Link : https://anhbasam.wordpress.com/2016/02/16/7051-hoi-nghi-thanh-do-va-tinh-the-ngoai-giao-viet-nam/
Tác giả: David
W.P. Elliott
Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng |Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
16-2-2016
Mùa hè năm 1990, những biến chuyển bắt nguồn từ những sự kiện
trong năm trước đó đã bắt đầu làm thay đổi các động lực của ngoại giao quốc tế. Hồi ký của Trần Quang Cơ về giai đoạn rất quan trọng trong quá
trình bình thường hóa quan hệ Việt-Trung đã minh họa đầy đủ sự chuyển dịch này.
Trong khi Bộ Chính trị (Việt Nam) vẫn tiếp tục tranh luận xem nên cố gắng đạt
được thỏa thuận với Trung Quốc dựa trên ý thức hệ chung (tức “giải pháp đỏ”
[cho vấn đề Campuchia]) hay là nên tham gia vào giải pháp ngoại giao với kết
quả khó dự đoán hơn thông qua Liên Hợp Quốc, tức là sẽ bao gồm cả Hoa Kỳ và
ASEAN, ông Cơ đã xin ý kiến ông Phạm Văn Đồng, lúc đó là “cố vấn” Ban chấp hành
Trung ương Đảng. Ông Đồng nói với ông Cơ đầu tháng 8 năm 1990, “Phải dám chơi
với Liên Hợp Quốc, với Hội đồng Bảo an, với Mỹ và phương Tây. Cần tranh thủ
nhân tố Mỹ trong tình hình mới… Đề án về lý thuyết thì tốt nhưng làm sao thực
hiện được… Không nên đặt yêu cầu quá cao ‘giữ vững thành quả cách mạng
(Campuchia)’… Đi vào tổng tuyển cử bạn giành 50% là lý tưởng.”
Không lâu sau cuộc trò chuyện này, Trung Quốc bất ngờ gửi lời
mời khẩn tới Thủ tướng Đỗ Mười (không lâu sau thay thế Nguyễn Văn Linh làm TBT)
và Phạm Văn Đồng tới gặp tại Thành Đô xa xôi (phía Trung Quốc nói cần họp ở đó
để dễ giữ bí mật) để tham gia vào một nỗ lực giải quyết vấn đề Campuchia và đạt
được bước đột phá trong việc bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Điều này là
rất bất ngờ do đến thời điểm đó Trung Quốc vẫn kiên quyết khẳng định rằng vấn
đề Campuchia phải được giải quyết theo ý Trung Quốc trước khi có thể đàm phán
bình thường hóa quan hệ.
Phân tích của
Trần Quang Cơ là Trung Quốc giờ phải thay đổi lập trường do ưu tiên hàng đầu
của họ là phát triển kinh tế đã bị cản trở bởi các biện pháp trừng phạt sau vụ
Thiên An Môn.
Ngoại giao được
tăng tốc bởi các bên khác (bao gồm Mỹ, Nhật, và ASEAN) và việc mất đi yếu tố
chính giúp đoàn kết lập trường của Trung Quốc với ASEAN (việc Việt Nam đóng
quân ở Campuchia), cùng với mối lo ngại ngày càng tăng của ASEAN về ý đồ của
Trung Quốc trong khu vực, đang làm đe dọa đến khả năng kiểm soát kết quả giải
quyết vấn đề Campuchia của Trung Quốc – từ đó dẫn tới việc Bắc Kinh có động lực
muốn nhanh chóng đạt được thỏa thuận với Việt Nam.
Nguyễn Văn Linh
và Phạm Văn Đồng dẫn đầu phái đoàn Việt Nam tới Thành Đô vào đầu tháng 9 năm
1990, đáng chú ý là không có Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, vốn được Bắc
Kinh xem là người cương quyết chống Trung Quốc. Trong các cuộc họp của Bộ Chính
trị ông Thạch đã lên tiếng phản đối cả “giải pháp đỏ” ở Campuchia và việc đánh
cược mọi con bài ngoại giao của Hà Nội dựa trên lợi ích chung giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong việc chung sức “bảo vệ chủ nghĩa xã hội,” như Nguyễn Văn Linh
và một số lãnh đạo Bộ Chính trị khác ủng hộ.
Lập trường của
ông Thạch đã suy yếu do không thể chứng minh bất kỳ kết quả nào thu được từ “lá
bài Mỹ.” Cuối cùng, giới lãnh đạo Đảng đã quyết định gạt bỏ ông Thạch vốn gay
gắt chống Trung để xoa dịu Bắc Kinh.
Bất chấp những
chỉ dấu mơ hồ từ phía Trung Quốc rằng Đặng Tiểu Bình sẽ tham dự hội nghị Thành
Đô (để thuyết phục Phạm Văn Đồng tới dự và tranh thủ thâm niên và uy tín của
ông vào dịp này), Đặng đã không xuất hiện, và Giang Trạch Dân cùng Lý Bằng là
người đại diện cho Trung Quốc. Sau này Võ Văn Kiệt cho rằng đây là một sự xúc
phạm cố ý đối với Việt Nam, và phái đoàn Việt Nam đã “sập bẫy” bằng cách gửi
đến một nhà lãnh đạo cấp cao mà Trung Quốc không đáp lại tương xứng.
Phái đoàn Việt
Nam nhanh chóng phát hiện ra phía Trung Quốc không hề quan tâm đến “giải pháp
đỏ” hay bất kỳ hình thức liên minh ý thức hệ nào với Việt Nam. “Tình hình quốc
tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không có lợi cho
chúng ta,” phía Trung Quốc nói. Dù miễn cưỡng viện dẫn sự đoàn kết ý thức hệ
trong việc nuôi dưỡng mối quan hệ liên đảng giữa các phe phái cộng sản đối lập
tại Campuchia, nhưng Trung Quốc vẫn qua mặt Bộ Ngoại giao có xu hướng chống
Trung Quốc của Việt Nam để làm việc trực tiếp với Ban Đối ngoại Trung ương
ĐCSVN. Với việc Trung Quốc nhấn mạnh việc duy trì quan hệ với Việt Nam chủ yếu
là trên cơ sở phi ý thức hệ giữa hai nhà nước, lẽ ra hoạt động ngoại giao giữa
hai nước nên được thực hiện thông qua các kênh liên lạc của chính phủ thay vì
các kênh đảng. Điều này cho thấy Trung Quốc chỉ viện đến sự đoàn kết giữa hai
đảng khi nào tình hình phù hợp với lợi ích riêng, và tiếp tục khước từ lời kêu
gọi của Việt Nam là thay thế Liên Xô làm “thành trì xã hội chủ nghĩa” trong một
thế giới đang thay đổi.
Gọi hội nghị
Thành Đô là một thất bại ngoại giao đối với Việt Nam, Trần Quang Cơ cho rằng lý
do chính là Việt Nam đã tự huyễn hoặc mình bằng cách bám vào niềm tin rằng
Trung Quốc có quan tâm đến một liên minh ý thức hệ để chống lại âm mưu “diễn
biến hòa bình” của các nước đế quốc nhằm lật đổ các nước cộng sản còn lại. Sự
sụp đổ của những nỗ lực thất bại nhằm đạt được một “giải pháp đỏ” là bước quan
trọng cuối cùng dẫn tới vai trò ngày một phai nhạt của bóng ma “diễn biến hòa
bình” vốn được các phần tử bảo thủ của Việt Nam lấy làm cái cớ để phản đối các
lực lượng theo xu hướng hội nhập của một hệ thống hậu Chiến tranh Lạnh đang
toàn cầu hóa.
Như xát muối vào
vết thương, Trung Quốc hân hoan tiết lộ nội dung hội nghị cho Hun Sen và một
loạt các bên khác rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam đồng ý chấp nhận cho các thế
lực chống Hun Sen chiếm ưu thế trong chính phủ liên minh – trên thực tế là bán
đứng phe được Việt Nam bảo trợ vốn đang là thế lực thống trị ở Campuchia trong
thời gian đó. Một trong những mục tiêu của việc tiết lộ cuộc đàm phán được cho
là bí mật này là nhằm xây dựng một hình ảnh Việt Nam tráo trở và không đáng tin
cậy với đồng minh, đồng thời gây chia rẽ trong giới lãnh đạo Việt Nam. Trong
vấn đề này Trung Quốc đã thành công: trong một cuộc họp Bộ Chính trị giữa tháng
5 năm 1991, Phạm Văn Đồng bày tỏ ân hận vì bị đẩy vào ủng hộ một chính sách
không khôn ngoan. Thủ tướng Đỗ Mười cũng lấy làm tiếc về kết quả, với lý do nó
sẽ khiến Việt Nam trở thành người bạn không đáng tin cậy trong con mắt các đối
tác. Nguyễn Cơ Thạch cũng nói với TBT Linh rằng ông đã mắc một sai lầm nghiêm
trọng.
Vào ngày Quốc
khánh mùng 2 tháng 9 năm 1990, một ngày trước khi diễn ra hội nghị bí mật giữa
Việt Nam và Trung Quốc tại Thành Đô, bài phát biểu của Thủ tướng Đỗ Mười nhân
dịp này đã ghi nhận lời kêu gọi của Lý Bằng rằng “hai nước láng giềng” (không
phải “hai bên đồng chí”) cần khôi phục quan hệ bình thường và tìm một giải pháp
chính trị cho vấn đề Campuchia. Ông Mười nhắc lại sự hỗ trợ của Liên Xô và
Trung Quốc cho Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh vũ trang, và nói rằng “Trong
công cuộc đổi mới của đất nước ngày nay, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế có ý
nghĩa rất quan trọng.”
Một ý nghĩa của
điều này là Việt Nam có dấu hiệu đang chuyển từ những bước đi địa chính trị
trên bàn cờ toàn cầu sang phát triển kinh tế – trong quá trình đó việc bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ có lợi, nhưng không sống còn như trong
lĩnh vực chiến lược. Trước đó trong bài phát biểu của mình, Đỗ Mười nói, “Tình
hình quốc tế đang diễn biến hết sức phức tạp. Khủng hoảng ở các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu rất nghiêm trọng, không phải là không có tác động đáng kể đến
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các thế lực thù địch đang tiến
hành nhiều hoạt động chống phá sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc của nhân
dân ta.”
Như một chỉ dấu
nữa cho thấy quan điểm của giới lãnh đạo Việt Nam về bản chất của quan hệ quốc
tế đang thay đổi, Đỗ Mười vạch ra những đường nét rộng lớn của hiện tượng sau
này được gọi là “toàn cầu hóa.” “Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu thế
quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đang cho người dân thế giới nhiều cơ hội lớn
để phát triển.” Thừa nhận rằng “đã có nhiều sai lầm” trong chính sách kinh tế
“trong nhiều năm,” ông Mười nói rằng “Hiện nay chúng ta phải đối mặt với thực
tế là mức sống và trình độ phát triển của nhân dân ta đang quá thấp. Đây là
tình hình bức bách và thách thức lớn đối với nhân dân ta.”
Động lực cho sự
nhượng bộ ở Thành Đô nhằm bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vừa là chính
sách thực dụng (bù đắp cho sự thiếu hụt hỗ trợ từ Liên Xô và thừa nhận thực tế
là vị thế chiến lược của Trung Quốc đã cải thiện) vừa mang tính ý thức hệ (duy
trì và tăng cường số lượng giảm sút của các nước cộng sản nòng cốt). Bài phát
biểu tháng 9 năm 1990 của Đỗ Mười, một bản chi tiết hơn của bài phát biểu tháng
12 năm 1989, cũng cho thấy Việt Nam đã cố gắng suy tính những tác động của quan
hệ quốc tế trong kỷ nguyên mới, trong đó cả chính sách (địa chính trị) thực
dụng và các yếu tố ý thức hệ đều không mang tính quyết định trong việc giải
quyết vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam, đó là sự lạc hậu về kinh tế. Ở thời
điểm đó, giải thoát khỏi gánh nặng Campuchia và tìm cách thỏa hiệp với Trung
Quốc để Việt Nam có thể tập trung phát triển là điều cần thiết.
Mặc dù phái đoàn
Việt Nam ở Thành Đô đã đưa ra sự nhượng bộ lớn là chấp thuận đề xuất của Trung
Quốc vốn có thể làm nghiêng cán cân sang hướng có lợi cho các đối thủ của Hun
Sen, nhưng Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh đã bay tới Phnom
Penh và cố gắng thuyết phục Hun Sen đồng ý hợp tác với các lực lượng Pol Pot,
do bức tranh toàn cảnh là các nước đế quốc đang cố gắng tiêu diệt chủ nghĩa xã
hội, và Campuchia có thể tự cứu mình bằng cách đạt được hòa giải giữa phe cộng
sản của Hun Sen và phe Khmer Đỏ. Nguyễn Văn Linh nói với lãnh đạo Campuchia,
“Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia.
Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến
mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc.” Lập luận này được Lê Đức Anh mở
rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở
Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù
trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
“Giải pháp đỏ” vẫn còn trong tâm trí hai nhà lãnh đạo đảng và quân đội này của
Việt Nam, nhưng khi không có sự ủng hộ của Trung Quốc, giải pháp này đành chịu
thất bại.
“Giải pháp đỏ”
cũng làm đồng minh Campuchia của Việt Nam trở nên xa lánh. Đại sứ Việt Nam
thông báo rằng sau cuộc họp này thái độ của Hun Sen đối với Việt Nam đã thay
đổi – điều này cuối cùng dẫn đến cảnh Đại sứ Ngô Điền “đơn độc” buộc phải chứng
kiến sự tan rã của Đảng Cộng sản Campuchia. Kết cục là Việt Nam không còn nước
cộng sản nào bảo trợ cho mình, và cũng không còn nước cộng sản nào để mình bảo
trợ nữa. Trần Quang Cơ có lẽ đã không đơn độc khi kết luận rằng hội nghị Thành
Đô là “vết nhơ về ngoại giao của Việt Nam.” Việt Nam đã không chỉ bộc lộ mong
muốn theo đuổi một chính sách lạc hậu dựa trên sự đoàn kết ý thức hệ với Trung
Quốc, mà sự tiết lộ ranh mãnh của Trung Quốc về thất bại của Việt Nam trong
việc đạt được một “giải pháp đỏ” và sự phản bội người đồng minh của mình đã làm
suy yếu nỗ lực đa dạng hóa chính sách và mở rộng không gian đối ngoại của Việt
Nam. Lập trường của Trung Quốc đã biến việc đa dạng hóa chính sách đối ngoại
trở thành con đường ngoại giao khả thi duy nhất thay thế cho sự phụ thuộc hoàn
toàn vào Trung Quốc.
Ngay cả cuốn hồi
ký thẳng thắn của Trần Quang Cơ về hội nghị Thành Đô giữa các nhà lãnh đạo Việt
Nam và Trung Quốc cũng không đề cập đến một đề xuất đi xa hơn vấn đề Campuchia
của Trung Quốc. Một tờ báo Anh dẫn nguồn tình báo phương Tây cho rằng Trung
Quốc đã đề nghị cung cấp cho Việt Nam các loại hàng hóa cơ bản mà nay Liên Xô
không còn có thể cung cấp, và trả lại một phần đáng kể quần đảo Trường Sa (khu
vực có trữ lượng dầu lửa tiềm năng). “Để đổi lại, Trung Quốc đề nghị Hà Nội
‘điều phối’ – nói cách khác là điều chỉnh theo hướng lệ thuộc – chính sách đối
ngoại của Việt Nam theo chính sách của Bắc Kinh. “Hà Nội đã tiến rất gần [đến
việc chấp nhận],” theo một nguồn tình báo ở Bangkok. “Và đó là điều thực sự làm
tôi ngạc nhiên, chứ không phải là lời từ chối cuối cùng của họ. Củ cà rốt giơ
ra trước mặt Hà Nội là rất lớn, và họ đã phải suy đi nghĩ lại trước khi khước
từ toàn bộ. Nó cho thấy Việt Nam đã tuyệt vọng đến mức nào.” Trên thực tế, vị
thế chiến lược xấu đi của Việt Nam đã nhanh chóng buộc nước này phải miễn cưỡng
chấp nhận vai trò cửa dưới mà Trung Quốc đề nghị – ngay cả khi không còn những
củ cà rốt.
David W. P.
Elliott là giáo sư ngành quản trị và quan hệ quốc tế tại Pomona College. Tựa đề
bài viết doNghiencuuquocte.net tự đặt.
Nguồn: Elliott, David W.P., 2012, Changing Worlds: Vietnam’s
Transition from Cold War to Globalization(pp. 112-116).
Oxford University Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét