GỐC GÁC XUNG ĐỘT QUÂN SỰ THÁI LAN- CAMPUCHIA.
(Phần 2)
CÁC QUAN HỆ PHỨC TẠP TỪ LỊCH SỬ.
-TẠI SAO HUN SEN NGẢ VÀO LÒNG BẮC KINH?
Trước khi trả lời câu hỏi này, xin quay về lịch sử quan hệ tay ba Việt Nam, Campuchia, Thái Lan.
Đế quốc Khmer sụp đổ, Campuchia (Chân Lạp) trở thành một chư hầu của Thái Lan.
Các Chúa Nguyễn đàng trong của Việt Nam nhân cơ hội này tiến hành mở mang bờ cõi.
Khi đó, vùng đất Nam Bộ nay thuộc quyền cai quản của Thủy Chân Lạp (Tên gọi của Campuchia bây giờ) còn là vùng đất sình lầy, nước mặn, chẳng trồng trọt gì được, thỉnh thoảng mới có một một vùng đất cao để làm vườn làm nhà, đường giao thông lại không có, dân cư thưa thớt.
Các quan lại Thủy Chân Lạp (di huệ của Chân Lạp) cũng quản lý rất lỏng lẻo, đất đai bỏ hoang, trộm cắp hoành hành, thú dữ rập rình. Trong bối cảnh đó, đồng thời với việc Chúa Nguyễn tổ chức khai thác miền đất đã chiếm được của Chiêm Thành, nhiều dân Việt ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai, phải tốn công đắp đê ngăn nước mặn, đào mương, đúc cống, chật vật và họ cũng tổ chức buôn bán ở Sài Gòn. Trong quá trình đó họ không gặp phản kháng gì đặc biệt của Chân Lạp.
Với nhiều thủ đoạn từ đưa người đến khai khẩn đất đai, giao lưu buôn bán, đến việc “Đổi giai nhân lấy hòa bình” cùng với tấn công quân sự từ năm 1623 đến năm 1757 chúa Nguyễn đã mở rộng bờ cõi từ đất của Chân Lạp thành các tỉnh Nam Bộ ngày nay.
Việc người Việt tiến vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long và gây ảnh hưởng lên Chân Lạp làm cho người Khmer rất bất mãn và Xiêm La (Thái Lan) không thể ngồi yên nhìn đất đai của Chân Lạp một chư hầu của mình bị chèn ép đã xảy ra cuộc các cuộc chiến tranh giữa Thái Lan và Việt Nam trong suốt giai đoạn từ 1705 đến 1845.
Cuộc chiến giữa Thái Lan và Việt Nam bất phân thắng bại và chỉ đến giai đoạn cuối sau chiến dịch phản công của Việt Nam vào quân Xiêm trên đất Cao Miên vào năm 1845 với chiến thắng vang dội thuộc về Nhà Nguyễn của Việt Nam mới kết thúc.
Theo Việt Nam sử lược, lấy cớ người Chân Lạp không phục người Xiêm, lại nổi lên và cử người sang cầu cứu quân đội Việt. Vua Thiệu Trị bèn sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc Chân Lạp.
Tháng 6 năm Ất Tỵ (1845), Võ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Thiết Thằng (Dây Sắt), lấy lại thành Nam Vang (Phnôm Pênh), người Chân Lạp và Xiêm về hàng kể hơn 23.000 người. Tiếp theo, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh truy đuổi liên quân Xiêm La - Chân Lạp, vây vua Nặc Ông Đôn (Vua của Chân Lạp) và tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin) ở Ô Đông (Oudon).
Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống, nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam. Tháng 2 âm lịch năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương (ý trao cho làm chủ toàn cõi Cao Miên gồm cả Nam Vang lẫn Oudong) và phong cho Ang Mey làm Cao Miên quận chúa (ý trao cho làm chủ vùng Trấn Tây (Nam Vang) nhà Nguyễn kiểm soát). Thiệu Trị lệnh cho quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây (vùng Nam Vang đến biên giới với Nam Kỳ của Đại Nam) rút về An Giang.
Quân đội Xiêm La do Chất Tri chỉ huy cũng rút về Battambang (vùng đất Thái Lan chiếm đóng của Campuchia trong suốt thế kỷ 19), Campuchia được độc lập trong vùng lãnh thổ nguyên là đất Trấn Tây giai đoạn (1836-1840), bao gồm cả Nam Vang và Oudong.
Biên giới Nam Kỳ Lục tỉnh-Cao Miên, tuy chưa theo phong cách phương Tây hoạch định bằng văn bản hiệp định, nhưng về cơ bản trở về với đường ranh giới vào khoảng đầu năm 1841, khi Trương Minh Giảng rút quân Trấn Tây về An Giang, và trước khi quân Xiêm-Lạp xâm phạm Hà Tiên, An Giang đầu cuộc chiến.
Biên giới này tồn tại cho đến sau khi Pháp xâm chiếm và ổn định xong Nam Kỳ, chiếm đóng và bảo hộ Cao Miên, thì được thay thế bởi ranh giới hành chính (nội bộ trong Liên bang Đông Dương).
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét