CÔ LÀ....
Ga Hàng cỏ không bán vé ở ghi-sê mà ở nhiều nơi. Lệnh cấm tụ tậm đông người cũng chỉ được vài ngày.
Trước cửa ga người đông đúc. Mấy anh tẩm quất, những người bán nước chè xanh xách ấm chạy rong, nhưng chỗ đông người nhất là mấy cô bán nón. Một cái giơ ra, hai cái giơ ra, ba cái giơ ra đội đầu và chào mời nhặng xị. Đèn điện bị che kín, quãng phố tối như ở nông thôn.
Tôi nhìn qua ánh sáng lơ mơ thấy cô gái khoảng 18,20. Tôi cất giọng hỏi:
- Bao nhiêu tiền cái nón em?
- Đồng rưỡi anh ạ.
Cô nhoẻn miệng cười trả lời
- Sao rẻ thế?
- Anh chê đắt à?
- Tôi muốn mua loại nón năm đồng kia.
Người con gái đi ra khỏi đám đông, có ý như kéo tôi ra một nơi vắng vẻ. Cô xếp mấy cái nón úp vào ngực. Lắc lư người, nhìn quan sát xung quanh, rồi cô nói như thăm dò:
- Anh định mua nón năm đồng thực à?
- Sao lại không?
- Ai bảo anh?
Cô nói rồi nguýt một cái.
- Có người bảo.
Tôi đáp, rồi buông thõng một câu:
- Ra công viên đi.
Nói xong, tôi chậm bước như chờ đợi. Người con gái quay nhanh vào chỗ đám đông rồi đi theo tôi.
Trên đường ra một vườn hoa gần đấy, tôi vừa đi vừa hỏi chuyện để tìm hiểu, để cho thanh niên cờ đỏ khỏi nghi ngờ. Vì thời điểm từ 12 giờ đêm không ai được ở trong công viên, nhất là trai gái.
Chúng tôi đến ngồi trên ghế đá dưới ánh đèn điện để những người có phận sự không ngờ và để nhìn rõ mặt người con gái xem có đáng giá năm đồng bạc không.
Dưới ánh sáng ngọn đèn phòng không vừa yếu lại bị che đi gần hết mà cô gái vẫn muốn giấu mặt. Tôi hỏi:
- Tên em là gì?
- Em là Là
- Sao lại là Là?
- Không em là Lê thị Là.
- Tên em hay đấy.
- Tên em xấu chết. Bố em đặt đấy.
Vẫn giọng nói gióng một, tôi hỏi:
- Em được mấy anh em?
- Em chỉ có hai chị em. Em em là Lượt.
- Quê em ở đâu?
Cô gái nhìn tôi, hỏi lại:
- Anh là công an mật phải không?
- Không phải đâu.
- Thế anh làm nghề gì vậy?
Cô nhìn tôi để xét đoán tôi là người thuộc loại nào trong xã hội. Lúc ấy tôi có dịp nhìn rõ mặt cô: đôi mắt hiền dịu, có lúm đồng tiền ở hai bên má. Tôi nghĩ bụng cô này có cái gì đáng thương mà lại gợi tình. Tôi nói:
- Về nhà anh đi.
Cô tỏ ra ngần ngại, nói:
- Nhà anh có xa không?
- Không xa đâu.
- Có đông người không?
- Không.
- Em sợ lắm.
Cô ngước nhìn tôi, nói, tay vuốt nhẹ lên mái tóc xanh.
Tôi nói:
- Em cứ về thử xem. Nếu không thích, anh lại đưa em ra đây.
*
Trong căn buồng rộng chỉ có một chỗ nằm là hai cái giường một của tôi ghép lại. Cô vứt mấy cái nón ra giữa nhà, ngồi phịch xuống giường, ngả người chống hai tay ra sau. Cô đưa mắt lướt nhìn rồi hỏi:
- Nhà tập thể à?
- Không, nhà riêng của tôi đấy.
Tôi vặn ngọn đèn dầu cho ánh sáng lờ mờ để cô gái bớt thẹn thùng.
Một lúc sau ngọn đèn lại được trả lại hết cỡ. Gian buồng sáng trở lại.
Thời gian ngắn vừa qua, đã làm cho người con gái đối với căn buồng này tự nhiên như quen biết từ lâu. Nàng đi đi lại lại trong buồng ngắm nhìn mấy khung ảnh treo trên tường. Rồi đột nhiên như phát hiện ra một điều quan trọng, nàng nhìn tôi, trố mắt nói:
- Ô! Anh là bộ đội à?
Nói xong, nàng im lặng một lúc, hỏi:
- Anh cũng ở đại đoàn Ba? Anh có đánh Điện Biên không?
Tôi nói:
- Em hỏi để làm gì?
Cô tần ngần một tý, hạ giọng nói:
- Anh ở đại đoàn Ba thế nào mà chẳng đánh Điện Biên.
- Đánh Điện Biên thì làm sao?
- Nếu đánh Điện Biên thì anh có thể biết bố em đấy.
Tôi lơ đãng vẻ mệt mỏi trả lời:
- Đại đoàn đông lắm, biết làm sao được ai với ai.
Cô gái nói to:
- Bố em là Lê văn Lân, tiểu đội trưởng đánh đồi A1
- Lê văn Lân!
Tôi thầm nhớ lại, chững người và nghĩ:
- Chết, con bé này là...
Lê văn Lân, trung đội trưởng. Đúng rồi. Tôi biết. Lân Hà Đông. Tiểu đội trưởng đầu cầu, đánh đồi A1.
Vì để giải quyết một trận đánh dứt điểm nên ở đơn vị quyết thắng nhiều cán bộ xuống làm đội viên. Lân, trung đội trưởng xuống phụ trách tiểu đội trưởng dao nhọn. Những đơn vị này gọi là đặc biệt. Ai được vào đó, coi như một vinh dự lớn.
Trong chiến dịch Điện Biên, tôi là sinh viên xuống làm quân y sĩ ở đơn vị Lân. Anh em sống với nhau con chấy cắn đôi. Tính Lân hiền lành, thân hình to, cao, đen, nhưng có cặp mắt hết sức đa cảm. Anh hay khóc khi bạn tử thương trong chiến đấu hoặc những cơn sốt rét rừng hành hạ một đồng đội quá ốm đau.
Nhìn kỹ mặt nàng, tôi dần thấy ra nhiều nét giống bạn tôi quá. Tôi lúng túng, nhưng cố làm ra bình thường, nói:
- Em là con liệt sĩ à?
- Vâng, bố em là liệt sĩ.
Tôi nói cho có chuyện để lấp đi những nỗi lòng:
- Bây giờ chính sách đối với gia đình liệt sĩ khá lắm phải không?
- Vâng, khá.
Nàng đáp và nói:
- Địa phương cũng chú ý giúp đỡ lắm anh ạ.
- Mỗi tháng gia đình được trợ cấp bao nhiêu?- Tôi hỏi
- À tiền, theo chính sách, mẹ em được mười đồng, gạo đong theo điều hòa. Mẹ em lại được làm cho cửa hàng ăn ở chợ, tám buổi một tháng, mỗi buổi được một đồng, ngày nào làm, ăn ở đấy không mất phiếu. Em được vào tổ nón, tiền phụ cấp mỗi tháng tám đồng.
Cô im lặng một lúc rồi giải thích thêm:
- Đáng lẽ em không được hưởng nữa đâu, hết tuổi mười tám rồi. Con Lượt còn phải học năm nữa, mẹ em lại ốm luôn, xã linh động cho em được lĩnh hết năm nay để nuôi con Lượt.
Nàng nhìn tôi như có ý dò hỏi, nói:
- Anh có phiếu vải không?
- Em buôn tem phiếu à?
- Không, cho em một ô để em mua cái quần đen, may cho con Lượt. Nó sắp lên trường con em liệt sĩ học.
Cô nói như trình bày:
- Ở nhà cũng có phiếu. Nhưng có vải đâu mà mua. Thỉnh thoảng mậu dịch đem về bán, những người cân lợn thừa tiêu chuẩn mới được mua, hoặc cán bộ xã. Đến dân thì hết tiệt. Anh cho em một phiếu vải thì tốt quá.
- Được, anh sẽ lấy cho em một phiếu vải.
Tôi lục tìm ở thúng quần áo và đưa cho nàng một mảnh phiếu cắt mất hai ô. Nàng cầm tấm phiếu e ngại hỏi:
- Chị ấy hỏi đến thì làm sao?
- Em cứ dùng rồi anh sẽ liệu nói với vợ anh. –Tôi lập cập dọn ấm chén và vớ được ít trà còn sót nhưng hơi mốc.
- Nước pha rồi đây này, uống đi kẻo nguội, chắc là em khát.
Nàng uống liền ba bốn chén rồi mới nói:
- Vâng em khát.
- Em đi thế này lâu chưa?
Cô hơi đỏ mặt. Uống hết chén nước thứ tư, cô nhìn tôi nói:
- Em không làm nghề này đâu, thề có trời đất quỷ thần hai vai, sợ lắm. Em gặp anh là người thứ hai đấy. Con bạn em nó xui em nên em theo nó có một lần thôi. Cũng là hoàn cảnh cả thôi anh ạ.
Cô cúi mặt, kể:
- Lần thứ nhất, mẹ em ốm, nằm trạm xá. Người ta cho đơn đi mua thuốc cửa hàng huyện không có. Con Loan bạn em nó rủ em ra Hà Nội để nó mua hộ thuốc. Tiền đâu mà mua thuốc? Thế là con Loan dẫn em vào nhà bạn nó. Hôm ấy em sợ quá.
Cô im lặng một lúc, chép miệng nói:
- Lần này công việc ở nhà chẳng có, lại sắp phải tiêu mấy việc. Phải may cái áo cho con Lượt. Thế là con Loan lại rủ đi. Em ra Hà Nội bán mấy cái nón và mua cái phiếu vải. Gặp anh, em lạy trời lạy phật, anh là người hiền lành, em mới đi theo anh, người khác thì chết mất. Thôi không nói chuyện này nữa em đi ra ga đây.
Cô lại như chợt nhớ ra điều gì, cô hỏi:
- Này anh có cái bao tải nào không? Cho em xin một chiếc.
- Có đấy, em tìm xem.
Người con gái kiếm tìm trong nhà. Đột nhiên nàng reo lên:
- Sao anh có nhiều mỳ thế này? Để em đổi gạo cho.
- Mỳ tiêu chuẩn tháng này đấy. Em lấy mấy cân về mà ăn.
- Thôi để cả cho em chỗ này, vài cân thì ai ăn ai đừng, hôm nào em mang gạo ra cho. Mỳ ở đây các anh chán ngấy. Ở quê em mỳ nấu với cua làm bún riêu ngon lắm. Mấy hôm nữa giỗ bố em. Năm nào cũng đông. Bạn hoạt động, Ủy ban, Đảng ủy cũng đến cả. Em bắt ít cua về nấu với nó làm món chủ lực anh ạ. Thịt ở quê dạo này hiếm lắm. Dân thì chịu cứng. Chỉ có Ủy ban là thỉnh thoảng có một đôi tý thôi.
Thế là toàn bộ số mỳ để tôi ăn trong hai chục ngày đã nằm gọn trong bao tải. Tôi không biết nói thế nào, mặt đần ra và nghĩ: từ mai trở đi lấy gì ăn mà đi làm?
Tay xách bao mỳ cô nhanh nhẩu nói:
- Thôi em về anh nhé.
Tôi im lặng. Cô mở cửa lách người đi ra.
Tôi đứng ngây người nghĩ miên man. Hình ảnh bạn tôi, tiểu đội trưởng Lân đứng trước hàng quân giờ xuất phát, mặt đầy khí thế. Thay mặt anh em, Lân đứng ra khỏi hàng đọc quyết tâm thư, tiếng nói choang choang, giọng cương quyết, tràn đầy hy vọng. Trông người anh lồng lộng…
Sau khi Là xách cả bao mỳ lách cửa đi ra, tôi miên man nghĩ đến nhiều điều: thật, giả, đúng, sai trong cuộc sống. Rồi cái trước mắt tôi không quên được và tự hỏi:
- Mai ăn ở đâu nhỉ?
Một tia sáng lóe ra. Yên chí rồi. Ta sẽ đến ăn nhà bệnh nhân bán cơm lậu phố Bảo Khánh.
Bẵng đi gần hai tuần.Tôi cũng chẳng còn nghĩ đến mấy cân mỳ nữa. Một buổi tối, vừa đi ăn cơm về có tiếng gõ cửa. Cánh cửa vừa hé, thấy Là, tôi sững người.
- Gạo em mang ra cho anh, mệt quá em không thể xách vào được, còn để ngoài kia.
Tôi chạy ra. Một tải gạo, một quả mít, một con gà mái.
Là đon đả nói:
- Em lo quá. Không biết mấy hôm vừa qua anh lấy gì mà sống. Em phải xin giấy Ủy ban, nói dối là mang gạo ra cho bà thím đi đẻ không ăn được mỳ. Giấy chỉ được phép có năm cân. Em mang cho anh gần một yến đấy. Gạo ngon lắm. Mẹ em bảo mang quả mít ra và biếu anh một con gà. Cái Lượt nó nuôi đấy. Mẹ còn muốn hôm nào mời anh về chơi. Em nói anh là bộ đội ở đại đoàn Ba, mẹ em quý lắm. Những anh ở đại đoàn Ba về chơi luôn đấy. Đơn vị thường cho người mang tiền về giúp đỡ gia đình.
Người tôi nóng ran, mặt rát, cổ họng ấp úng, hai chân như khuỵu xuống và tôi nói thầm với Lân:
- Anh chết rồi, con gái anh đang đứng trước mặt tôi, ngay trước mắt…
Tôi lấy ống tay áo lau đi dòng nước mắt của mình và cố giấu mặt vào bóng tối trước mặt con gái người bạn chiến đấu của tôi.
Phan Thanh Hoài
Ảnh sưu tầm chỉ có tính minh họa