Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2022

LỊCH SỬ KHẨN HOANG NAM BỘ

 Theo FB Midnight Talks.

Trong lịch sử khẩn hoang ở Nam bộ, sự đóng góp của người Minh hương (hay người Hoa) từ xưa đến nay về kinh tế, văn hóa thật là to lớn. Họ đã hòa nhập với người Việt, cùng người Việt khai hoang đất Nam Kỳ, chống lại các đợt tấn công của người Xiêm, góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Nam bộ. Một số cái tên người Minh hương nổi bật có thể nhắc đến như sau:

1. DƯƠNG NGẠN ĐỊCH XÂY DỰNG MỸ THO ĐẠI PHỐ

Dương Ngạn Địch (?-1688) vốn là thổ phỉ, sau gia nhập lực lượng của Trịnh Thành Công và trở thành một thủ lĩnh phản Thanh phục Minh. 

Năm 1677, loạn Tam Phiên xảy ra, Dương Ngạn Địch theo lệnh Trịnh Kinh (con của Trịnh Thành Công) tái chiếm đảo Long Môn, Khâm Châu, Quảng Tây. Năm 1679, quân Thanh công phá đảo Long Môn, Ngạn Địch nhận thấy không còn hi vọng khôi phục triều Minh, bèn cùng gia quyến lên thuyền đi tị nạn ở Đàng Trong. 

Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên) chép:

"Kỷ Mùi (1679), mùa xuân tháng Giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến cùng Cao Lôi Liêm tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình, đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung (cửa Tư Hiền) và Đà Nẵng, tự trần là bô thần (bề tôi mất nước, trốn ra nước ngoài) nhà Minh, không chịu làm tôi tớ nhà Thanh, nên đến xin để làm tôi tớ.

Bấy giờ bàn bạc rằng phong tục, tiếng nói của họ đều khác nhau, khó bề sai đúng, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông phố nước Chân Lạp phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng lấy sức của họ đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều. Chúa (Nguyễn Phúc Tần) theo lời bàn, bèn sai đặt yến ủy lạo khen thưởng, trao cho quan chức đến ở đất Đông Phố (Cù lao Phố, Đồng Nai)."

Vào thời điểm đó, biên giới Việt–Champa phía Nam còn dừng lại ở sông Phan Rang, cho nên chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho người đưa thư đến Ang Nan (vị phó vương đang được chúa Nguyễn bảo vệ ở Prei Nokor, nay là Sài Gòn) yêu cầu chia cấp đất cho họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Sài Gòn và Ang Nan đã đồng ý. 

Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên) chép chuyện:

"Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Soài Rạp đến đóng ở Mỹ Tho; binh thuyền của Thượng Xuyên và An Bình thì vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hoà)..."

Dương Ngạn Địch lập Mỹ Tho đại phố bên dòng sông Mỹ Tho ở làng Mỹ Chánh, huyện Kiến Hòa. Khu đại phố này kéo dài đến Cầu Vĩ, Gò Cát, tức khu vực xã Mỹ Phong hiện nay. Ông không chỉ tập trung vào thương mại, mà còn cho lập ra những trang trại, phát triển nghề ruộng rẩy và cùng cộng cư với dân Việt, dân bản địa (người Khmer).

Năm 1688, sau 9 năm kể từ khi Dương Ngạn Địch sang đất Việt, ông bị phó tướng Hoàng Tiến giết chết ở cửa biển Mỹ Tho. Nhưng Mỹ Tho đại phố vẫn phát triển không ngừng. Vào thế kỷ 17, Mỹ Tho đã trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ (trung tâm còn lại là Cù lao Phố). Sự hưng thịnh của phố chợ Mỹ Tho cho thấy nền sản xuất nông - ngư nghiệp và kinh tế hàng hóa địa phương ở thời điểm đó đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là đối với ngành thương mại.

Đến năm 1785, quân Xiêm đã tràn sang và biến nơi đây thành bãi chiến trường (Trận Rạch Gầm - Xoài Mút). Phố xá bị tàn phá, của cải bị cướp bóc nên Mỹ Tho đại phố trở nên tiêu điều. Thương nhân ở đây hầu hết đều chuyển lên làm ăn ở Sài Gòn - Bến Nghé. Năm 1788, mặc dù được khôi phục dần, nhưng không còn nhộn nhịp như trước. 

2. TRẦN THƯỢNG XUYÊN XÂY DỰNG NÔNG NẠI ĐẠI PHỐ

Trần Thượng Xuyên tự Trần Thắng Tài (? – 1720) xuất thân gia đình thương gia giàu có ở Quảng Đông. Ông vốn là dòng dõi của tướng Trần Văn Long nhà Nam Tống, người có công chống quân Nguyên.

Năm 1646, Trần Thượng Xuyên khởi binh hưởng ứng Vĩnh Lịch đế chống Thanh. Đến năm 1662, Ngô Tam Quế giết Vĩnh Lịch đế, Trần Thượng Xuyên vẫn tiếp tục kháng Thanh, hoạt động tại bờ biển Quảng Đông, Quảng Tây. Thủ lĩnh kháng Thanh là Trịnh Thành Công sau đó phong cho Thượng Xuyên giữ chức tổng binh ba châu Cao-Lôi-Liêm. Năm 1673, nổ ra loạn Tam Phiên, Thượng Xuyên hưởng ứng Ngô Tam Quế, đánh chiếm Khâm Châu. Năm 1679, quân Thanh dẹp loạn Tam Phiên, Thượng Xuyên cùng gia đình, tôi tớ chạy vào Đàng Trong tị nạn.

Ban đầu nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàn Lân (ngày nay thuộc Biên Hòa) lập nghiệp. Khi đó, vùng đất này còn là rừng rú. Vốn là người ở vùng Đông Nam Trung Quốc, thạo nghề mua bán và công nghệ, họ đã phát hiện ra Cù lao Phố, một bãi sa bồi hoang sơ nằm giữa sông Hương Phước (một đoạn của sông Đồng Nai), trải dài trên 7 dặm, bề ngang bằng 2/3 bề dài. Tuy nằm cách biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy, có thể ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, và phía Nam có thể ra biển Cần Giờ hay sang tận Cao Miên.

Cho nên một phần lớn nhóm người Hoa, đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố. Và cùng với nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thượng Xuyên và lực lượng của mình tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Với biệt tài tổ chức, chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định, tức Nam Bộ ngày nay.

Từ sự phát đạt của thương nghiệp đã lôi kéo những ngành nghề thủ công khác đến như: dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo v.v...

Cù lao Phố còn được gọi là Nông Nại đại phố tức là "Chợ Lớn của xứ Đồng Nai". Đồng Nai âm theo tiếng Quảng Đông là Nông Nại, do họ không phát âm được chữ "Đ" trong địa danh Đồng Nai.

Vào ngày 23 tháng 10 âm lịch năm 1720, Trần Thượng Xuyên mất và được an táng ở làng Mỹ Lộc, xã Tân Mỹ, Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Từ khi đến Đàng Trong, ông vừa hỗ trợ các tướng chúa Nguyễn ổn định tình hình quân sự, chính trị ở Gia Định và Chân Lạp, vừa lo mở mang buôn bán ở Cù lao Phố. Ông đã nhiều lần cầm binh đánh dẹp Cao Miên, giữ an bờ cõi, mở rộng biên cương nước Việt. Chính vì vậy, chúa Nguyễn đã ban danh hiệu cao quý "Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt". Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị đều phong ông làm "Thượng đẳng thần".

Tiếc là sự thịnh vượng của cù lao Phố chỉ kéo dài được 97 năm (1679-1776), bởi đã xảy ra hai sự kiện lớn:

- Năm 1747, một nhóm khách thương người Phúc Kiến qua lại buôn bán, thấy Cù lao Phố rất giàu có nên dậy lòng tham, muốn chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài. Cuộc bạo loạn do Lý Văn Quang (tự xưng là Giản Phố Đại vương) cầm đầu bị quan quân chúa Nguyễn dẹp tan nhanh chóng, nhưng Cù lao Phố cũng đã chịu nhiều thiệt hại.

- Năm 1776, quân Tây Sơn đã đến đàn áp những người Hoa ở Cù lao Phố vì họ đã ủng hộ Nguyễn Phúc Ánh. Trịnh Hoài Đức mô tả: Nơi đây biến thành gò hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước (Gia Định thành thông chí). Bởi vậy, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn (nay là Quận 5 và Quận 6, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), sinh sống và lập những cơ sở thương mại khác cho đến nay...

3. MẠC CỬU XÂY DỰNG CĂN KHẨU QUỐC

Mạc Cửu hay Mạc Kính Cửu (1655 – 1735) là một thương gia có gốc ở xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. 

Nhà Minh dù đã mất hẳn nhưng mãi đến năm Khang Hi thứ mười chín (năm 1680), vùng Quảng Đông mới bình định xong. Thương nhân trẻ Mạc Cửu không chịu khuất phục trước chính sách cai trị của nhà Đại Thanh, mới chạy qua phương Nam, trú tại Nam Vang (nay là Phnom Penh). Do tình hình Chân Lạp hết sức rối ren, ông bỏ Nam Vang về phủ Sài Mạt (nay thuộc tỉnh Kampot, Campuchia) là điểm buôn bán trên đường giao thương giữa Oudong và Hà Tiên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Chà Và các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy rồi trở nên giàu có. 

Vốn có đầu óc tổ chức, Mạc Cửu gom dân lưu tán lại lập ra 7 xã: Cà Mau, Rạch Giá, Phú Quốc, Vũng Thơm (Sihanoukville), Hà Tiên,..., (dọc bờ biển Tây, từ Cà Mau đến Vũng Thơm) và tự đứng ra cai quản. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo sông Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.

Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm (hay Mang Khảm, Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Kampong Som), Sài Mạt (Cheal Meas hay Banteay Meas), Linh Quỳnh (Kiri Vong) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (tức Hà Tiên), sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo). Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).

Vì quá giàu có, vùng đất của Mạc Cửu thường xuyên bị quân Xiêm La cướp phá, mà Cao Miên không đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ. Lúc này ở Gia Định, các chúa Nguyễn đã lập xong phủ Gia Định. Người Việt và các di thần người Hoa đang định cư yên ổn. Nhận thấy muốn tồn tại phải có thế lực đủ mạnh để bảo vệ, che chở cho lãnh địa mà ông đã tốn công gây dựng. Sau khi cân nhắc, năm 1708, Mạc Cửu cùng thuộc hạ là Lý Xá, Trương Cầu đem lễ vật đến xin thần phục. Chúa Nguyễn Phúc Chu đồng ý tiếp nhận, ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu lo xây dựng dinh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên), từ đó dân càng qui tụ về đông đúc hơn.

Năm 1724, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh. Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan. Năm 1735, Mạc Cửu mất, được truy phong Khai trấn Thượng trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị Công. Con trai Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ được phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương Nguyễn Phúc Trú nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi tên thành Hà Tiên trấn. Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (bắc Bạc Liêu). Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Tân An, Long An) và Lôi Lập (Gò Công) để được về Nam Vang cai trị.

Năm 1757, nội bộ nước Cao Miên có loạn, vua Cao Miên là Nặc Tôn phải chạy sang nương nhờ đất Hà Tiên. Lúc đó, Mạc Thiên Tứ đã tâu với chúa Nguyễn xin cho quân tướng hộ tống Nặc Tôn về nước làm vua. Sau đó, Nặc Tôn đã cắt đất trả ơn cho Mạc Thiên Tứ 5 phủ phía Tây Nam nước Chân Lạp ven bờ Vịnh Thái Lan. Mạc Thiên Tứ đem đất 5 phủ dâng chúa Nguyễn, chúa Nguyễn nhập đất 5 phủ này vào trấn Hà Tiên, đồng thời chúa cho lập ra hai đạo Kiên Giang (lỵ sở là Rạch Giá) và Long Xuyên (lỵ sở là Cà Mau) đều thuộc trấn Hà Tiên. Năm 1774, Chúa Nguyễn Phúc Khoát chia Đàng trong thành 12 dinh, nhưng vẫn để lại trấn Hà Tiên, phong Mạc Thiên Tứ làm Đô đốc cai trị.

Khi sức mạnh của các chúa Nguyễn suy yếu dần và Tây Sơn nổi lên năm 1778, Hà Tiên suy tàn dần bởi các cuộc tấn công, cướp phá của Xiêm La và hải tặc.

#midnighttalks #metaminds #lichsu #cuulong  #khaoco #mekong

____________________

Theo dõi và xem lại chương trình qua:

📷 Youtube và Facebook: Midnight Talks

Liên hệ chúng mình qua:

📩 Email: midnighttalks.t7@gmail.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét