Vua
Trần Nhân Tông đã để lại di chúc như sau:
“Các người chớ quên nước lớn thường làm điều trái đạo. Hoạ muôn đời của ta là nước Tàu. Họ không
tôn trọng quy ước và biên giới. Luôn luôn bày đặt chuyện để gây hấn. Không thôn
tính được thì gặm nhấm đất đai của ta. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một
tấc đất cũng không để lọt vào tay kẻ thù. Ðây là di chúc cho con cháu muôn
đời”. (Trần Nhân Tông 1279-1293)
Đoàn
Viết Ất quê Nam Định, di cư vào nam 1954, người chỉ huy pháo HQ 16 đã khai hỏa
bắn vào tàu Trung Quốc…
Lời Nói Đầu
Tuần vừa qua, hai chiến hữu già của tôi ghé thăm Viện Bảo
Tàng. Các bác Lương Văn Ngọ và Võ Ðại. Quí vị hỏi thăm qua loa nhưng thực tình
là yêu cầu yểm trợ để cùng đánh trận Trường Sa. Sẽ tổ chức gây quỹ, đăng báo Mỹ
để tuyên ngôn cho thế giới biết là quần đảo và hải phận Ðông Hải muôn đời phải
là của Việt Nam ta. Vâng, chúng tôi sẽ chuẩn bị tài liệu để triển lãm, duyệt
lại cuốn phim đem chiếu và xin viết bài này để góp phần giới thiệu với độc giả.
Lẽ dĩ nhiên cần sự giúp đỡ của các chiến hữu Hải Quân về các tài liệu. Chuyện
Hoàng Sa và Trường Sa nếu không có anh em hội Bạch Ðằng là không xong. Trưa thứ
bảy, cuối tuần, hội Hải Quân đến họp tại Viện Bảo Tàng để thảo luận về việc
thiết lập một sa bàn Hoàng Sa. Các bạn trao tặng bộ quân phục thuỷ thủ cùng rất
nhiều hình ảnh và tác phẩm liên quan đến trận hải chiến 34 nằm về trước. Những
tác phẩm viết về Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà và đặc biệt có trên mười tác giả
viết về biến cố Hoàng Sa ngày 19/01/1974. Hồi ký của tư lệnh Hải Quân vùng 1, của
vị chỉ huy hải đội Hoàng Sa, của trung tâm trưởng hành quân biển tại Sài Gòn,
các hạm trưởng, sỹ quan trên chiến hạm tham chiến số 4, 5, số 10 và 16, của
biệt kích trên đảo, sĩ quan truyền tin trên soái hạm, của thuỷ thủ trôi giạt
trên biển, của anh em đoàn viên và địa phương quân bị bắt tù binh đưa về TC.
Khối tài liệu hết sức phong phú trên ngàn trang phải đọc suốt cả tuần lễ chưa
hết. Ðặc biệt trong khi quí vị cấp trên viết còn dè dặt thì anh em cấp dưới
viết ra tất cả mọi chi tiết hết sức chân thật và rõ ràng. Những anh em mang đến
tài liệu cho chúng tôi, ngày xưa vốn là các thiếu tá và cấp uý trẻ trung của
biển cả, ngày nay tuổi đã về chiều mà tấm lòng nặng chĩu tâm tư khi nghe tin
các hải đảo xa xôi lại một lần nữa rơi vào tay địch. Trong số các chiến hữu có
mặt tại San Jose, chúng tôi đã gặp được một người, hết sức tình cờ và hết sức
đặc biệt.
Đoàn Viết Ất, người chỉ huy
pháo HQ 16 đã khai hỏa…
Ðó là Hải Quân Đại Uý Ðoàn Viết Ất, nguyên sĩ quan pháo
thủ của HQ 16 mang tên danh tướng Lý Thường Kiệt. Năm 1974, khi con tàu rẽ sóng
đi Hoàng Sa, Trung Uý Ất tưởng chỉ làm một chuyến hải hành tiếp tế như thường
lệ, nào ngờ ông đã tham dự vào trận đánh lịch sử. Chuyến về trên con tàu bị
thương với cõi lòng tan nát vì đã bỏ lại đồng đội trên hải đảo và biển cả.
Trung Uý Ất cùng một số Hải Quân được tuyên dương anh hùng, thăng cấp đặc cách
tại mặt trận. Ngày nay, ông Ất đang đóng vai một người dân tỵ nạn hiền lành sống
rất bình dị bên cạnh chúng ta. Ai biết đâu con người ấy, ngày xưa cũng đã từng
là một chiến sĩ dũng cảm của Hải Quân. Trong chiến trường, binh thư viết rằng
khi lâm trận, cấp uý ở ải địa đầu là những người quyết định thắng bại. Trên các
chiến hạm vào ngày đầu năm 1974, sống chết của con tàu trông cậy vào các Trung
Uý chỉ huy pháo thủ. Trên chiến hạm HQ 16 vào buổi sáng hôm đó, số mạng trong
tay Trung Uý Ất, ngồi bên cây đại bác 125 ly, nạp đạn chạm nổ, hướng thẳng vào
đài chỉ huy của con tàu địch trước mắt. Sẵn sàng chuẩn bị bắn trực xạ.
Cuộc đời Ðoàn Viết Ất
Sau trận Hoàng Sa, miền Nam ca ngợi chiến công của Hải
Quân anh hùng. Trong số các sĩ quan con sống mà được vinh thăng có Trung Uý
Ðoàn Viết Ất. Ất người Nam Ðịnh, 54 theo cha mẹ di cư vào Sài Gòn. Sinh viên
đại học Vạn Hạnh. Năm 20 tuổi vào Hải Quân. Học thêm Anh văn tại Sài Gòn rồi
thụ huấn căn bản quân sự tại Quang Trung. Năm 70 được gửi đi học tại trường Hải
Quân Hoa Kỳ khoá 4-OCS. Vào thời kỳ đó Sinh viên sỹ quan Hải Quân Ðoàn Viết Ất
đã có dịp học lái tàu Mỹ tại vùng Vịnh Cựu Kim Sơn. Khi về nước, chuẩn uý Ất
nhờ có đệ tam đẳng Thái cực đạo nên được làm huấn luyện viên võ thuật. Cuộc đời
đưa đẩy, trải qua các đơn vị, lên thiếu uý rồi Trung Uý thì bắt đầu xuống HQ 16
làm sỹ quan trách nhiệm dàn pháo cho chiến hạm. Các vũ khí dưới tay gồm có cây
125 ly, lớn hơn cả đại bác 105 của bộ binh. Những cây 40 ly một nòng và cây 40
ly nòng ghép đôi. Các bách kích pháo. Súng cá nhân, áo giáp và nón sắt. Cùng
với các đoàn viên xạ thủ đầy kinh nghiệm, Trung Uý Ất chỉ huy anh em vào nhiệm
sở tác chiến với một tinh thần hăng hái rất hào hùng. Khi con tàu Lý thường
Kiệt phải đoạn chiến về đến bến bờ quê hương, nhớ lại cảnh chiến hữu bị bỏ lại,
lòng dạ hết sức não nề. Một năm sau theo hạm đội hải hành chuyến cuối cùng anh
bỏ lại vợ con, vì vậy Đại Uý Ất quyết định từ giã Hải Quân tại Côn Sơn, xuống
tàu trở lại Việt Nam. Ðây là một quyết định sai lầm phải trả giá 6 năm tù cải
tạo trên miền biên giới Bắc Việt. Ngay sau khi được trả tự do, cựu Đại Uý Hải
Quân đã có nhiều nơi móc nối để lái tàu vượt biên. Năm 1983 cả gia đình đến
Bidong và sau cùng về định cư tại San Jose. Hai mươi năm qua chỉ làm một việc,
cho một hãng. Nghề sửa máy điện tử. Bây giờ ông già 60 tuổi theo phái tu thiền
tại gia, tuyệt thực mỗi buổi chiều. Buổi tối ngày15 tháng giêng năm 2008 đúng
34 năm trước sắp đến giờ khai hoả trận Hoàng Sa, công dân Mỹ gốc Việt tên Ất
Ðoàn ngồi nhớ lại lúc con tàu lướt sóng vào vùng hải chiến giữa các đảo Vĩnh
Lạc, Cam Tuyền, Quang Hoà và Duy Mộng.
Di chúc của tiền nhân
Với ngàn năm đô hộ giặc Tàu, Việt Nam trải qua bao phen
chống xăm lăng. Từ nhà Hán, nhà Ngô cho đến giặc Mông Cổ. Rồi nhà Minh, nhà
Thanh. Quân dân ta phải chống giặc Bắc phương suốt 4 ngàn năm lập quốc. Trận
hải chiến cuối cùng vào đời nhà Trần cách đây 7 thế kỷ. Vua Trần Nhân Tông đã
để lại di chúc như sau:” Các người chớ quên nước lớn thường làm điều trái
đạo. Hoạ muôn đời của ta là nước Tàu. Họ không tôn trọng quy ước và biên
giới. Luôn luôn bày đặt chuyện để gây hấn. Không thôn tính được thì gặm nhấm
đất đai của ta. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất cũng không để
lọt vào tay kẻ thù. Ðây là di chúc cho con cháu muôn đời”. (Trần Nhân Tông
1279-1293)
Trận Hoàng Sa
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19/01/1974, trận Hải chiến lịch
sử giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà và Hải Quân TC diễn ra tại Hoàng Sa. Nguyên
do vì sao ? Di chúc của vua Trần Nhân Tông để lại hơn 700 năm đúng từng chữ
một. Vẫn là hoạ phương Bắc. Nước lớn không tôn trọng quy ước. Bày đặt chuyện
gây hấn. Gặm nhấm đất của ta. Trận hải chiến hết sức anh hùng của lực lượng Hải
Quân nhỏ bé VNCH đã khai diễn với anh khổng lồ TC. Trước khi nổ súng, chiến hạm
2 bên đã cài răng lược, vì vậy chỉ vài giây phút đầu tiên là quyết định trận
đánh. Gần đến nỗi đại bác của ta bắn trượt tàu địch đã xéo qua tàu bạn. Trong
vòng 30 phút đầu tiên, bên ta chiến hạm HQ 10 bị trúng đài chỉ huy và hoàn toàn
bất khiển dụng. Hạm trưởng từ trần chết theo tàu, hạm phó ra lệnh đào thoát,
sau đó ông chết trên xuồng cấp cứu vì vết thương quá nặng. HQ 16 sau khi hạ
được một chiến hạm của địch cũng bị thương rất nặng. Hạm trưởng và thuỷ thủ
đoàn cố cứu con tàu ra khỏi chiến trường. Bên địch có 2 chiến hạm bốc cháy và 2
tàu còn lại chịu thương vong nhưng vẫn còn chuyển vận. Những hình ảnh sau cùng
ghi nhận được hết sức hào hùng nhưng đồng thời cũng hết sức thương cảm. Hải
Quân đào thoát từ HQ 10 ngồi trên bè cấp cứu bị tàu địch bắn theo. Nhưng đặc
biệt còn thấy chiến hữu từ chiến hạm không bỏ tàu vẫn tiếp tục tác xạ qua tàu
địch. Bút ký của người còn sống có ghi rõ cả tên các thuỷ thủ Việt Nam đang bắn
những viên đạn sau cùng. Nước biển trên đầu ngọn sóng làm nhạt nhoà nước mắt
của những lính bỏ tàu. Truyện kể của những anh em từ hải đảo xuống bè di tản
khi thấy bên ta bắn chiến hạm địch bốc cháy đã cùng nhau cất tiếng hát trên
biển Hoàng Sa.
Bài ca bất hủ đó là bản Việt Nam, Việt Nam.
Hãy tưởng tượng giây phút lạ lùng giữa trùng khơi dậy
sóng với lửa đạn vang trời, ai cất được tiếng hát … nghe tự vào đời … Việt Nam
nước tôi …
Năm 1974, dầu sôi lửa bỏng
Tháng giêng năm 1974 không phải là lúc Miền Nam thái bình
thịnh trị. Hiệp Ước Ba Lê đã ký xong nhưng hai bên vẫn còn chiến đấu trong trận
giành dân lấn đất. Với chương trình Việt Nam Hoá chiến tranh, Hoa kỳ đã rút hết
quân về. Xa hơn nữa, ngay từ năm 1970, Mỹ đã tuyên bố dứt khoát không tham dự
vào cuộc tranh chấp các hải đảo ở biển Ðông. Trong khi quân Mỹ rút thì Việt Nam
Cộng Hoà bùng lên tia hy vọng mới. Tin biển Ðông có dầu làm tổng thống Thiệu
nói với nội các là dường như Trời ngó lại. Một thùng dầu thô được lệnh đem lên
đốt tại Nghĩa trang quân đội Biên Hoà trong buổi lễ tưởng niệm để linh hồn 16 ngàn
tử sĩ phù hộ cho đất nước một tương lai tốt đẹp. Nhưng chính niềm vui ngắn ngủi
đã nằm trong thiên tai. Trường Sa là nơi có nhiều triển vọng của kho tàng đáy
biển. Muốn lấy Trường Sa thì TC phải thôn tính Hoàng Sa. Trong lúc VNCH còn
phải lo trong nội địa thì TC cho Hải Quân đóng vai ngư phủ xâm nhập phía đông
của quần đảo. Ðúng như vua Trần đã nói, chúng cứ gặm nhấm dần dần. Căn cứ vào
địa lý nhân văn, căn cứ vào di tích lịch sử, căn cứ vào hiện trạng thềm lục
địa, dứt khoát toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Từ ngàn xưa cho
đến ngàn sau. Nhưng đất nước đang chiến tranh, sức đâu mà có đủ phương tiện
trấn giữ cả trăm hải đảo cô quạnh giữa trùng khơi. Vì vậy, thừa nước đục thả
câu, các quốc gia lân bang xâu xé. Từ Tàu đỏ của Bắc Kinh cho đến Tàu vàng của
Ðài Bắc. Rồi Mã Lai, Indo và Phi luật tân đều nhào vô giành hải đảo. Nhưng có
kế hoạch và tham lam nhất vẫn là người Tàu. Từ Tàu ngày xưa cho đến TC ngày
nay, mộng bá quyền của người phương Bắc luôn luôn là cơn ác mộng của phương
Nam.
Ngày 15/01/1974 chiến hạm HQ 16 lên đường ra Hoàng Sa đưa
địa phương quân Quảng Nam ra thay phiên trấn thủ lưu đồn. Ngày 17/01 khi đổ bộ
lên đảo đã gặp Hồng quân. Từ trước đến nay vẫn gặp dân đánh cá xua đuổi là
chúng bỏ đi, những lần này lại là Hải Quân TC. Ðô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại tư lệnh
Hải Quân vùng I cảm thấy chuyện bất thường. Nhân lúc tổng thống Thiệu ra kinh
lý, nội vụ được trình trực tiếp. Sau phần trình bày của vị tướng
Hải Quân, ông Thiệu ngồi xuống lấy giấy bút viết tay trong 15 phút một bản văn
lịch sử. Ðây là chỉ thị căn bản của trận hải chiến duy nhất đã xảy ra giữa Việt
Nam và nước Tàu trong thế kỷ thứ 20. Tướng Thoại đã ghi lại trong tác phẩm “Can
trường trong chiến bại” chương 16 đại ý như sau. Lệnh viết tay của trung
tướng Thiệu chỉ thị áp dụng các biện pháp xua đuổi ôn hoà, bắn doạ cảnh cáo và
sau cùng thì dùng vũ khí để bảo vệ lãnh thổ. Quyết không để mất một tấc đất
nào. Tất cả mọi người hiện diện đều không có ý kiến. Các tướng lãnh và
phái đoàn chính phủ tháp tùng không ai lên tiếng. Không có bàn thảo gì hết. Xem
ra ông Thiệu hết sức cô đơn và cương quyết trong quyết định lịch sử rất có thể
bùng nổ lớn mà không ai tiên đoán được. Vẫn theo bản tính của ông, không ra
lệnh chi tiết về việc khai hoả. Không cần thảo luận về việc khả năng hùng mạnh của
toàn thể Hải Quân TC. Chỉ riêng Hạm đội Hải Nam cũng có thể tung ra 10 chiến
hạm phục kích vây chung quanh hạm đội Việt Nam và diệt gọn. Rõ ràng là một
quyết định châu chấu đá voi, dựa trên tình tự dân tộc với mối thù từ ngàn năm
trước. Sau cùng châu chấu cũng đành phải đá voi.
Hạm Đội Hà Văn Ngạc
Từ Sài Gòn đại tá Hà Văn Ngạc bay ra Ðà Nẵng nhận lãnh
chức vụ chỉ huy cuộc chiến lấy lại Hoàng Sa. Ðô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại tiễn ông
đại tá Sài Gòn lên HQ 5, mang hiệu kỳ soái hạm lên đường. Chia tay trên cầu tàu
căn cứ Ðà Nẵng, ông Thoại viết lại rằng đôi mắt chiến hữu nhìn nhau, cùng cảm
thấy sắp có biến cốÔ lịch sử. Lệnh phải bảo vệ đất nước được ghi rõ ràng từ
tổng tư lệnh. Quân xâm lăng lần này đâu có dễ thuyết phục. Hoàng Sa là con
đường đi xuống Trường Sa, mỏ dầu tương lai của cả Ðông nam Á. Hoa Kỳ lại xác
nhận là không can thiệp. Giặc Tàu chắc chắn sẽ không bỏ đi. Lính thuỷ Việt Nam
với 4 con tàu cũ sẽ lâm chiến trong hoàn cảnh hết sức cô đơn trên biển cả mênh
mông. Từ tướng cho đến quân, ai nấy đều biết rằng phải khai hoả trước. Không
thể bắn cảnh cáo doạ dẫm gì hết. Tiên hạ thủ vi cường. Ðiều quan trọng là khai
hoả vào lúc nào và ai sẽ là người ra lệnh khai hoả. Ðại tá Hà Văn Ngạc xuống
con tàu mang tên danh tướng Trần bình Trọng, phen này nếu chẳng may sa vào tay
địch chắc lại phải làm quỉ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc.
Khói Lửa Biển San Hô
Buổi sáng hôm đó trời trong sáng, vào lúc 10 giờ thì tàu
hai bên đã gần nhau. Bên địch bên ta kèm nhau từng chiếc một. Ngẫu nhiên mỗi
bên đều có 4 chiến hạm. HQ 16 có HQ 10 bên tay mặt làm thành phân đội số 2.
Soái hạm HQ 5 đi với HQ 4 là phân đội 1 vòng xuống phía đông nam đánh vào đảo
Quang Hoà. Lập tức 2 tàu địch tách ra ứng chiến. Hoả lực của hai bên tương
đương, nhưng tàu địch tối tân hơn, chạy nhanh hơn, thân nhỏ sàn tàu thấp tạo
thành mục tiêu di động và nhỏ bé hơn chiến hạm của Việt Nam. Các vị chỉ huy của
bên ta đều dự trù sẽ nổ súng trước khai thác yếu tố bất ngờ. Vả lại, địch là kẻ
xâm lăng, chiếm đất ta, ta có quyền nổ súng. Lúc đó Trung Uý Ất 24 tuổi, ngồi
trấn thủ cạnh cây đại bác quyết định chiến trường 125 ly nòng dài. Phía trước
mặt là 2 tàu chiến của TC chế ngự trước đảo Duy Mộng. Trung Tá Lê Văn Thự với
con tàu Lý Thường Kiệt đã xoay trở mấy ngày qua nên quen thuộc với khu vực đầy
bãi đá ngầm với san hô. Pháo đội trưởng rất tin tưởng vào dàn xạ thủ nhiều kinh
nghiệm với những năm yểm trợ hải pháo cho bộ binh vùng duyên hải Trung phần.
Các hạ sĩ quan đều vững tay nghề và tinh thần hết sức cao. Cũng có thể chưa
thấy quan tài chưa đổ lệ. Thực sự thì cả hai bên đều chưa hề có kinh nghiệm hải
chiến trên biển cả. Sách vở và chỉ thị dùng đạn xuyên phá nhưng Trung Uý Ất cho
nạp toàn đạn chạm nổ. Gần thế này mà xuyên phá thì hỏng hết. Phải chạm nổ mới
có kết quả. Lại có lệnh bắn yểm trợ cho bộ binh trên đảo trước. Mấy bác hạ sĩ
quan thâm niên đến bên cạnh thì thào vào tai anh Trung Uý trẻ. Ta cứ nhằm vào
đài chỉ huy mà ra tay trước. Nếu cứ phơi mình ra mà bắn yểm trợ lên đảo thì
chết hết còn đâu mà yểm trợ bộ binh. Nhớ lại chuyện 34 năm trước, ông Ất kể
rằng, chúng tôi cứ hướng vào đài chỉ huy của tàu địch. Ðịch di chuyển là các
nòng súng 125 và 40 ly theo sát. Phía bên địch cũng quay súng hướng về chúng
tôi như vậy. Giây phút nghẹt thở kéo dài. Lệnh từ soái hạm cho HQ 10 bắn trước.
Nghe tiếng nổ là các tàu khai hoả đồng loạt. HQ 16 hạ được một tàu địch và phía
bên phân đội 2 của HQ4 và 5 bắn cháy một tàu. Ngay sau đó thì HQ 10 bị địch bắn
xập đài chỉ huy. Trong hải chiến, mục tiêu chính là đài chỉ huy, nơi tập trung
bộ phận lái tàu, hệ thống điện, truyền tin. Kế tiếp là dàn pháo của tàu địch.
Phần còn lại nằm dưới mặt nươcÔ, phải tấn công bằng thuỷ lôi nhưng chiến hạm
không được trang bị. Súng bắn qua lại như mưa. Trung Uý Ất thấy rõ hai chiến
hạm địch bốc cháy. Bên HQ 10 có lệnh bỏ tàu, tình thế rất bi thảm. Cùng lúc đó
HQ 16 bị trúng thương nặng, lệnh bỏ tàu đã ban hành những sau đã kịp thu hồi và
cố gắng xoay trở để rời khỏi chiến trường. Hai chiến hạm của phân đội 1 cũng đã
trên đường triệt thoải khỏi vùng hải chiến. Hai chiến hạm địch còn lại cũng bị
thương nặng nên không đủ sức truy kích. Nếu không chắc chắn HQ 16 không thể
tiếp tục chiến đấu để tồn tại. Con tàu chỉ còn một máy, không có điện phải vận
chuyển bằng tay, cố lết ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Rời khỏi trận địa khoảng 11
giờ sáng, Đại Uý Ất còn nhớ lúc 3 giờ chiều chưa ra khỏi chiến trường. Nhìn về
phía sau thật xa vẫn còn thấy chiến hữu trên đảo vẫy tay gọi tàu vào đón. Con
tàu không còn khả năng tự xoay trở nên đã đành đoạn bỏ lại đoàn viên tuyệt vọng
mỗi lúc một xa dần. Sang ngày hôm sau toàn thể hạm đội Hải Nam của TC mới ào ạt
tiến đến và bắt tất cả các quân nhân của ta đem về lục địa. Sau đó trao trả tại
Hồng Kông. Còn các chiến binh thả trôi trên bè cấp cứu đã nhờ ngọn gió Ðông
thổi vào đất liền, trôi giạt cho đến khi tàu buôn và ghe chài vớt được trả về
cho đơn vị.
Giấc Mơ Của Ðại Uý Ất
Trung Uý Ðoàn Viết Ất với chiến công trên HQ 16 trong
trận Hoàng Sa đã được đặc cách lên Đại Uý. Chính vì cấp bậc này, cộng thêm khả
năng lái tàu Mỹ, ông được cộng sản gia tăng thêm 3 năm thành 6 năm cải tạo. Khi
ra tù, lại nhờ khả năng lái chiến hạm nên bà con móc nối cho lái ghe vượt biên
mới có cơ hội trở lại vịnh Cựu Kim Sơn quen biết từ năm 70.
35 năm sau, bác Ất quê Nam Ðịnh ngồi nhớ lại hình ảnh con
tàu HQ 10 nằm trên biển san hô. Biết rằng bây giờ ta đánh thì không lại quân
Tàu, những vật đổi sao rời, cũng có ngày nước Tàu chia năm xẻ bảy. Việt Nam hậu
sinh lấy lại được Hoàng Sa sẽ trục con tàu anh hùng lên làm thành một đài kỷ
niệm như người Mỹ đã làm ở Trần Châu Cảng xứ Hạ Uy Di. Ai mà biết giấc mộng đó
sẽ không phải là thực. Trong khi chờ đợi, Đại Uý Ðoàn Viết Ất sẽ cùng Đại Uý
Hải Quân Phạm Bách Phi làm một sa bàn Hoàng Sa cho Viện Bảo Tàng để con cháu
thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đến xem ông cha ta ngày xưa châu chấu đá voi ra làm
sao.
Lệnh Khai Hoả
Khi đặt bút viết bài này có tựa đề là Lệnh Khai Hoả. Tác
giả là một chiến binh lục quân chân đất, hoàn toàn không có kiến thức Hải Quân
nên chỉ xin lạm bàn chút đỉnh. Lệnh khai hoả thực sự bắt đầu từ đâu và vào lúc
nào? Ðô Đốc Kỳ Thoại viết trong chương sách về trận Hoàng Sa có ghi rằng đại tá
Ngạc chỉ huy hạm đội xin ông lệnh khai hoả. Qua máy truyền tin tiếng súng bắn
tại Hoàng Sa, đại tá Ngạc mở lớn cho ông Thoại nghe thấy. Bút ký của sĩ quan
truyền tin trên HQ 5 cũng ghi rõ đoạn này. Tài liệu bằng Anh ngữ của đại tá Ðỗ
Kiểm thuộc bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn lại ghi rằng đại tá Ngạc điện thoại về
xin lệnh khai hoả của đề đốc tư lệnh Hải Quân. Lúc đó tư lệnh đang trên đường
bay ra Vùng I. Vì chuyện khẩn cấp nên đại tá Kiểm xin lệnh của đô đốc Diệp
Quang Thuỷ có mặt tại bộ tư lệnh Sài Gòn. Nhận lúc họp bạn với anh em Hải Quân
để viết lại câu chuyện làm phim, chúng tôi có dịp nói chuyện thêm chi tiết với
đô đốc Thuỷ. Bây giờ đại tá Hà Văn Ngạc không còn nữa. Người viết chuyện tò mò
muốn tìm hiểu đành phải suy nghĩ rằng trước khi nổ súng ông đã gọi bộ tư lệnh
Hải Quân để xin phép trước. Qua Đô Đốc Diệp Quang Thuỷ ông được lệnh Sài Gòn.
Sau đó ông cẩn thận xin lệnh Ðà Nẵng qua đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, và lệnh khai
hoả bắt đầu. Tuy nhiên dù lệnh ra sao thì cũng chỉ qua giấy tờ và máy truyền
tin. Lệnh khai hoả đích thực sau cùng trên chiến hạm bằng khẩu lệnh là của cấp
uý như ông Trung Uý Ðoàn viết Ất. Lúc đó Trung Uý Ất mới 24 tuổi, dân Nam Ðịnh.
Ông là người tin vào những chuyện số mệnh linh thiêng huyền bí. Dù rằng lệnh
xuống theo hệ thống quân giai từ tổng thống, tư lệnh Hải Quân, tư lệnh Vùng,
chỉ huy hạm đội, hạm trưởng rồi mới đến tai ông. Nhưng theo tiếng gọi từ nơi xa
thẳm thì cái lệnh khai hoả đã bắt đầu từ vua nhà Trần. Bẩy trăm năm về trước
Ðức Trần Nhân Tông đã ra lệnh bắn quân Tàu. Tư lệnh quân đội thời đó là Ðức
Hưng Ðạo Đại Vương, Trần Quốc Tuấn. Có phải ngẫu nhiên hay không, vua quan nhà
Trần thời đó cũng là người quê ở Nam Ðịnh, chẳng khác gì ông tỵ nạn vô danh
Ðoàn Viết Ất ngày nay đang lưu lạc ở San Jose. Mỗi sáng vào sửa vài cái máy
điện toán, bữa ăn trưa là lần cuối trong ngày. Chiều chiều ghé vào nhà con trai
kèm bài cho cháu nội. Ông pháo thủ Hải Quân bỏ lại dàn đại bác từ hơn 30 trước
ở cuối chân trời. Từ ngày đó đến nay chẳng bao giờ còn nghe thấy lệnh khai hoả
của các cấp chỉ huy.
................................
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét