Một bài sử Việt về anh hùng và giai nhân (FB Hùng Ca Sử Việt)
Sau khi giết giặc Minh,
Lê Lợi lên làm vua, đó là Lê Thái Tổ. Nguyễn Trãi là đại khai quốc công thần.
Nguyễn Trãi là kết quả
của mối tình của anh gia sư nghèo và nữ học trò, ông Nguyễn Phi Khanh là một
học trò nghèo học giỏi được nhận vào kèm cặp việc học cho tiểu thơ Trần Thị
Thái, con quan tư đồ Trần Nguyên Đán, kèm sao dính bầu. Quan tư đồ thuận lẽ
trời, ra giá gia sư thi đậu sẽ chánh thức tác hiệp cho đôi bạn trẻ.
Nhưng số Nguyễn Trãi
hiu quạnh khi sáu tuổi mất mẹ, mười tuổi ông ngoại qua đời, Nguyễn Trãi về ở
Nhị Khê với cha.
Năm 1407, giặc Minh
sang xâm lăng, nhà Hồ bị diệt, giặc Minh bắt ông Nguyễn Phi Khanh đem về Tàu
cùng với cha con Hồ Quý Ly
Hai anh em Nguyễn Trãi
thương cha cứ theo sau tới ải Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh đuổi con kêu đừng theo
cha nữa, ông Phi Khanh dạy con:
“Con phải trở về mà lo
trả thù cho cha, rửa nhục cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì?”
Cái điển tịch
"Hận Nam Quan" từ đó trong sử Việt rạng ngời
Vở kịch thơ “Hận Nam
Quan” được Hoàng Cầm viết năm 1937, lúc ông 15 tuổi
"Con về đi! Cha
yên tâm chịu khổ!
Con về đi! Đúc thép
chống giang san
Cha tin chắc đường
gươm nơi đất Tổ
Sẽ có ngày sáng chói
những vinh quang"
Trước đó từ năm 1924 Á
Nam Trần Tuấn Khải viết "Hai chữ nước nhà” nhắc lời ông Nguyễn Phi Khanh
dặn Nguyễn Trãi
"Con đương độ đầu
xanh tuổi trẻ
Bước cạnh tranh há dễ
nhường ai?
Phải nên thương lấy
giống nòi
Đừng tham phú quí mà
nguôi tấc lòng
Lời cha dặn khắc xương
để dạ
Mấy gian lao con chớ
sai nguyền
Tuốt gươm thề với
vương thiên
Phải đem tâm huyết mà
đền cao sâu
Gan tráng sĩ vững sau
như trước
Chí nam nhi lấy nước
làm nhà
Tấm thân xẻ với san hà
Tượng đồng bia đá họa
là cam công"
Nguyễn Trãi nhận ra
chỉ có chánh trị mới giúp qua cơn can qua này, ông sau đó phải trốn sự truy bắt
của giặc Minh, trốn tận lên tới miền núi thâm sơn cùng cốc Lam Sơn của xứ Thanh
mới gặp được Lê Lợi dâng Bình Ngô sách mà hiệp nhau bàn chuyện quốc sự sau này.
Từ người bình thường
đã ý thức và trở thành anh hùng dân tộc của chúng ta.
Năm 1428, dẹp giặc
Minh xong xuôi, Lê Lợi 43 tuổi lên ngôi Hoàng Đế ở Đông Kinh, mở đầu triều đại
lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Viêt Nam, nhà Hậu Lê tồn tại hơn 300 năm.
Năm 1428 Nguyễn Trãi đã 48 tuổi.
Sau khi đuổi giặc Ngô
(Minh) về nước, vua tôi xứ Lam Sơn ca khúc khải hoàn, Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi)
mới biểu Nguyễn Trãi soạn bộ sách văn xuôi “Lam Sơn Thực Lục” để lại cho đời.
Lê Thái Tổ là ông vua
dính chuyện "diệt công thần" do tánh đa nghi, Trần Nguyên Hãn là một
trường hợp. Trần Nguyên Hãn từng nhận xét Lê Lợi “có tướng như Việt vương Câu
Tiễn ”
Truyền thuyết “Lê Lợi
vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” không biết có thực hay không. Tuy nhiên Lê Lợi
cũng nghi ngờ cả Nguyễn Trãi.
Lê Lợi “phong thừa chỉ
Nguyễn Trãi tước Quan Phục hầu, cho mang họ vua” (Đại Việt sử ký toàn thư Ngô
Sĩ Liên). Công thần khởi nghĩa Lam Sơn có 9 bậc thì tước Quan Phục hầu của công
thần Nguyễn Trãi ở bậc...thứ 8.
Lê Thái Tổ (1385–1433)
lên ngôi vua có 5 năm thì mất, trong 5 năm đó Nguyễn Trãi là quan không có thực
quyền. Hình như có bị bắt giam rồi thả ra. Nguyễn Trãi buồn bực và cũng cố chạy
thoát thân, ông xin về quê dưỡng già. Sĩ phu Bắc Hà kể rằng trong một ngày đẹp
trời, Nguyễn Trãi đi tập thể dục bên Tây Hồ chợt nhìn thấy một cô gái trẻ đẹp
đang bán chiếu, ông đã xướng mấy câu thơ ghẹo Thị Lộ :
"Nàng ở nơi
nào,bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết
hay còn?
Xuân xanh nay độ bao
nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, được
mấy con?"
Không thể ngờ cô gái
này cũng làm thơ họa lại ngay :
"Thiếp ở Tây Hồ
bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay
còn?
Xuân xanh vừa độ trăng
tròn lẻ
Chồng còn chưa có, có
chi con!"
Chiếu gon là chiếu lác
đó
Thực ra bà con cô bác
đặt thơ cho nó vui, chứ Nho gia ngày xưa khuôn phép, làm gì có chuyện Nguyễn
Trãi ra đường chọc gái mà hỏi thẳng thừng "chồng con có chưa". Nhưng
quả thực có một bà Nguyễn Thị Lộ rất giỏi thơ họa chữ nghĩa là vợ nhỏ của
Nguyễn Trãi, xưa trai năm thê bảy thiếp là thường.
Sau khi Lê Lợi chết, con
là Lê Nguyên Long làm vua, đó là Lê Thái Tôn. Vua Lê Thái Tôn vốn là người có
sức khỏe không tốt nhưng trẻ mà ham sắc, ham dâm, có nhiều vợ. Khi mới 15 tuổi
vua Lê Thái Tôn đã có đến 5 người vợ được sắc phong, đó là các bà: Dương Thị
Bí, Nguyễn Thị Anh, Ngô Thị Ngọc Dao, Lê Thị Ngọc Dao, Lê Nhật Lệ.
Mẹ của Lê Nguyên Long
là bà Phạm Thị Ngọc Trần mà sau này được phong là Cung Từ hoàng thái hậu mất
năm 1425 khi Lê Nguyên Long mới 3 tuổi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chưa kết
thúc, một cái chết "huyền thoại".
Cái chết huyền thoại
của bà Ngọc Trần lại được chánh sử chép lại do căn cứ vào “Lam Sơn thực lục”.
“Tháng 3 năm Ất Tỵ
(1425), Bình Định Vương Lê Lợi tiến quân vây thành Nghệ An, giặc Minh ra sức
chống giữ, thế lực chưa phân thắng bại.
Quân doanh của Lê Lợi
tạm đóng cạnh đền thờ thần Phổ Hộ bên bờ sông Lam thuộc làng Trào Khẩu, huyện
Hưng Nguyên.
Đêm hôm đó, Bình Định
Vương chiêm bao thấy vị thần báo mộng: “Tướng quân nhường cho tôi một người
thiếp, tôi hứa hết sức phù hộ tướng quân đánh thắng giặc Ngô, giữ vững nghiệp
đế”...
Hôm sau, Bình Định
Vương gọi các bà vợ đến, kể cho nghe giấc mộng đêm qua và hỏi: “Có ai chịu đi
làm vợ thủy thần không? Sau này khi ta lấy được nước, sẽ lập con của người đó
làm thiên tử”
Các bà không ai nói
gì, chỉ có bà Ngọc thưa: “Nếu vì nghiệp lớn của Minh Công thì thiếp tự nguyện
xả thân; ngày sau mong Minh Công giữ lời hứa, chớ phụ con thiếp”
Đọc xong hơi ớn lạnh.
Nhưng lên ngôi vua sau
khi Lê Lợi qua đời cũng đâu đơn giản, đó là phe phái ủng hộ
Con trai trưởng của Lê
Lợi và bà Trịnh Thị Ngọc Lữ tên là Lê Hữu Lang tức Lê Tư Tề. Lê Tư Tề có mặt
trong hội thề Lũng Nhai, cùng cha Lê Lợi và các anh hùng Lam Sơn dựng cờ khởi
nghĩa.
Lê Tư Tề làm tới chức
Tư Đồ. Sau khi lên ngôi Hoàng Đế Lê Lợi phong Hữu Tướng quốc Khai quận công Tư
Tề làm Quốc vương.
Cứ nghĩ Lê Tư Tề sẽ
nối ngôi của lê Lơi, nhưng không. Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Năm Quý Sửu, Thuận
thiên thứ sáu, 1433, mùa thu tháng 8, giáng con trưởng Tư Tề làm Quận vương,
lấy con thứ Nguyên Long kế thừa tông thống. Ngày 22 tháng 8, Vua băng ở chính
tẩm”.
Phế trưởng lập thứ, đưa
Lê Nguyên Long mới 11 tuổi nổi tiếng mê gái lên là phe Lê Sát thành công. Lê Thái
Tôn lên ngôi Lê Sát làm phụ chánh đại thần không ai dám cản. Nhưng khi đã 15
tuổi, Lê Thái Tôn đã "ép" Tể tướng, Đại Tư đồ Lê Sát tự tử chết, vợ
con và điền sản tịch thu.
Lê Thái Tôn phế nguyên
phi Lê Thị Ngọc Dao (con gái của Lê Sát) làm thường dân
Vua Lê Thái Tôn cũng
mê bà Nguyễn Thị Lộ. Chuyện một ông vua mà "đem" thiếp của bậc công
thần như Nguyễn Trãi vô cung làm " Lễ nghi học sĩ " dạy cung nhân
cũng là chuyện xưa nay hiếm.
Khi đó Lê Thái Tôn đã
truất ngôi thái tử của Lê Nghi Dân do mẹ ông là Dương phi kiêu căng, không giữ
phép tắc để phong cho Bang Cơ con của bà phi Nguyễn Thị Anh lên làm thái tử. Bà
Thần phi Nguyễn Thị Anh nổi tiếng tâm cơ dữ dội. Khi biết Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc
Dao mang thai và đoán có thể là con trai thì bà Thần phi coi mòi sắp "ra
tay tràn độc", bà chót chét sao mà vua cho bà Ngọc Dao vô lãnh cung.
Nguyễn Trãi với sự ra
mặt của bà Nguyễn Thị Lộ vận động hoàng tộc cho Ngô Thị Ngọc Dao tạm lánh thân
ra ở tại chùa Huy Văn. Bà Ngô tiệp dư đúng là sanh con trai, đó là hoàng tử Lê
Tư Thành.
Sau đó xảy ra vụ án Lệ
Chi viên liên quan Lê Thái Tôn khi ông vua này đột ngột qua đời vào năm 1442
tại nhà đại thần Nguyễn Trãi ở Lệ Chi Viên khi mới 20 tuổi.
Vua đi tuần ngày
4/8/1442 ghé nhà Nguyễn Trãi, ra vườn Lệ Chi bày tiệc ăn nhậu và thức suốt đêm
với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà đột ngột. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết
vua. Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ bị tội giết vua, phải tru di tam tộc.
Nhiều người đoán đại
loại sức khỏe vua vốn không tốt, lại có nhiều vợ, lại mê gái. Đêm đó giữa vườn
Lệ Chi Lê Thái Tôn và Nguyễn Thị Lộ hoan lạc làm tình và vua chết
Không ai rõ năm sanh
bà Lộ, phe cho rằng vua và bà sanh tình cho rằng lúc Thái Tôn mất (1442), bà Lộ
chưa đến 30 tuổi.
Phe cho rằng bà Lộ và
vua "trong sáng" nói thực ra năm 1442 Lê Thái Tôn 20 tuổi và bà
Nguyễn Thị Lộ đã 53 tuổi rồi, bà chỉ nhỏ hơn Nguyễn Trãi có 10 tuổi. Thành ra
vụ vua chết có thể chỉ là bị cảm lạnh, trúng gió, bà Lộ bị oan, cái chết của
vua bị đẩy lên là một âm mưu.
Vụ án này có dính líu
tới bà Thần phi Nguyễn Thị Anh.
Bà Ngô Thị Ngọc Dao bị
giam ở lãnh cung nhưng được Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bảo vệ, xin vua tha. Nguyễn
Trãi đã đưa bà Ngọc Dao tá túc tại chùa Huy Văn rồi về vùng An Bang là nơi ông
làm Ngự sử Đông Bắc đạo. Bà Nguyễn Thị Anh đã trả thù.
Vua Lê Nhân Tôn (Lê
Bang Cơ) là vị hoàng đế thứ ba của nhà Hậu Lê lên ngôi năm ...1 tuổi, trị vì 17
năm, từ năm 1442 sau khi vua Lê Thái Tôn qua đời. Vua một tuổi và bà Nguyễn Thị
Anh làm Thái hậu buông rèm nhiếp chánh, quyền hành tột bực, hỏi sao Nguyễn Trãi
trốn thoát.
Nhưng mà....
Ngày 3 tháng 10 năm Kỷ
Mão (28 tháng 10 năm 1459), Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân mua chuộc cấm vệ quân,
nữa đêm bắt thang vào tận trong cung cấm giết Nhân Tôn và Hoàng thái hậu Nguyễn
Thị Anh
Trước đó vua Thái Tôn
nghe lời Nguyễn Thị Anh đã truất ngôi Thái tử của con trưởng Lê Nghi Dân mà lập
con bà Anh là Lê Bang Cơ mới 1 tuổi làm Thái tử.
Nhiều nhà sử học cho
rằng bà Nguyễn Thị Anh vô cung mới sáu tháng đã sanh ra Bang Cơ nhưng bị vợ
chồng Nguyễn Trãi biết. Nguyễn Thị Anh sau đó giết hai thái giám Đinh Thắng,
Đinh Phúc là người ghi chép ngày các phi tần vào hầu vua, ngày sanh của các
hoàng tử, công chúa, và giết luôn Tạ Thanh.
Thực ra đây là hai phe
chánh trị đấu đá nhau, phe Nguyễn Thị Anh với Lê Bang Cơ đấu cùng phe Lê Tư
Thành với Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ. Nguyễn Trãi lúc đó không có thực quyền, lại
ở quê xa nhưng bà Nguyễn Thị Lộ chỉ là "lễ nghi" dạy cung nhân nhưng
lại gần vua, có thể "hầu" vua ở Lệ Chi Viên thì rất thân cận, bà
Nguyễn Thị Anh sợ vua nghe lời bà Lộ sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của mình.
Tháng 6 năm Canh Thìn
1460 các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Nguyễn Đức Trung tiến
hành binh biến giết chết Lê Nghi Dân. Sau đó đi ra ngoài thành rước con trai bà
Ngô Thị Ngọc Dao là Lê Tư Thành lên ngôi, đó là Lê Thánh Tôn
Vua Lê Thánh Tôn ra
chỉ minh oan cho Nguyễn Trãi, song tránh nhắc xấu bà Nguyễn Thị Anh, vì lẽ đó
là cái xấu của hoàng tộc.
Đàn bà ghê thiệt!
Các bà Thái Hậu có con
làm vua không hề tầm thường. Trong lịch sử Nguyễn có bà Thái hậu Từ Dũ cũng
vậy. Đã giành ngôi cho con trai là vua Tự Đức thành công dù Tự Đức là con thứ, truất
con trưởng Hồng Bảo thành công thì bà Từ Dũ không có "hiền". Làm phim
mà cho bà Từ Dũ cứ khóc, cứ giơ con mắt thơ ngây là không xong rồi.
Người Nam Kỳ xưa hay
hò rằng:
-Nữ ( hò trước)
"Hò ...ơ!
Anh có thương em thì cho em một đồng
Để em mua gan công, mật cóc thuốc chồng theo
anh"
-Nam (Nghe hết hồn,
nổi xung thiên hò lại)
"Hò ơ!
Nghe hò tao bắt nổi xung
Tao cho một phảng chết chung cho rồi"
Đọc Vũ Tài Lục, ông này
phang một câu:
"Dù có xấu như
Chung Vô Diệm thì Chung Vô Diệm vẫn làm chánh cung của Vua Tề”. Ăn nhau ở cái
tướng là thế đó.
Sách tướng dạy rằng:
“Mỹ nhân thường tác kỹ, mỹ trung hữu chí sú” (nghĩa là người đẹp thường đi làm
đĩ vì trong vẻ đẹp có cái gì cực xấu)."
Từ xa xưa, con người
ta mặc định "mỹ" là đẹp và là cái của người đàn bà, đó là mỹ nữ, mỹ
nhân
Thế nào là đẹp?
Người ta sẽ dòm vào
mặt mũi và hính dáng trước, rồi coi đẹp là cái hình thức đầu tiên, tóc dài, da
trắng, dáng thon gọn, vú nhô, mông thon, mắt hai mí, mũi dọc dừa, môi son chúm
chím, giọng nói thanh tao.
Sắc đẹp đàn bà xưa nay
hay đi chung với quyền lực, các đấng quân vương thích có người đẹp kế bên.
Nhưng rốt cuộc ông nào
mê sắc đều có hậu quả kinh khủng.
Ngô Phù Sai mất nước
vì Tây Thi, Đường Minh Hoàng bị đảo chánh chạy trốn chui trốn nhủi vì Dương
Ngọc Hoàn. Bà Điêu Thuyền làm cha con Đổng Trác và Lã Bố giết nhau
Tà tà như Từ Hy Thái Hậu
cũng góp phần dẹp nhà Thanh.
Nhưng rồi nhan sắc
cũng không vững khi ngai vàng lung lay, đấng anh dũng không thể bảo vệ người
đàn bà đẹp của mình.
Hạng Võ có Ngu Cơ
tuyệt trần rồi cũng phải rơi lệ chia tay, nàng Ngu Cơ tự tử cho chồng bớt gánh
nặng khi bị truy sát:
"Hận thay vương
chủ thời bất lợi
Phận thiếp hồng nhan
ấy chuyện thường"
Và mỹ nhân cũng có
ngày tàn tạ, già nua, héo úa
Tuổi xế chiều, làn da
chẳng còn căng mịn, tóc sương đã điểm, má hồng cũng phai
Nhan sắc là thứ vô
thường
Mỹ nhân trên đời, gặp
được là khó, lấy được cũng khó, nhưng hiểu được thì càng khó hơn. Hiểu được
cũng khó rồi mà giữ được lại khó hơn nhiều lần nữa
Bởi thế mà nhân gian
mới có câu:
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
(Mỹ nhân từ cổ như danh tướng
Chẳng hứa cho ai thấy bạc đầu)
Ông bà ta dạy "Vợ
đẹp là vợ người ta"
Thằng đàn ông có vợ đẹp
mà tầm thường thì như đặt tai họa trong nhà, không đủ sức bảo vệ giữ vợ, có
ngày lên bàn thờ.
Người đàn bà đẹp là
người sanh ra để được cung phụng, quyền quý, hưởng thụ, cái 'xấu' trong người
họ khi sung sướng không bộc lộ ra, nhưng khi khổ nó sẽ bộc lộ ra.
Ông bà ta nói đàn bà
đẹp dâm là có lý do
Đàn bà đẹp có rất
nhiều chồng.
Ong bướm sẽ tìm tới
những bông hoa đẹp nhứt mà hút nhụy, dầu không dâm thì hoàn cảnh sẽ làm cho
bông hoa đó dâm.
Thành ra đạo lý Á Đông
xiển dương chữ "chung thủy" và nhà thờ Công giáo bắt một vợ một chồng
trong giáo lý.
Đường Cao Tổ Lý Uyên
có ba người con trai là: Thái tử Lý Kiến Thành, Tần Vương Lý Thế Dân và Tề
Vương Lý Nguyên Cát
Lý Thế Dân là người có
công trong quân đội, là người lấy cái ngôi vua Đường về cho cha, nhưng ác
nghiệt thay lại là con giữa.
Nhưng thế lực Lý Thế
Dân lớn mạnh dữ dằn, đơn giản vì ông nắm quân đội, ông chiến đấu trực tiếp, ông
có đủ văn thần võ tướng võ nghệ cao cường.
Lý Uyên trọng trưởng
khinh thứ nên để Lý Kiến Thành làm Thái Tử.
Lý Thế Dân giết cả nhà
Lý Kiến Thành cùng ông em Lý Nguyên Cát nhưng chừa một người, đó là Dương Khuê
My, vợ của Lý Nguyên Cát, tức em dâu của Lý Thế Dân, ông nạp luôn người chị dâu
xinh đẹp họ Dương làm quý phi, bất chấp sự phản đối kịch liệt của triều thần.
Đàn bà đẹp mà.
Nguồn: Nguyễn Gia
Việt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét