới cũng được xây dựng ở Châu
Đốc và vùng núi Sam nhằm kết nối các khu dân cư mới với các thành lũy quân sự
dọc theo con kênh mới. Vào năm 1819, Hà Tiên có số nhân khẩu khoảng 1,500 đinh
và đội lính 250 người. Dự án tập quyền hóa của Minh Mệnh đã loại bỏ những tàn
tích tự trị cuối cùng của họ Mạc và đưa vùng đất này dưới sự kiểm soát trực
tiếp của Huế. Năm 1822, Hà Tiên được bổ nhiệm thêm chức quan đốc học, một dấu
hiệu cho thấy vùng biên cương này được kết nối văn hóa và giáo dục với trung
tâm. Năm 1826, Hà Tiên cùng với Long Xuyên và Kiên Giang được sáp nhập để thành
phủ An Biên – mà ý nghĩa của vùng lãnh thổ như tên gọi của nó, “biên cương an
bình”.
Các chiến dịch quân sự trong những năm 1830 giúp hoạch định rõ
hơn đường biên này. Phú Quốc, Châu Đốc, An Giang, Tân Châu trở thành các thành
lũy quân sự quan trọng chống lại cuộc xâm lược của Bangkok (1833-1834), cũng
như làm bàn đạp củng cố sự hiện diện quân sự của Việt Nam ở Campuchia. Phú Quốc
đóng vai trò đặc biệt quan trọng kiểm soát giao thương hàng hải và thủy quân ở
phía đông Vịnh Thái Lan. Năm 1832, Minh Mệnh cho xây dựng pháo đài trên đảo Phú
Quốc. Năm sau, tuần phủ Hà Tiên yêu cầu sáp nhập 13 hòn đảo vào địa hạt của
mình, bao gồm Thổ Chu và Phú Quốc. Đến năm 1837, Minh Mệnh yêu cầu các quan
chức đo đạc khoảng cách và vẽ bản đồ các hòn đảo dâng trình. Hà Tiên và Châu
Đốc trở thành cửa ngõ kiểm soát Vĩnh Tế, trong khi con kênh này trở thành tuyến
giao thương chiến lược cho thủy quân và các hệ thống quân sự nhằm ngăn chặn sự
xâm nhập của quân Xiêm xuống hạ lưu sông Mekong. Họ đã nhiều lần dự định lấp
kênh Vĩnh Tế nhưng thất bại. Viên tướng chỉ huy là Chao Phraya Bodindecha từng
yêu cầu quân lính ở Hà Tiên, Kampot và Kampong Som “bắt dân di cư, đốt hết nhà
cửa ở tất cả các làng mạc và hủy hoại các thành phố, chỉ để lại rừng rậm và
sông ngòi mà thôi.” Điều này thúc đẩy nỗ lực của nhà Nguyễn nhằm củng cố hệ
thống phòng ngự dọc theo kênh Vĩnh Tế. Nguyễn Tri Phương đã xây một loạt đồn
bảo ở Tiên Nông, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều dọc theo kênh Vĩnh Tế.
Cùng với sự hiện diện quân sự và cấu trúc hành chính của triều
Nguyễn được xác lập vững chắc dọc theo đường biên. Một trong những trung tâm
chính trị và quân sự quan trọng nhất được mở rộng là Châu Đốc. Năm 1832, tỉnh
An Giang được thành lập. Đến năm 1836, Huế đã có thể tiến hành đo đạc ruộng
đất, xác lập địa bạ và hệ thống quản lí đất đai ở khu vực này. Điều này dẫn đến
sự gia tăng dân số đáng kể. Năm 1838, Hà Tiên và An Giang đã có số đinh lên đến
23,000, dựa theo thống kê từ Đại Nam Thực Lục. Rõ ràng sau ba thập kỷ tăng
cường hiện diện quân sự, xây dựng hệ thống kênh đào, đường sá, thông tin liên
lạc, và các khu dân cư dọc theo biên giới, hình hài của đường biên giữa Việt
Nam và Campuchia đã từng bước được định hình.
Rõ ràng là trước khi có người Pháp đến, đường biên giới giữa
Việt Nam với Campuchia đã từng bước được định hình thông qua tương tác quân sự,
di dân, và các dự án chính trị. Cũng dọc theo kênh Vĩnh Tế trong những năm
1840s, Nguyễn Tri Phương đã yêu cầu thành lập thêm nhiều đồn bảo để ngăn chặn
sự xâm nhập của người Khmer, đặc biệt là ở các khu vực thuộc Đồng Tháp và Thất
Sơn. Với việc Việt Nam và Xiêm rút quân khỏi Phnom Penh và cả hai công nhận địa
vị chư hầu của Campuchia cuối những năm 1840s, thực tế cho thấy Huế, Bangkok,
và Phnom Penh đã đi đến công nhận hiện trạng của đường biên này, ít nhất như
chúng ta có thể phác thảo: từ Hà Tiên dọc theo kênh Vĩnh Tế, qua Châu Đốc và
kéo dài lên Tây Ninh. Một trong những biểu hiện của sự ghi nhận này chính là
việc các tập bản đồ của triều Nguyễn giữa thế kỷ XIX đã bắt đầu đề cập đến
đường biên này (xem bản đồ minh họa). Như thế, sự hình thành của đường biên này
là sản phẩm tương tác của chính các cư dân khu vực chứ không phải là sáng tạo
của chủ nghĩa thực dân Phương Tây.
Các nguồn sử liệu về đường biên giới Việt Nam – Campuchia:
Hiện nay có các tư liệu sử quan phương cũng như ghi chép cá nhân
đầu thế kỷ XIX cung cấp hệ thống chỉ dẫn phong phú về sự hình thành của đường
biên này từ thời Gia Long đến Tự Đức. Hơn 400 tập Châu bản triều Nguyễn liên
quan đến giai đoạn này (lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc Gia I) cung cấp
nhiều tư liệu quý giá về sự can dự của triều Nguyễn vào Cambodia và các vấn đề
dân sự-quân sự liên quan đến vùng biên. Một phần trong các văn bản tấu sớ chỉ
dụ này được biên soạn thành các bộ sách như Đại Nam Thực Lục, Khâm Định Tiễu
Bình Nam Kỳ Nghịch Phỉ Phương Lược Chính Biên, Khâm định tiễu bình Xiêm khấu
phương lược chính biên… Các sách địa lý, nhật ký hành trình, tập bản đồ và ghi
chép địa phương có số lượng tương đối phong phú, nhưng hầu như vẫn chưa được
các nhà nghiên cứu Việt Nam khai thác đúng mức. Gần đây tập sách “Xiêm La Quốc
Lộ trình tập lục” (1810) của Tống Phước Ngoạn và Dương Văn châu mới được giới
thiệu đến độc giả. Ngoài ra có thể kể đến Mạc Thị gia phả (Vũ Thế Dinh, 1818),
Trấn Tây Phong Thổ Ký (1836?), Trấn Tây Ký Lược (Doãn Uẩn, 1848), Cao Miên –
Xiêm La sự tích (Cơ mật viện, 1853)… Các tập bản đồ và địa lý liên quan đến Nam
Kỳ và Đại Nam thời Nguyễn: Bản Quốc Dư Đồ (EFEO: A.1106), Đại Nam Nhất thống dư
đồ (EFEO: A.68, 1861), Đại Nam Toàn Đồ (EFEO: A.1600, 1861), Nam Bắc Kỳ họa đồ
(EFEO: A.95)… ghi chép địa giới hành chính dân cư dọc vùng biên. Các bản đồ
được giới thiệu thời Nguyễn rất quan trọng trong việc xác lập tuyên bố lãnh thổ
của người Việt một cách liên tục trên vùng đất Nam Bộ. Đến giữa thế kỷ XIX, sự
xác lập này đã được thể chế hóa thông qua hệ thống hành chính nhà nước. Sự thực
hành lãnh thổ này sau đó nằm trong tay người Pháp với tư cách là người “bảo
hộ”. Dù là kẻ xâm lược và cai trị cưỡng bức, tư liệu địa lý-hành chính của
người Pháp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khẳng định sự hiện diện liên
tục về chủ quyền của người Việt/và chính phủ đại diện (một cách cưỡng bức) cho
người Việt. Trên cơ sở đó, từ các tập địa lý về Nam Bộ biên soạn bởi người Pháp
từ những năm 1860s cho đến biên khảo địa lý Hà Tiên, An Giang đầu thế kỷ XX đều
cho thấy sự hiện diện liên tục và thống nhất của đường biên giới này. Sự phong
phú tư liệu về vùng biên này dưới thời Bảo Đại, thời Việt Nam Cộng Hòa và Cộng
Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cung cấp khối lượng tư liệu dồi dào cho các nhà
nghiên cứu giúp phác thảo lại lịch sử phức tạp của vùng đất này.
——————————————
Bài viết này phản bác lại luận điểm rằng đường biên giới Việt Nam-Campuchia là
sáng tạo của người Pháp. Trái lại, nó là sản phẩm của các nỗ lực của nhà Nguyễn
ở đầu thế kỷ XIX trong việc hoạch định biên giới, tổ chức lãnh thổ, và xác lập
các hệ thống phòng thủ, cũng như bố trí dân cư dọc theo đường ranh giới mà theo
đó sẽ định hình nên đường biên hiện đại giữa hai quốc gia.
- Vũ Đức Liêm