Xem
Phần I - Sửa đổi
hiến pháp hay viết lại hiến pháp?
(http://quangdonquixote.blogspot.com/2013/03/mai-thai-linh-lo-trinh-xay-dung-mot.html)
Tháng 3 9,
2013
Mai Thái Lĩnh
Phần II: Làm thế nào để viết lại hiến pháp mới?
Trong phần trước, chúng ta đã tìm
hiểu lý do tại sao đã đến lúc phải viết lại một hiến pháp mới thay vì sửa đổi
bản hiến pháp cũ. Nói theo ngôn ngữ của luật học: đã đến lúc nhân dân Việt Nam
phải sử dụng quyền lập hiến nguyên thủy (pouvoir constituant originaire) thay
vì sử dụng quyền lập hiến phái sinh (pouvoir constituant dérivé).
Như các nhà luật học người Pháp
đã phân tích, quyền lập hiến nguyên thủy chỉ thực hiện được trong hoàn cảnh có
khoảng trống pháp lý (vide juridique) mà yếu tố này lại là một sự kiện (fait)
nằm ngoài phạm vi của luật học. Khoảng trống pháp lý này có thể hình thành từ
những hoàn cảnh khách quan hoặc từ những tác động chủ quan, như các cuộc cách
mạng hay các cuộc đảo chính. Nhưng đối với một chế độ cộng sản thì khả năng đảo
chính là hầu như không thể xảy ra, còn cách mạng lại là điều phần lớn người dân
Việt Nam – do quá mệt mỏi vì chiến tranh, vì nội loạn, đều không mong muốn. Như
thế, trong hoàn cảnh êm ả nhất, hòa bình nhất – nghĩa là không có đảo chính,
không có cách mạng, khoảng trống này chỉ có thể được tạo ra bằng một cuộc đấu tranh của quần chúng
theo phương thức ôn hòa, bất bạo động nhằm
dẫn đến một sự thay đổi về tương quan lực lượng, tạo điều kiện cho việc thực
hiện quyền lập hiến nguyên thủy. Đảng Cộng sản gọi quá trình này là “diễn biến
hòa bình”, nhưng thay vì ủng hộ nó để có thể từng bước chuyển giao quyền lực
một cách êm thắm như các chế độ quân chủ lập hiến trước kia đã làm, họ lại coi
đó là “nguy cơ”, là “hiểm họa”. Lòng đam mê nắm giữ quyền lực đã khiến cho các
nhà lãnh đạo cộng sản trở nên mù quáng, ngày càng kém sáng suốt. Gần đây, chẳng
những đề phòng diễn biến hòa bình từ bên ngoài, họ còn lớn tiếng lên án cả hiện
tượng “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng, coi những người có quan điểm chính trị
khác với quan điểm chính thống là “thoái hóa”, là “biến chất”,…
Diễn biến hòa bình từ một chế độ
độc tài, chuyên chế sang một chế độ dân chủ là khả năng có thật, đã từng xảy ra
ở nhiều nước trong nhiều thời điểm lịch sử. Như ở Bắc Âu chẳng hạn, cuộc đấu
tranh mạnh mẽ của quần chúng từ bên dưới kết hợp với sự diễn biến trong nội bộ
của tầng lớp thống trị ở bên trên đã tạo ra tiến trình dân chủ hóa tương đối êm
thắm, giúp thiết lập thành công các chế độ dân chủ. Tính chất ổn định và vững
chắc của các nền dân chủ tại đây cho thấy khả năng “đoàn kết, thống nhất trong
đa dạng”. Nằm sát cạnh các cường quốc lớn như Đức và Nga, các nước này đã tránh
được những bất ổn nội bộ cũng như những sự can thiệp từ bên ngoài. Ngày nay,
với ba vương quốc quân chủ lập hiến (Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy) và hai nước
cộng hòa (Phần Lan, Iceland), khu vực này vẫn luôn ghi điểm cao trong lĩnh vực
nhân quyền và chất lượng cuộc sống, đáng cho chúng ta nghiên cứu, học hỏi.
Trước khi phác họa một lộ trình
cho việc thiết lập một hiến pháp dân chủ, thiết nghĩ chúng ta cũng cần giải đáp
một vấn đề khá quan trọng:
Hiến pháp dân chủ là khởi
điểm hay là kết quả của quá trình dân chủ hóa?
Tình hình thực tế hiện nay là
nhân dân ta đang sống dưới một chế độ độc tài toàn trị. Đảng cầm quyền chưa hề
tỏ rõ thiện chí mở rộng dân chủ, ban hành một hiến pháp tiến bộ hơn. Nhưng giả
định rằng trong quá trình đấu tranh, đến một lúc nào đó đảng cầm quyền buộc
phải mở rộng dân chủ thì câu hỏi đặt ra là: cuộc cải cách hiến pháp ấy có thiết
lập được ngay một bản hiến pháp thật sự dân chủ hay không?
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy cuộc
đấu tranh để chuyến hóa từ độc tài, chuyên chế sang dân chủ chỉ có thể giành
được “thắng lợi từng phần”, do chỗ tầng lớp thống trị chỉ chịu lùi từng bước,
nhượng bộ từng phần, chứ không bao giờ chịu nhượng bộ hoàn toàn, “trọn gói”
trước những đòi hỏi của nhân dân. Một trong những minh chứng thực tế là trường
hợp của Miến Điện (Burma, nay gọi là Myanmar) mà một số trí thức trong và ngoài
nước đã gọi là “mô hình Miến Điện”. Mặc dù đã đạt những bước tiến quan trọng về
dân chủ do công lao của Tổng thống Thein Sein, cho đến nay Miến Điện vẫn chưa
có một hiến pháp đáng gọi là dân chủ:
Bản hiến pháp hiện hành của nước
này là Hiến pháp 2008 được thông qua bởi một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày
10-5-2008 với kết quả 93,82% phiếu thuận, với tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu
(turnout) rất cao: 98,12 %. Mặc dù vậy, “quyền phúc quyết” vẫn không giúp cho
bản hiến pháp này thêm được tính dân chủ. Trong thực tế, đó vẫn là một bản hiến
pháp phi-dân chủ vì những điều khoản nhằm củng cố quyền hành của tầng lớp thống
trị – nhất là giới quân sự: (1) Một phần tư tổng số ghế trong nghị viện được
dành cho các sĩ quan quân đội; (2) Bộ Nội vụ thuộc quyền kiểm soát của quân
đội; (3) Bất kỳ người nào kết hôn với một người không phải là người Miến Điện
sẽ bị cấm giữ chức vụ tổng thống. Nhiều cơ quan truyền thông quốc tế cho rằng
điều khoản này có tác dụng ngăn cản lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi ứng cử chức
vụ tổng thống, mặc dù chồng bà (là một người Anh) đã qua đời năm 1999.[1] Nhìn vào tương quan lực lượng, chúng
ta thấy đảng cầm quyền USDP (Union Solidarity and Development Party, Đảng Liên
minh Đoàn kết và Phát triển) và quân đội vẫn khống chế chính trường. Trên tổng
số 440 ghế tại Hạ viện, Đảng USDP chiếm 212 ghế (48, 18%), quân đội chiếm 110
ghế (25%), Đảng NLD (National League for Democracy, Liên
đoàn Quốc gia vì Dân chủ) của bà Aung San Suu Kyi chỉ có 37 ghế (8,41 %). Tại
Thượng viện, trên tổng số 224 ghế, USDP chiếm 124 ghế (55, 37%), quân đội chiếm
56 ghế (25%), Đảng NLD chỉ có 4 ghế (1,78%).
Như thế, nghị viện vẫn còn là
“nghị viện của quân đội” và sự tham gia của đảng đối lập NLD chỉ mới có tính
chất tượng trưng. Vẫn còn một quãng đường chông gai để Nghị viện Miến Điện trở
thành một Nghị viện của Dân và một bản hiến pháp dân chủ vẫn còn là một mục
tiêu đấu tranh của nhân dân Miến Điện. Có thể nói Miến Điện chỉ có thể đạt được
một bản hiến pháp thật sự dân chủ khi các lực lượng đối lập (nhất là đảng của
bà Aung San Suu Kyi) được cùng tham gia soạn thảo hiến pháp.
Chính vì vậy, chúng ta cần nhất
trí với nhau về một điểm: phải coi hiến pháp dân chủ là mục tiêu cần đạt được
qua một quá trình đấu tranh lâu dài, chứ không thể coi đó là khởi điểm. Cần nói
rõ điều này để giúp cho người dân có ý thức cảnh giác trước những cuộc cải cách
hiến pháp nửa vời mà đảng cầm quyền đã và đang ra sức tuyên truyền. Mặt khác,
các nhà chiến lược của các phong trào vận động dân chủ cũng phải nhất trí về
một điều: trong khi nhân dân chưa có điều kiện để thực hiện quyền lập hiến
nguyên thủy thì mọi cuộc cải cách hiến pháp chỉ có thể được coi là những giải
pháp tạm thời, những biện pháp vận động mang tính chiến thuật. Không nên vì quá
say sưa với các hình mẫu hiến pháp mà quên đi một thực tế: hiến pháp dân chủ
không phải là một văn bản thuần túy pháp lý mà là kết quả của sự tăng cường
quyền lực của nhân dân thông qua đấu tranh.
Ngoài ra, các nhà vận động dân
chủ trong và ngoài nước cũng cần lưu ý một điểm hết sức quan trọng: cuộc đấu
tranh dân chủ hóa mặc dù dựa vào phương thức ôn hòa, bất bạo động, nhưng vẫn
phải dẫn đến một sự thay đổi
về tương quan lực lượng có tầm mức tương đương với một cuộc cách mạng.
Trong chiều hướng đó, để giữ được tính chất ôn hòa, bất bạo động, cần phải
tránh một số khuyết điểm của phương thức cách mạng (như quá khích, manh động,
bạo động) để không gây ra những xáo trộn xã hội không cần thiết. Mặt khác, để
bảo đảm đạt được mục tiêu cuối cùng, cuộc đấu tranh đó cũng cần phải tránh một
số khuyết điểm của phương thức đảo chính (như thỏa hiệp vô nguyên tắc, bằng
lòng với các cải cách nửa vời, không dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân
bên dưới). Trong lịch sử, nhiều cuộc “đảo chính cung đình” nhân danh “cách
mạng” cuối cùng chỉ dẫn đến việc phân chia lại quyền lợi giữa các thế lực chính
trị bên trên, không quan tâm đến các quyền tự do căn bản của người dân cũng như
sự phát triển của xã hội dân sự.
Làm thế nào để thiết lập
một hiến pháp dân chủ tại nước ta?
Dựa vào những chỉ dẫn của Phan
Châu Trinh – nhà tư tưởng hàng đầu của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam hồi đầu thế
kỷ vừa qua (thế kỷ 20), có thể tạm vạch ra một lộ trình thiết lập hiến pháp dân
chủ như sau:
Bước 1) Đấu tranh thực
thi các quyền tự do căn bản:
Khi nói đến “các quyền tự do căn
bản”, tôi không nhằm nói đến các quyền tự do căn bản dựa theo các công ước quốc
tế – là những quyền được thế giới văn minh công nhận như những giá trị
phổ quát mà bất cứ quốc gia dân chủ nào cũng đều phải thực hiện. Tôi muốn nói
đến “các quyền tự do căn bản” xét theo phương diện đấu tranh để xây dựng một xã
hội dân sự làm tiền đề vững chắc cho một chế độ chính trị thật sự dân chủ. Nói
cách khác, đó là “các quyền căn bản làm nảy sinh các quyền tự do căn bản khác”.
Trong một bài viết công bố vào
cuối năm 2010 nhằm trình bày “Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh”,[2] tôi đã nêu rõ ba quyền tự do căn bản
ấy là “tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp và lập hội”.
Phan Châu Trinh diễn đạt điều đó bằng hai câu thơ như sau:
Để ta được vào vòng chánh
trị,
Từ hội hè, suy nghĩ, nói
năng.
Vận dụng vào hoàn cảnh của thế
giới và của đất nước hiện nay, chúng ta có thể sửa đổi, bổ sung ba quyền tự do
căn bản đó thành: (1) tự do tư tưởng và tự do tôn giáo; (2) tự do ngôn
luận, tự do báo chí và internet; (3) tự do hội họp và lập hội. Ba quyền tự
do căn bản ấy chính là đòn
bẫy làm nảy sinh và phát triển xã hội dân sự. Đó cũng chính là tiền đề để
giúp nhân dân ta đàng hoàng “bước vào vòng chính trị”, từ chỗ bị tước đoạt
quyền công dân và quyền làm người tiến lên làm chủ về mặt chính trị.
Sẽ có người đặt câu hỏi: tại sao
rất nhiều quyền công dân và quyền con người đã được ghi vào hiến pháp của nước
ta mà vẫn không được thực hiện? Nếu nhìn lại lịch sử, chúng ta có thể thấy rõ
một điều: ở nơi nào mà nhân dân tự mình đấu tranh để giành các quyền tự do thì
nơi đó, luật pháp và hiến pháp mới có thực chất. Ngược lại, ở nơi nào mà hiến
pháp và pháp luật chỉ do một “đấng minh quân” hay một “đảng chính trị sáng
suốt” ban cho thì các quyền tự do có nguy cơ trở thành “tự do trên giấy”, thành
“bánh vẽ”.
Trong thực tế của các nền dân chủ
tiên phong, các đạo luật ban hành các quyền tự do của công dân thường ra đời
trước khi có hiến pháp và cuộc đấu tranh để đặt nền móng cho chế độ pháp trị
(rule of law) đã được khởi động rất sớm, nghĩa là từ khi chưa có hiến pháp,
chưa có hệ thống chính trị dân chủ hoàn chỉnh.
Nếu tìm hiểu Hiến pháp Hoa Kỳ
(1787), chúng ta sẽ thấy văn bản lập hiến này có nguồn gốc từ những văn bản
pháp lý ra đời từ rất sớm ở Vương quốc Anh. Vào năm 1215, các nam tước (barons,
tức là các nhà quý tộc lớp dưới) đã buộc Vua John phải ký Đại Hiến chương (Magna Carta),
từ đó sinh ra khái niệm “Lệnh định quyền giam giữ” (writ of Habeas corpus) nhằm
hạn chế quyền lực tùy tiện của nhà vua. Bản hiến chương đó cũng là nguồn gốc
của khái niệm “Thủ tục pháp lý thích đáng” (Due process of law) về sau được đưa
vào Hiến pháp Hoa Kỳ bằng hai tu chính án số 5 (năm 1789) và số 14 (năm 1866).
Đó là những khái niệm pháp lý quan trọng làm nên điều mà ngày nay chúng ta
thường gọi là “quyền được xét xử một cách công bằng”. Cùng với Đạo luật về Quyền (Bill of Rights) do Nghị viện Anh ban hành năm 1689, Magna Carta được coi là nguồn gốc ban đầu của Hiến
pháp Hoa Kỳ cũng như 10 tu chính án đầu tiên – thường được gọi là Đạo luật về Quyền (Bill of Rights) của Hoa Kỳ.
Tương tự như thế, tại Thụy Điển,
rất lâu trước khi hệ thống đại nghị được thiết lập hoàn chỉnh, cuộc đấu tranh
đòi quyền tự do ngôn luận đã đạt được thắng lợi quan trọng qua việc ra đời Đạo luật về Tự do Báo chí
(Tryckfrihetsförordningen, The Freedom of the Press Act) vào năm 1766 – một trong những đạo
luật đầu tiên về tự do báo chí trên thế giới.
Nói cách khác, nếu tôn trọng luật
pháp là khởi đầu của sự tôn trọng hiến pháp thì việc tiến hành đấu tranh giành
các quyền tự do căn bản nhằm hình thành xã hội dân sự chính là sự bảo đảm tốt
nhất cho việc thực thi luật pháp và hiến pháp sau này. Bởi một lẽ dễ hiểu: cái gì ta giành được thì cũng bền
vững hơn là cái mà ta được ban ân.
Bước 2) Tạo điều kiện
thực thi quyền bầu cử-ứng cử và các quyền chính trị khác:
Chỉ đến lúc ba quyền tự do căn
bản nói trên được thực hiện đến một mức độ nào đó thì các quyền tự do chính trị
như quyền bầu cử-ứng cửvà quyền phúc quyết (một hình thức của trưng cầu dân ý) mới có thể
trở thành quyền thực chất. Nói cách khác, quyền bầu cử-ứng cử và quyền phúc
quyết chỉ có thể thực hiện trên nền tảng của một xã hội dân sự tương đối vững
vàng.
Quyền bầu cử-ứng cử là một quyền
tự do chính trị cực kỳ quan trọng vì đó chính là điều kiện để nhân dân có thể
bầu ra một chính quyền đại diện thật sự cho nhân dân, vừa thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, vừa bảo vệ được các lợi ích chính đáng của nhân dân.
Một cuộc bầu cử trong hoàn cảnh nhân dân không được thực thi các quyền tự do
căn bản chỉ là một hình thức để lừa bịp, bởi vì không có cạnh tranh lành mạnh
giữa các ứng cử viên, giữa các đảng phái và ngay cả việc bỏ phiếu, kiểm phiếu
công bằng cũng không ai có thể giám sát được. Đó chính là tình trạng “Đảng cử,
dân bầu” mà tất cả các quốc gia theo chế độ cộng sản đều phạm phải – không trừ
một nước nào. Có thể nói quyền bầu cử-ứng cử phải dựa trên tiền đề là ba quyền
tự do căn bản nói trên và ngược lại, ba quyền căn bản nói trên sẽ được bảo đảm
một khi người dân có quyền bầu những người đại diện của mình vào các cơ quan
quyền lực hiến định.
Thực hiện được quyền bầu cử-ứng
cử cũng tương tự như thực hiệnquyền phúc quyết (một hình thức của trưng cầu dân ý), vì trưng
cầu dân ý suy cho cùng cũng là một hình thức bỏ phiếu. Mặc dù là một hình thức
của dân chủ trực tiếp (direct democracy) giúp cho người dân có cơ hội tham gia
vào các sinh hoạt chính trị, trưng cầu dân ý cũng có thể trở thành công cụ
trong tay các nhà độc tài hay các lãnh tụ chính trị giỏi mị dân. Để bảo đảm cho
trưng cầu dân ý trở thành công cụ hữu hiệu trong tay nhân dân, chỉ nên áp dụng
hình thức này khi người dân đã thực hiện được ba quyền tự do căn bản như đã
trình bày trong bước 1.
Bước 3) Hai phương thức
thực hiện quyền lập hiến:
Một khi các quyền tự do căn bản
và quyền bầu cử-ứng cử có khả năng thực thi một cách đúng đắn, xã hội dân sự đã
được xác lập như một đối trọng của chính quyền thì đó cũng là lúc nhân
dân có đủ điều kiện thực hiện quyền lập hiến nhằm thiết lập một hiến pháp mới.
Vào lúc này, dân trí đã được nâng cao một bước và song song với sự phát triển
của xã hội dân sự, chính quyền đã được “dân chủ hóa” ở một mức độ nhất định. Sự
phát triển của xã hội dân sự đã tạo ra cơ hội để làm nảy sinh một “khoảng trống
pháp lý”. Đó chính là thời cơ để nhân dân thực hiện quyền lập hiến nguyên thủy,
hủy bỏ hiến pháp cũ, làm ra một bản hiến pháp mới thật sự dân chủ.
Nhìn chung, có hai phương thức để
thiết lập hiến pháp mới:
(1) Nhân dân tiến hành một cuộc
bầu cử để bầu ra một Quốc hội
Lập hiến (assemblée
constituante, constituent assembly). Quốc hội này chỉ làm một công việc
duy nhất là soạn thảo và
thông qua một bản Hiến pháp mới. Do được nhân dân ủy quyền, bản hiến pháp
này không cần đưa ra để trưng cầu dân ý (tức phúc quyết). Mặt khác, trong thời
gian soạn thảo và thông qua hiến pháp mới, cơ quan này có thể đóng vai trò của
một chính phủ tạm quyền.
Vì được bầu ra với mục đích chủ
yếu là làm ra một bản hiến pháp mới, Quốc hội Lập hiến sẽ giải tán sau khi hoàn
thành nhiệm vụ. Sau khi bản hiến pháp mới được Quốc hội Lập hiến thông qua, các
cuộc bầu cử sẽ được tiến hành để bầu ra các cơ quan nắm giữ các quyền lực hiến
định (lập pháp, hành pháp, tư pháp) theo đúng những điều khoản đã quy định
trong hiến pháp.
(2) Thay vì bầu ra một Quốc hội
Lập hiến, do chỗ xã hội dân sự đã hình thành, chính quyền hiện hành (vào lúc
này đã trở thành một chính quyền dân chủ hóa ở một mức độ nhất định) sẽ đề xuất
một phương án thành lập một Ủy
ban Lập hiến bao gồm
đại diện của tất cả các xu hướng chính trị (ít nhất là những xu hướng chính)
trong xã hội. Phương án hình thành Ủy ban Lập hiến đương nhiên phải đạt được sự
đồng thuận chung của toàn xã hội thông qua thảo luận, thương thuyết và đàm
phán. Đó chính là thành quả bước đầu của quá trình hòa giải dân tộc và cũng là
tiền đề để xây dựng một thể chế chính trị dân chủ trong tương lai.
Ủy ban Lập hiến được Quốc hội
đương nhiệm chính thức ủy quyền soạn thảo một bản hiến pháp mới và bản dự thảo
này sẽ được đưa ra thảo luận một cách công khai, rộng rãi, sau đó được đưa ra
Quốc hội biểu quyết thông qua. Khác với phương án trên, bản dự thảo hiến pháp
sau khi được Quốc hội hiện hành thông qua, sẽ được đưa ra trưng cầu dân ý (tức
phúc quyết). Do chỗ các quyền tự do căn bản đã được thực thi, chúng ta có thể
tin tưởng vào kết quả của cuộc trưng cầu dân ý – tương đương với kết quả của
một cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến.
Tất nhiên, trước khi tiến hành
bầu Quốc hội Lập hiến hay hình thành Ủy ban Lập hiến nhằm soạn thảo, thông qua
hay phúc quyết hiến pháp mới, xã hội dân sự đã cùng với chính quyền hiện hành
tiến hành nhiều biện pháp hòa giải dân tộc (vd: trả tự do vô điều kiện cho tất
cả các tù chính trị, bãi bỏ tất cả các biện pháp sách nhiễu đối với những người
bất đồng chính kiến, v.v…) Mặt khác, các cải cách tư pháp cũng đã được tiến
hành một bước theo hướng bảo vệ các quyền công dân và quyền con người, nhằm xây
dựng một ngành tòa án độc lập, tạo ra các điều kiện ban đầu để hình thành một
chế độ pháp trị (tức nhà nước pháp quyền) theo nghĩa hiện đại.
Như vậy, một bản hiến pháp thật
sự dân chủ sẽ là thành quả của một cuộc đấu tranh giành dân chủ
chứ không phải là tiền đề của một cuộc vận động dân chủ. Hiến
pháp không phải là sản phẩm thuần túy của “phòng thí nghiệm lập hiến” – kết quả
trừu tượng của các nhà luật học, mà là kết quả của sự đồng thuận trong nhân
dân, thể hiện qua sự thỏa thuận giữa các lực lượng chính trị và xã hội – trong
đó có sự góp phần quan trọng của các nhà luật học. Chỉ bằng cách đó, hiến pháp
mới có giá trị thực chất và có thể tồn tại lâu dài với thời gian. Vì là kết quả
của sự đồng thuận trong nhân dân, thông qua các cuộc bầu cử hay phúc quyết mang
tính dân chủ, cho dù bản hiến pháp ấy có khuyết điểm này hay khuyết điểm khác,
nhân dân vẫn có thể vẫn có thể khắc phục được một cách dễ dàng bằng con đường
của quyền lập hiến phái sinh, tức là thông qua các thủ tục sửa đổi hiến pháp đã
được ghi rõ trong bản hiến pháp được hình thành bởi “Quốc hội Lập hiến” hay “Ủy
ban Lập hiến + Trưng cầu dân ý”.
Ngoài ra, còn có một con đường
thứ ba: kết hợp cả hai phương thức “Quốc hội Lập hiến” và “Trưng cầu dân
ý”. Giải pháp này trong lịch sử đã từng được áp dụng, nhưng rất tốn kém
và có thể sinh ra hậu quả khó giải quyết, như trường hợp của bản Hiến pháp 1946
của nước Pháp. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, vào tháng 10 năm 1945, nhân
dân Pháp đã bầu một Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này đã soạn thảo và thông qua
một bản dự thảo Hiến pháp đầu tiên (19-4-1946), sau đó đưa ra trưng cầu dân ý
(ngày 5-5-1946) nhưng không đạt được đủ số phiếu cần thiết. Vì vậy đến tháng 6
năm 1946, nhân dân Pháp lại phải bầu một Quốc hội Lập hiến khác để soạn thảo và
thông qua một bản dự thảo Hiến pháp khác. Chính bản dự thảo Hiến pháp thứ hai
này mới được nhân dân chấp thuận thông qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 13-10-1946
và trở thành hiến pháp chính thức của nền Đệ tứ Cộng hòa (thường gọi là Hiến
pháp 1946).
Như chúng ta đã biết, mặc dù đã
trải qua hai lần phúc quyết, Hiến pháp 1946 vẫn không thể giải quyết được tình
trạng mất cân bằng giữa các cơ quan quyền lực hiến định. Các chính phủ thay đổi
liên tục (21 chính phủ trong vòng 10 năm)[3], trong khi nước Pháp phải
đương đầu với các cuộc chiến tranh giành độc lập từ các thuộc địa (như Việt
Nam, Algérie,…). Cơ quan hành pháp quá lệ thuộc vào cơ quan lập pháp, không đủ
khả năng để giải quyết các vấn đề cực kỳ khó khăn mà nước Pháp phải đương đầu.
Vì vậy, đến năm 1958, người Pháp lại phải thay Hiến pháp 1946 bằng một bản hiến
pháp mới – bản hiến pháp tồn tại được cho đến ngày nay. Trong lần thay đổi hiến
pháp này, chế độ chính trị tại Pháp chuyển từ mô hình đại nghị sang một mô hình
hỗn hợp (lai ghép) được đặt tên là chế độ nửa-tổng thống (semi-presidential
system).
Trong hoàn cảnh của Việt Nam,
thiết tưởng chúng ta chỉ nên áp dụng một trong hai phương pháp nêu trên là đủ
để bảo đảm có được một bản hiến pháp mới phù hợp với yêu cầu của dân tộc và yêu
cầu của thời đại.
*
Tóm lại, một bản hiến pháp dân
chủ là thành quả của một quá trình vận động dân chủ hóa theo phương thức đấu
tranh ôn hòa – bất bạo động, do sự hợp lực của tất cả các lực lượng yêu nước,
yêu dân chủ trong nhân dân. Nó là điểm cuối của quá trình dân chủ hóa chứ không
phải là điểm khởi đầu. Nó là thành quả của đấu tranh chứ không phải là sự ban
ân của một cơ chế “xin-cho”. Nó phản ánh sự thay đổi về tương quan lực lượng
trong xã hội chứ không phải là kết quả của một quy trình thuần túy pháp lý.
Trái với suy nghĩ của rất nhiều
người, đấu tranh ôn hòa – bất bạo động không có nghĩa là không cần phải hy
sinh, không cần trải qua gian khổ. Ngược lại, lịch sử đấu tranh ôn hòa – bất
bạo động trên thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy cuộc đấu tranh nào cũng đòi
hỏi những hy sinh to lớn, thậm chí những sự “hy sinh thầm lặng”, không được ai
biết đến. Rất nhiều nhà đấu tranh cho dân chủ có thể không được nhìn thấy ngày
chế độ dân chủ toàn thắng, không thể cùng với nhân dân đứng trên đỉnh vinh
quang.
Cuộc đấu tranh đầy cam go đó đòi
hỏi tất cả mọi cá nhân, mọi tổ chức phải biết tôn trọng lẫn nhau, biết đối
thoại trên tinh thần bình đẳng, dân chủ, cùng chung mục tiêu “tìm kiếm chân
lý”, tìm kiếm những giá trị tốt đẹp cho mọi người Việt không phân biệt chủng
tộc, giới tính, tôn giáo, đẳng cấp hay giai cấp. Chúng ta đấu tranh cho một xã
hội dân sự lành mạnh, một chế độ chính trị dân chủ chứ không phải đấu tranh để
đưa một “người hùng” nào đó vào chức vụ Tổng thống, hay ủng hộ một đảng chính
trị nào đó có khả năng chiếm được nhiều ghế nhất trong Quốc hội. Chúng ta đấu
tranh để mọi người dân có thể tham gia vào chính trị, làm chủ xã hội và làm chủ
quyền lực Nhà nước, chứ không phải để thay thế một chế độ toàn trị này bằng một
chế độ chuyên chế kiểu mới nào khác. Hãy nhìn tấm gương của Phan Châu Trinh:
thay vì thành lập một đảng chính trị (điều mà ông thừa sức làm), ông chủ trương
xây dựng một chế độ đa đảng có ít nhất hai đảng lớn – trong đó đảng đối lập có
thể chỉ trích, phê bình hoặc thay thế đảng cầm quyền. Thay vì tự nhận mình là
lãnh tụ hay vận động mọi người đi theo một lãnh tụ, ông kêu gọi mỗi người đứng
lên, cùng nhau chung sức giành quyền làm chủ theo phương thức “chung tay vỗ nên
kêu”.[4]
Sẽ có người hoài nghi: trong hoàn
cảnh đất nước đang phải đối phó với tên khổng lồ phương Bắc, đang cần đến một
quyền lực mạnh mang tính tập trung, làm sao có thể thực hiện “đoàn kết trong đa
dạng”?
Xin hãy nhìn vào tấm gương của
các quốc gia Bắc Âu. Đó chỉ là những quốc gia nhỏ bé (dân số mỗi nước chưa đến
10 triệu người), đã từng phải đương đầu với những cường quốc hung hãn (như nước
Đức thời Quốc-xã hay nước Nga thời Xô-viết), vậy mà họ vẫn tựa vào chế độ dân
chủ để đứng vững vàng trước đầu sóng ngọn gió. Hãy nhìn tấm gương của Phần Lan,
một đất nước sau cuộc nội chiến Trắng-Đỏ đẫm máu và nước mắt vẫn mạnh dạn chấp
nhận thể chế dân chủ đa đảng để đoàn kết toàn dân, bảo vệ độc lập dân tộc.
Thành công của họ và thất bại của ta chẳng phải là một phép so sánh để đánh giá
tính ưu việt của mỗi chế độ chính trị hay sao?
Một nước Phần Lan nhỏ bé sống bên
cạnh một nước Nga khổng lồ hung hãn vẫn giữ vững được độc lập nhờ vào chế độ
dân chủ, trong khi một nước Việt Nam tự hào đã “đánh thắng được hai đế quốc to
là Pháp và Mỹ” nhưng lại run sợ trước ông bạn “mười sáu chữ vàng” đến mức không
dám kỷ niệm những chiến sĩ đã bỏ mình vì nước, không dám kiện ra Tòa án Quốc tế
việc “nước bạn” đã cướp các đảo của ta, không dám vứt bỏ “tình hữu nghị” trong
khi kẻ có dã tâm vẫn tiếp tục dòm ngó toàn bộ Biển Đông. Phải chăng sự đối
chiếu đó là bằng chứng hùng hồn nhất chứng minh “sức mạnh” của một chế độ chính
trị: giữa chế độ dân chủ đa
đảng và chế độ độc tài đảng trị, chế
độ chính trị nào giúp cho dân tộc ta mạnh hơn, giúp đất nước ta phát triển vững
bền hơn?
Đà Lạt, ngày 8-3-2013
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Kemal Gözler, Pouvoir
constituant, Editions Ekin Kitabevi, Bursa [Turquie] 1999:
- GS Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học,
in lần thứ hai, Sài Gòn 1969.
Có thể tham khảo thêm các bài
viết của cùng tác giả:
- Mai Thái Lĩnh, “Tìm hiểu quan
niệm chính trị của Phan Châu Trinh”, loạt bài đăng trên trang mạng talawas trong tháng 2 và tháng 3 năm 2007,
nhân ngày giỗ của Phan Châu Trinh (24.3.1926-24.3.2007),
- Mai Thái Lĩnh, “Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh”, talawas2.11.2010:
- Mai Thái Lĩnh, “Những khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946”, Pro&Contra 13-7-2012:
© 2013 Mai Thái Lĩnh &
pro&contra
[1] Wikipedia (english), “Burmese
constitutional referendum”, 2008
[2] Mai Thái Lĩnh, “Cương lĩnh
chính trị của Phan Châu Trinh”, talawas2.11.2010:
[3] Chỉ tính từ đầu năm 1947 đến giữa năm
1958, và không kể đến các chính phủ tồn tại quá ngắn (dưới 1 tháng).
[4] Nguyên văn của Phan Châu Trinh:
“ Đông tay vỗ nên bộp” (Santé
thi tập, 1915), “Nhiều tay làm nên bộp” (Đạo đức
và luân lý Đông Tây, bài nói chuyện, 1925).
Tại sao trước khi lên máy bay trực thăng rời khỏi sài gon năm 1975, đại sứ mỹ nhắn gởi: "20 năm sau chúng tôi sẽ trở lại".
Trả lờiXóaVà thật sự họ đã trở lại vào năm 1995.
Nếu chúng ta nhìn vào người mỹ giúp đỡ các nước khác một cách vô tư thì chưa hiểu người mỹ.
Chúng ta hãy nhìn vào cách làm giàu của người mỹ.
Phải chăng người mỹ làm giàu cho các đối tác của mình, chính là làm giàu cho mình.
Một triết lý kinh tế cơ bản. Chúng ta suy ngẫm xem! và có thể học tập được không?