Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Mẹo Dân Gian lưu truyền

 Mẹo Dân Gian lưu truyền 

Lưu lại khi cần 👇👇👇

1. Cách cai rượu:

Lấy 2 lạng hạnh nhân sống cùng một ít bột ngọt pha thành nước, sau đó ngâm hai ngày rồi nhỏ hai giọt vào rượu, cùng uống một ít, có thể cai rượu.

2. Cách cai thuốc lá:

Lấy một quả tân lang ( quả cau) ( k cần trầu không) 

khoan một lỗ nhỏ, đổ một ít dầu thay thuốc lá vào lỗ đó, ngâm nước hai ngày rồi lấy ra để khô, khi muốn hút thuốc, chỉ cần ngửi một cái là không còn muốn hút nữa, ai ngửi cũng có thể cai thuốc lá.

3. Cách giải rượu:

Dấm, đường trắng, nước trà mỗi loại 100g, sau khi uống say, lập tức uống vào, có thể nhanh chóng tỉnh rượu, uống càng nhiều tỉnh càng nhanh.

4. Làm trắng răng:

Khi đánh răng, thêm một chút baking soda lên kem đánh răng, đánh ba lần răng sẽ trắng như ngọc, mảng bám tự nhiên rơi ra.

5. Cách khử hôi miệng:

Mỗi ngày nhai vài lá trà trong miệng ba lần, có thể giữ hơi thở thơm mát, ba ngày sau khử được hôi miệng.

6. Khản giọng phải làm sao:

Lấy 50g giấm tinh, 50g đường trắng, hòa với 250g nước nguội, khuấy đều rồi uống chậm rãi, một ngày là khỏi, bệnh nặng thì tối uống thêm hai lần.

7. Táo bón:

Lấy một đoạn hành to bằng ngón út, chấm ít dầu mè, rồi đưa vào hậu môn, kéo lên kéo xuống; nếu bị táo bón lâu năm thì dùng giấm tinh.

8. Bệnh vẩy nến:

Lấy nửa cân giấm gạo ngâm 1 lạng hạt thông đã bóc vỏ, ngâm hai ngày, mỗi ngày bôi ba lần, hiệu quả càng tốt hơn. Hoặc dùng một thìa bột vỏ quýt hòa với nửa thìa dầu mè rồi bôi.

9. Đau răng tuyệt chiêu:

Lấy nhân đào đốt nóng rồi cắn vào răng đau, làm vài lần sẽ không đau răng nữa.

10. Chảy máu cam:

Khi chảy máu cam nhiều, để bệnh nhân nằm ngửa, tay đối diện với bên mũi chảy máu giơ cao, huyệt vị sẽ tự động khép lại, máu lập tức ngừng.

11. Mắc xương cá:

Dùng giấm cũ súc họng, sau đó nuốt chậm, làm vài lần là khỏi.

12. Hôi chân, nấm chân:

Lấy một cân giấm gạo, đổ vào chậu, ngâm hoặc rửa chân, mỗi ngày hai lần, mỗi lần khoảng một giờ, có thể tiêu viêm sát khuẩn, chữa nấm chân, đơn giản và nhanh, nhẹ thì bốn ngày khỏi hẳn.

13. Điếc, ù tai sau bệnh:

Lấy nước tiểu mèo có mùi tỏi, nhỏ vào tai ba lần, mỗi lần hai giọt có thể chữa khỏi điếc sau bệnh. Ù tai có thể dùng da rắn nung thành tro, thổi vào tai, thổi ba lần là khỏi.

14. Kiểm soát tiểu đường phương pháp mới:

Lấy một cân hạt ngô tươi, thêm nước thích hợp, đun đến khi ngô nở bung, chia làm bốn lần, mỗi ngày uống một bát, phương thuốc này không chữa khỏi hẳn, chỉ kiểm soát bệnh, có thể hạ đường huyết. Người bị phù, tiểu nhiều dùng hiệu quả rất tốt.

15. Ngủ ngáy, nghiến răng:

Trước khi ngủ ngậm một miếng vỏ quýt trong miệng, ngậm 15 phút rồi nhổ ra, làm 3–5 lần sẽ khỏi ngáy và nghiến răng.

16. Hôi chân, ra mồ hôi chân:

Tán phèn chua thành bột mịn, xoa lòng bàn chân 10 phút, làm 3–4 lần, sau đó chân không còn ra mồ hôi, không hôi. Hiệu quả duy trì 7–8 tháng.

17. Động kinh (Dương cước phong):

Lấy một con giun đất, nửa lạng phèn chua, cho vào bát to, dùng nước sôi pha loãng, uống một bát mỗi sáng lúc đói, uống liên tục 10 ngày.

18. Viêm miệng:

Mỗi ngày sáng tối ăn một quả lê, nuốt chậm, giữ 3–4 ngày sẽ cải thiện ngay. Trường hợp nặng cũng có thể dùng cách này.

19. Bệnh mạch vành:

Lấy 50g đậu tương, luộc chín, thêm ít muối ăn nhiều, ăn liên tục 3–4 ngày, phương này giúp kiểm soát bệnh mạch vành không tiến triển, rất hiệu quả, khi phát bệnh cũng dùng phương này.

20. Chữa đau nửa đầu:

Dùng vỏ củ cải trắng dán lên hai bên huyệt Thái Dương mỗi tối 20 phút, hiệu quả nhanh, hết đau đầu thì không cần dán nữa, phương này chủ trị chóng mặt, đầu căng tức.

21. Chữa bệnh trĩ (phương thuốc dân gian):

Lấy 3 lạng urê, cho vào chậu, dùng nước sôi hòa tan, nhúng khăn vào cho ướt rồi vắt khô, đặt lên ghế ngồi xông. Mỗi lần 10 phút, mỗi ngày 3 lần, xông liên tục 7 ngày. Có thể chữa trĩ nội, trĩ ngoại, chảy máu, sa hậu môn.

22. Gọi sữa nhanh:

Vừng rang chín, thêm ít muối, tốt nhất nên ăn trước khi sinh 10 ngày, ăn kèm bữa cơm như món phụ, có thể nhanh chóng tăng sữa, ăn càng nhiều sữa về càng nhanh.

23. Chữa mất ngủ (mẹo nhỏ):

Cắt nhỏ phần trắng của hành, để vào đĩa nhỏ, đặt cạnh gối trước khi ngủ, sẽ ngủ yên giấc, liên tục vài ngày có thể khỏi hẳn. Người mất ngủ lâu năm, chỉ cần áp dụng 5 ngày là khỏi.

24. Bệnh tim:

Mỗi sáng và tối ăn 50g dứa, ăn 5–7 ngày hiệu quả tốt nhất, khoảng 2 năm không tái phát, nếu phát bệnh lại, tiếp tục ăn lần nữa. Người bệnh nặng mỗi ngày ăn 2 lần, có thể ổn định bệnh tình.

25. Suy giảm thị lực phải làm sao:

Lấy vỏ hạnh khô, xé nhỏ, làm gối nhỏ, có thể giúp sáng mắt, dưỡng thần. Có hiệu quả nhất định với giảm thị lực, chảy nước mắt khi gặp gió, cận thị, viễn thị.

26. Nứt da tay chân:

Dùng cao dán phong thấp dán lên chỗ bị nứt, sau một ngày bóc ra sẽ lành, trăm lần như một.

27. Viêm da (mẹo nhỏ):

Lá mướp rừng vò nát, chà lên vùng bị bệnh đến khi đỏ, mỗi 7 ngày chà một lần, làm 3 lần là khỏi; bệnh nặng làm 6 lần sẽ khỏi hẳn.

28. Viêm mũi:

Dùng bông gòn thấm một giọt dầu mè, đặt vào mũi 15 phút rồi lấy ra, liên tục 2–3 ngày, mỗi ngày 3 lần; bệnh nặng tăng thêm 2 lần. Cũng có thể ngâm tỏi với giấm rồi nhét vào mũi.

29. Cao huyết áp:

Lấy 2 lạng rong biển tươi, nấu thành một bát canh rong biển, không cho rau khác vào, sáng sớm uống khi đói, uống liên tục 10 ngày sẽ phục hồi huyết áp bình thường.

30. Thận hư:

Đậu khấu tươi 100g, thêm nước nấu nhừ, cho ít muối, uống trước mỗi bữa cơm, liên tục 3–5 ngày sẽ phục hồi sức khỏe. Nếu thường xuyên ăn, có tác dụng tăng cường thể lực.

31. Cách tẩy nám, đốm trên mặt:

Hạnh ngâm nước cho mềm, bóc vỏ, giã nhuyễn thành bột, thêm một lòng trắng trứng gà khuấy đều, mỗi tối bôi trước khi ngủ, sáng hôm sau rửa bằng rượu trắng, làm đến khi vết nám mờ.

32. Chữa bệnh dạ dày (dân gian):

Lấy 20 vỏ trứng gà đỏ, đặt lên ngói, hơ khô, tán bột mịn, uống với nước đường, trước bữa ăn uống một thìa nhỏ, ngày 2 lần, uống hết là được. Phương thuốc này rất quý, đồng thời có tác dụng bổ sung canxi và chữa bệnh còi xương.

33. Chấn thương bầm tím:

Hẹ giã nát, thêm một ít nước tiểu trẻ nhỏ, đắp lên chỗ bị thương, vài giờ là hết sưng, 3 ngày sau phục hồi bình thường.

34. Giảm béo nhanh:

Mua 2 lạng trà Ô Long ở cửa hàng quốc doanh, uống trong một tuần, trà Ô Long có thể nhanh chóng hòa tan mỡ, thúc đẩy chuyển hóa mỡ, đạt hiệu quả giảm cân, đồng thời phòng ngừa béo phì (trà phải đặc).

35. Bí quyết trường thọ:

Thường xuyên vận động, không nóng giận, không lo lắng, hằng năm nên ăn nhiều tỏi ngâm đường, tỏi ngâm đường là phương thuốc tốt nhất kéo dài tuổi thọ, có thể tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn có hại trong cơ thể.

36. Kinh nguyệt không đều:

Lấy 2 lạng lá Tô Tử (lá tía tô), ngâm nước nóng rồi uống, người nhẹ chỉ cần uống 4 chén là được, người nặng uống nhiều ngày, có tác dụng điều kinh, an thần, đặc biệt hiệu quả với đau bụng kinh, lạnh bụng, kinh nguyệt không đều.

37. Tóc bạc sớm:

Lấy 500g vỏ sò điệp (canh bối) sắc nước gội đầu, mỗi ngày một lần, liên tục 6–8 lần, tóc mọc lại đen và dày, nếu tóc bạc nhiều thì gội thêm vài lần.

38. Da thô ráp trở nên mịn:

Mỗi tối dùng một lòng trắng trứng gà xoa mặt, sau một giờ rửa sạch bằng nước, nếu làm thường xuyên, da sẽ ngày càng mịn.

39. Viêm quanh khớp vai, đau lưng chân, đau thần kinh tọa, thoát vị đĩa đệm:

Lấy 7 con thổ nguyên (bọ xít đất) nung thành tro, 7 lạng rượu vàng, cho chung vào chai, ngâm 7 ngày 7 đêm, mỗi tối lúc 7 giờ uống 7 tiền rượu vàng, đồng thời dùng nắm tay vỗ mạnh lên chỗ đau 7×7=49 lần hoặc 9 lần, bệnh nặng uống nhiều liệu trình sẽ khỏi.

40. Lao phổi (phương thuốc dân gian):

500g kén tằm sống, hơ khô, tán thành bột mịn, mỗi lần uống 3–5g, ngày 2 lần, uống hết là được, hiệu quả rất tốt, phương thuốc này do Viện Nghiên cứu Trung Y Trung Quốc cung cấp.

41. Chữa đau khớp (viêm khớp):

Lấy rơm lúa đốt thành tro, cho vào túi nhỏ, chỗ nào đau thì dán vào đó, mỗi tối dán 1 giờ, dán 3 lần sẽ khỏi. Phương này vừa đơn giản, vừa hiệu quả, có cải thiện rõ rệt với đau lưng, đau chân.

42. Hôi nách:

Dùng 100g giấm gạo, 5g bột hồi hương, trộn đều, bôi nhiều lần dưới nách, hôi nách sẽ biến mất ngay.

43. Ngứa phải làm sao:

Lấy một lát gừng tươi, chà vào lòng bàn chân, nam chà bên trái, nữ chà bên phải, mỗi lần chà 10 phút.

44. Tăng sinh xương (gai xương):

Lấy 4 ống xương ống cừu, đốt bằng củi to đến khi cháy vàng, sau đó nghiền thành bột, mỗi tối sau bữa cơm uống với 1–2 lạng rượu vàng, dùng liên tục vài lần.

45. Nuốt phải vật kim loại:

Lấy hẹ xào chín, nuốt từng miếng to, vật sẽ theo phân ra ngoài. Với mảnh kính vỡ, sau khi nuốt phải cũng có thể dùng phương này.

46. Tay chân tê dại:

Nấm mèo đen đã ngâm, nhân đào, mật ong mỗi thứ 120g, giã nhuyễn, để vào bát hấp nóng, chia ăn hết trong 4 ngày, sẽ khỏi tê dại vĩnh viễn. Phụ nữ mang thai cấm dùng.

47. Rụng tóc, gàu:

Lấy rễ cải thảo, rửa sạch, thái lát, cho vào nồi gang thêm đủ nước, đun sôi rồi thêm giấm tinh, dùng để gội đầu, liên tục 7–8 ngày, tóc sẽ mềm mượt, bóng đẹp, gàu biến mất nhanh, không rụng tóc.

48. Chữa nấm móng (móng tay/móng chân bị mốc):

Tỏi vỏ tím giã nhuyễn, thêm ít phèn chua trắng, bôi lên móng bị bệnh, không bôi quá dày, dùng nilon bọc kín móng, nilon có tác dụng che sáng tốt, chỉ cần 7–8 ngày, cảm giác căng tức là khỏi.

49. Tẩy giun đũa:

Hạt bí đỏ (bóc vỏ giữ nhân) 50–100 hạt, nghiền nát, thêm nước và đường vừa đủ, khuấy thành hồ, uống lúc đói một lần sẽ khỏi. Phương này có thể tẩy nhiều loại ký sinh trùng ở trẻ em.

50. Viêm tuyến vú:

Lấy một miếng nhỏ cây xương rồng, giã nát, thêm 3 giọt dầu mè, đắp lên chỗ bị bệnh.

51. Chữa mắt cá chân (chai chân):

Lấy một miếng băng dính, cắt lỗ nhỏ giữa, dán lên mắt cá, lỗ trùng với mắt cá, rồi rắc ít bột urê (phân hóa học) lên mắt cá, dán thêm miếng băng dính khác đè lên, 3 ngày thay một lần, thay 6 lần, mắt cá tự tiêu biến.

52. Viêm tiền liệt tuyến:

Táo khô 3 lạng, gan gà trống 3 cái, hầm nhừ, ăn cả nước lẫn cái, uống liên tục 3 lần.

53. Thấp khớp dạng thấp:

Lấy cành dâu non, bao nhiêu cũng được, thái nhỏ, trộn ít rượu, xào vàng, thêm nước sắc uống, sáng tối mỗi lần 1 chén, uống liên tục có hiệu quả.

sưu tầm : YHCT

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

Trần Nguyên Duy Thịnh: TP.HCM Thừa Nhận Công Lao Lê Văn Duyệt: Đặt Tên Đường Nhưng Gặp Chỉ Trích 'Lật Sử' – Mục Đích Đằng Sau Các Cáo Buộc Là Gì?

TP.HCM Thừa Nhận Công Lao Lê Văn Duyệt: Đặt Tên Đường Nhưng Gặp Chỉ Trích 'Lật Sử' – Mục Đích Đằng Sau Các Cáo Buộc Là Gì?

Hơn 5 năm kể từ khi TP.HCM chính thức đổi tên một đoạn đường Đinh Tiên Hoàng (từ cầu Bông đến đường Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh) thành đường Lê Văn Duyệt vào ngày 16/9/2020, quyết định này vẫn là chủ đề tranh luận sôi nổi trên mạng xã hội và các diễn đàn lịch sử. Việc thừa nhận công lao của Tả quân Lê Văn Duyệt – vị tướng có đóng góp lớn trong việc khai phá và phát triển vùng đất Nam Bộ – được xem là bước đi tích cực để tôn vinh di sản lịch sử. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ vẫn chỉ trích, cáo buộc đây là hành vi "lật sử" khi liên quan đến vua Gia Long (Nguyễn Ánh) và Lê Văn Duyệt. Vậy, các cáo buộc này nhằm mục đích gì, và những người đưa ra chúng sẽ được lợi ích gì?

Vào ngày 16/9/2020, trùng với dịp giỗ lần thứ 188 của Đức Thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt, lãnh đạo TP.HCM đã tổ chức lễ công bố đổi tên đường Đinh Tiên Hoàng (đoạn từ cầu Bông đến đường Phan Đăng Lưu, dài 947m) thành đường Lê Văn Duyệt. Quyết định này dựa trên đề xuất của UBND quận Bình Thạnh, sau khi lấy ý kiến từ nhân dân, chuyên gia, Hội Di sản, Hội Khoa học lịch sử TP.HCM, và được HĐND TP.HCM thông qua tại kỳ họp thứ 20 khóa IX ngày 11/7/2020.

Lê Văn Duyệt (1764-1832), sinh ra trong gia đình nông dân tại Tiền Giang, là vị tướng tài ba dưới thời vua Gia Long. Ông giữ chức Tổng trấn Gia Định hai lần (1812-1815 và 1820-1832), có công lớn trong việc khai hoang, lập ấp, xây dựng hệ thống kênh rạch (như kênh Vĩnh Tế), và ổn định an ninh vùng đất phương Nam, biến một vùng rừng rậm, đầm lầy thành khu vực trù phú. Dân chúng Nam Bộ kính trọng ông đến mức sau khi ông mất, họ xây lăng thờ phượng (Lăng Ông Bà Chiểu, nay là di tích quốc gia từ năm 1989). Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh Hoàng Song Hà nhấn mạnh tại lễ công bố: “Việc đặt tên đường Lê Văn Duyệt là sự đánh giá đúng công lao, tài năng của Đức Tả quân với vùng đất Sài Gòn - Gia Định cũng như trong việc mở mang bờ cõi đất nước.”

Quyết định này không chỉ tôn vinh Lê Văn Duyệt mà còn liên quan đến vua Gia Long – người mà Lê Văn Duyệt trung thành phục vụ. Gia Long (Nguyễn Ánh) là vị vua thống nhất đất nước năm 1802, mở rộng lãnh thổ Nam Kỳ, nhưng thường bị chỉ trích vì cầu viện Xiêm La (1784) và Pháp (Hiệp ước Versailles 1787, dù không thực thi đầy đủ). Việc đặt tên đường Lê Văn Duyệt được xem là bước đi của chính quyền nhằm nhìn nhận lịch sử đa chiều, tránh tư duy chính trị hóa, và thúc đẩy hòa hợp dân tộc.

Mặc dù quyết định đặt tên đường nhận được sự đồng thuận từ nhân dân quận Bình Thạnh, các tổ chức chính trị - xã hội, và chuyên gia, một bộ phận vẫn chỉ trích gay gắt. Trên các diễn đàn mạng xã hội như Facebook, TikTok, và các nhóm lịch sử, nhiều bình luận cáo buộc việc tôn vinh Lê Văn Duyệt và Gia Long là “lật sử”, vì:

- Lê Văn Duyệt bị vua Minh Mạng (con trai Gia Long) truy xét sau khi mất (1832), với cáo buộc “li khai” và phản đối chính sách tập quyền. Cuộc nổi dậy của con nuôi ông, Lê Văn Khôi (1833-1834), bị quy kết là phản loạn, dẫn đến việc triều Nguyễn quật mộ và giã xương Lê Văn Duyệt.

- Gia Long bị chỉ trích vì cầu viện ngoại bang (Xiêm La, Pháp), được xem là “cõng rắn cắn gà nhà”, mở đường cho thực dân Pháp sau này.

Các chỉ trích này thường mang tính cảm tính, như “lật sử để tôn vinh kẻ phản bội” hoặc “bôi nhọ anh hùng dân tộc Quang Trung (Nguyễn Huệ, Tây Sơn) để nâng Gia Long”. Một số bình luận thậm chí dùng ngôn từ thô tục, miệt thị vùng miền, như “bọn miền Nam phản động” hoặc “lật sử để chia rẽ dân tộc”. Những cáo buộc này không chỉ nhắm vào Lê Văn Duyệt mà còn mở rộng sang Gia Long, coi việc thừa nhận công lao của họ là cố tình “bóp méo lịch sử”.

Việc liên tục cáo buộc “lật sử” nhằm vào Gia Long và Lê Văn Duyệt không chỉ là tranh luận lịch sử mà có thể mang nhiều mục đích ẩn sau, dựa trên phân tích các diễn đàn và chuyên gia lịch sử:

- Duy trì tư duy lịch sử một chiều: Một bộ phận coi Quang Trung và Tây Sơn là biểu tượng “nông dân khởi nghĩa chống ngoại xâm”, nên việc tôn vinh Gia Long (người đánh bại Tây Sơn) và Lê Văn Duyệt (tướng của Gia Long) được xem là thách thức quan điểm chính thống. Mục đích là bảo vệ “chính nghĩa” của phe Tây Sơn, tránh nhìn nhận đa chiều về nội chiến Tây Sơn – Nguyễn (1771-1802), nơi cả hai bên đều có công và sai lầm. Theo GS. Phan Huy Lê (trong Lịch sử Việt Nam, 2011), lịch sử cần đa chiều để tránh thiên vị, nhưng cáo buộc “lật sử” nhằm giữ nguyên quan điểm cũ, ngăn chặn sự điều chỉnh trong SGK và nhận thức xã hội.

- Chính trị hóa lịch sử và gây chia rẽ vùng miền: Các cáo buộc này có thể nhằm duy trì định kiến vùng miền, như coi miền Nam (nơi Lê Văn Duyệt và Gia Long có ảnh hưởng lớn) là “phản động” hoặc “cõng rắn”. Tư duy này “vô tình tạo ra sự mặc cảm và định kiến trong tâm trí thế hệ sau”. Mục đích là củng cố sự phân cực Bắc – Nam, đặc biệt trên mạng xã hội, nơi thuật toán đẩy nội dung kích động để tăng tương tác.

- Lợi ích cá nhân hoặc nhóm: Trên các diễn đàn, những người chỉ trích thường là “chiến binh bàn phím” tìm kiếm sự chú ý. Theo BBC Tiếng Việt (2023), tranh cãi lịch sử thường bị lợi dụng để tăng lượt xem, like, hoặc bán sách, khóa học lịch sử. Một số nhóm cực đoan sử dụng cáo buộc “lật sử” để duy trì ảnh hưởng, tạo cộng đồng ủng hộ quan điểm của họ, hoặc phản đối chính sách Nhà nước (như đặt tên đường cân bằng lịch sử).

- Ảnh hưởng từ sử học chính thống cũ: Một số chỉ trích xuất phát từ sử học trước 1990, coi nhà Nguyễn là “phản động” vì hợp tác với Pháp. Tuy nhiên, hội thảo sử học 2022 đã điều chỉnh, công nhận cân bằng hơn về triều Nguyễn. Mục đích cáo buộc “lật sử” có thể là kháng cự lại sự thay đổi này, giữ nguyên quan điểm cũ.

Những người liên tục cáo buộc “lật sử” có thể được lợi ích ngắn hạn nhưng gây hại lâu dài cho dân tộc:

- Lợi ích cá nhân: Tăng tương tác trên mạng xã hội (like, share, follower), dẫn đến lợi nhuận từ quảng cáo hoặc bán sách. Ví dụ, các bài viết chỉ trích Gia Long thường nhận hàng nghìn bình luận, giúp người đăng trở thành “opinion leader”.

- Thỏa mãn cảm xúc và ý thức hệ: Họ được cảm giác “chính nghĩa”, bảo vệ “anh hùng dân tộc” như Quang Trung, và thỏa mãn sự thù hằn với “phe kia” (nhà Nguyễn). Điều này đặc biệt phổ biến trong các nhóm cực đoan, giúp họ duy trì cộng đồng.

- Lợi ích chính trị hoặc nhóm: Một số nhóm sử dụng cáo buộc này để duy trì tư duy phân cực, chống lại chính sách cân bằng lịch sử của Nhà nước, hoặc gây chia rẽ vùng miền (miền Bắc vs. miền Nam), nhằm mục đích chính trị hóa lịch sử.

Tuy nhiên, họ sẽ “mất” nhiều hơn: Các cáo buộc này củng cố định kiến vùng miền, làm sâu sắc chia rẽ dân tộc, và cản trở thế hệ trẻ học lịch sử đa chiều. Điều này có thể dẫn đến thù hằn kéo dài, làm hại “không gian tinh thần dân tộc”.

Việc TP.HCM đặt tên đường Lê Văn Duyệt năm 2020 là bước đi tích cực, tôn vinh công lao của ông và vua Gia Long trong việc mở mang bờ cõi Nam Bộ. Các cáo buộc “lật sử” có thể nhằm duy trì tư duy một chiều, chính trị hóa lịch sử, gây chia rẽ, hoặc lợi ích cá nhân, nhưng chúng mang lại lợi ích ngắn hạn và gây hại lâu dài cho đoàn kết dân tộc. Để vượt qua, cần giáo dục lịch sử đa chiều, để thế hệ trẻ hiểu rằng tất cả đều là “dòng máu Lạc Hồng”, không phân biệt vùng miền hay phe phái.

- Trần Nguyên Duy Thịnh -

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

Nguyễn Minh Chí: THANH BANG VÀ CUỘC CHIẾN GIÀNH CHỢ LỚN…

THANH BANG VÀ CUỘC CHIẾN GIÀNH CHỢ LỚN…

Trung Hoa từ thời nhà Hán đến tận giờ, lịch sử phát triển gắn liền với Bang Hội. Hơn 30 triệu Hoa Kiều đang sinh sống khắp nơi trên thế giới cũng làm công việc xuất khẩu bang hội, theo cách nói nôm na: “Nơi nào có khói, nơi đó có người…Tàu!”. Bang Hội, đặc biệt là các tổ chức tương tế, đồng hương rất hay và có lợi cho việc kiểm soát người Hoa mà nước sở tại khó bề thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tồn tại và phát triển song song một hệ thống bang hội đen, hoạt động ngầm và không từ bất kỳ thủ đoạn phi pháp nào, miễn là có tiền. Mạnh nhất tuy ít nguy hiểm, đó chính là Thanh Bang.

Có mặt từ việc bảo tiêu cho mạng lưới giao thông đường thủy trên Đại Vận Hà cách đây nhiều thế kỷ, tổ chức này dần dà kiểm soát toàn bộ hoạt động mại dâm, cờ bạc, tống tiền…toàn cõi Trung Hoa. Khi cuộc chiến giữa Tưởng-Mao đến hồi quyết liệt, Đỗ nguyệt Sênh (Thăng), một trùm thủ lĩnh Thanh Bang đã giúp Quốc dân đảng tàn sát công nhân, đảng viên ĐCS Trung Quốc, chiếm Thượng Hải. Tưởng thất trận bỏ chạy ra Đài Loan, Thanh Bang cũng tứ tán ra khắp vùng Đông Nam Á tránh sự trả thù của chính quyền mới.

Ở Việt Nam, một cao thủ quyền thuật: Triệu Thúc Khê, đã rời bỏ Giang Nam tìm đến đặt nền móng cho hoạt động của Thanh Bang tại Chợ Lớn, cũng với danh nghĩa của một hội quán võ thuật. Từ ông ta, hoạt động Thanh Bang chợt rẽ sang một bước ngoặc. Thay vì cố gắng mở rộng hoạt động phi pháp bằng những cuộc xung đột giang hồ, vị thủ lĩnh này đã cho phép Thanh Bang làm thuê cho hàng loạt bang hội khác, tất nhiên mang danh nghĩa của chinh bang hội đó. Ví dụ bang Tam Hợp (Tam Hoàng) đứng đầu là Trần Th. (Trần Thành) cần lấn chiếm công việc mua bán nông sản, Thanh Bang sẽ cử một thành viên đưa tới vài chục “hảo hán” khác để Trần Th. sai phái, Đó là lý do, nhiều hệ thống bang hội hoạt động ngầm, kể cả đặc vụ Quốc dân đảng, đều có chung bấy nhiêu gương mặt nổi cộm xuất hiện.

Sự dịch chuyển trung tâm kinh tế mang đến sự thay đổi về trung tâm quyền lực các bang hội, đặc biệt là từ Thanh Bang. Khi Tưởng chạy ra Đài Loan, các bang hội chọn Hongkong làm nơi phát triển. Nhưng khi Singapore trở thành trung tâm thương mại của các nước lân cận, các bang hội xem nơi này là thủ phủ. Và cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 nổ ra với việc Mỹ ào ạt đổ quân, đã biến Chợ Lớn thành trung tâm quyền lực của các bang hội. Với nửa triệu quân Mỹ và các nước Đồng Minh, chiến phí nhiều tỷ dollars và hàng hóa viện trợ đổ vào miền Nam Việt Nam, biến Sài Gòn-Chợ Lớn thành một “mảnh đất vàng”. Gương mặt hảo hán đầu tiên của Thanh Bang đủ tên tuổi và bản lĩnh để thâu tóm giang hồ Thanh Bang vào một mối đã xuất hiện.

Su Bả Xứng (Su Bả: Cây Chổi, Xứng: Ngôi Sao)họ tên thật là gì, không giang hồ nào biết và muốn biết. Xuất thân chỉ là một nguời làm thuê dân tộc Choang ở Quảng Tây, Su Bả Xứng đến Việt Nam năm 12 tuổi. Thích đánh nhau và cư xử đâu vào đó khi còn rất nhỏ tuổi, Su Bả Xứng dần dà trở thành đại ca của hẻm 100 (Zách Bạc Hồ Hạng) khu Chợ Thiếc. Một hôm vô tình chứng kiến một ông già bán mì gõ bị chó rượt cắn, ông già thọc tay vào… tường, lôi ra viên gạch thẻ để ném con vật, Su Bả Xứng quá phục bèn xin học võ. Chỉ sau 2 năm, võ công đã tàm tạm, Su Bả Xứng từ giã thầy quay lại chốn giang hồ gió tanh mưa máu. Võ công cộng thêm sự lì lợm cố hữu, Su Bả Xứng nhanh chóng trở thành đại ca không chỉ khu vực Chợ Thiếc. Hàng loạt giang hồ có máu mặt tìm tới liên kết hoặc thách thức. Su Bả Xứng thu phục và biến chúng thành đàn em. Những Sú Hùng, Cáy Thầu, Há Thầu… đều tự nguyện trở thành cánh tay đắc lực cho Su Bả Xứng. Thanh Bang nhận ra sự lợi hại và tính tình hết mực hảo hán này của Su Bả Xứng. Một ngày nọ, vị cao thủ du nhập Thanh Bang vào Chợ Lớn gởi thư mời Su Bả Xứng đến tận hội quán (Tinh Võ Thể Tháo Học Hiệu) để trao đổi. Su Bả Xứng lập tức đến vì cho rằng đang bị thách thức dù lời lẽ trong thư hết sức nhã nhặn. Vừa bước vào hội quán, nhìn thấy người học trò trưởng tràng  tập bằng thanh long đao xắt…dưa chuột, Su Bả Xứng tắt ngay ngọn lửa kiêu ngạo. Từ sau cuộc gặp, Su Bả Xứng trở thành “thiên lôi” cho Thanh Bang. Trường Giang sóng sau đè sóng trước, việc nhất hô bá ứng của Su Bả Xứng kéo dài chưa được 6 năm. Người lật đổ Su Bả Xứng là tên học trò cưng nhất của đệ nhất sát thủ Thanh Bang Su Bả Xứng.

Tín Mã Nàm hay còn gọi là Mã Thầu Dậu tên thật là Trần Hà Tư, chỉ kém Su Bả Xứng chừng 6 tuổi. Thực ra nhiều người ngộ nhận về chữ Mã Thầu Dậu và tưởng đó là tên hoặc biệt hiệu. Mã Thầu: đầu ngựa, Dậu: bạn bè, đó là một tước hiệu được giang hồ Thượng Hải đặt cho Mã Vĩnh Trinh và sau đó là Cừu Liên Hoàn. Mỗi bến xe bến tàu đều có hình đầu ngựa nằm trong vành móng ngựa, và tước hiệu Mã Thầu Dậu như là minh chủ giới giang hồ Trung Quốc, sau thời Mã Vĩnh Trinh cũng du nhập vào miền Nam theo chân giới lục lâm hắc đạo để cuối cùng quàng luôn vào cổ Trần Hà Tư.

Khi học võ với thầy Su Bả Xứng và đươc gả con gái, gã học trò này trong độ tuổi phương cương đã quyết tâm lật đổ Su Bả Xứng.

Một cuộc quyết đấu diễn ra ngay mộ con hẻm ngắn khu thuốc bắc. Kết thúc đến thật nhanh, Su Bả Xứng bị hạ gục bởi chiêu Diêm Vương Ấn khét tiếng mà “thầy”đã hết sức cân nhắc khi truyền thụ cho “trò” kiêm “con rể”! Đoạn kết của Su Bả Xứng khá đau khổ. Ông ta không mất mạng ngay lập tức mà vài năm sau đó trong uất hận và những cơn đau ho ra máu bởi bệnh lao phổi kinh niên.

Tín Mã Nàm dựng nghiệp nhanh hơn Su Bả Xứng nhiều. Gã lao vào những cuộc huyết chiến và thu phục hàng loạt Lục Chỉ, Xám Sò, Xây Chẩy, Cắm Xuỳn…bằng bàn tay thép và cái đầu khát máu của mình. Danh xưng Tín Mã Nàm có từ lúc đó. Đại tá Woòng a Sáng và trung tá Lầu Cắm Bẩu, được người Mỹ trong MAAG (Cố Vấn Quân Viện Hoa Kỳ) tín nhiệm để tổ chức lực lượng biệt kích không số quân (dân sự chiến đấu CIDG) trong cộng đồng người thiểu số, đặc biệt là người Nùng ở khu Chợ Thiếc. Và tất nhiên, họ không thể không chú ý đến Tín Mã Nàm. Sau khi chấp nhận làm “nhân viên mộ lính” cho CIDG, Tín Mã Nàm đã có được tấm khiên đỡ đối phó với lực lược CSQG. Tín Mã Nàm đi xe Jeep, đeo khẩu ruleau xệ bên hông, ngực cài 2 quả lựu đạn mini của biệt kích, là hình ảnh bất kỳ tài chủ, doanh nghiệp nào cũng sợ “vãi linh hồn”. Ấy vậy mà cuộc đời Tín Mã Nàm cũng đã 2 lần chùn bước, ngả nón chào đối thủ.

Lần thứ nhất xảy ra khi địa bàn chợ Nancy (Nguyễn văn Cừ-Trần Hưng Đạo Quận 1, 5) với băng của Đại Cathay, trùm giang hồ Sài gòn. Hai bên tranh chấp va nhiều lần chạm trán đổ máu. Tín Mã Nàm giận sôi máu bèn mời Đại đến “hội ngộ” ở khách sạn Kim Đô. Từ chân cầu thang lên đến lầu 4, gần 200 thành viên Thanh Bang, đa số đều lấy từ các đội lân võ công kinh người mang dao kiếm dàn chào băng Đại Cathay. Trường huyết chiến chắc chắn sẽ xảy ra mà chưa biết phe nào sẽ thắng. Đúng giờ hẹn, Tín Mã Nàm bất ngờ khi nghe thuộc hạ báo Đại Cathay chỉ đến một mình! Tín Mã Nàm lập tức hạ lệnh không đươc vọng động. Mặt không hề biến sắc trước cảnh gươm đao sáng ngời mang tính thị uy, Đại chỉ cười khẩy. Tín Mã Nàm thực sự choáng trước cái gan lì khó gặp của đối thủ. Ông trùm hắc đạo bèn quyết định ngay lập tức: nhường khu vực chợ Nancy cho băng Đại Cathay! Khi Đại đã ra về, tất cả đàn em và bằng hữu chất vấn, Tín Mã Nàm chỉ trả lời ngắn gọn: “Không đùa với Đại Cathay được!”.

Lần thứ 2 Tín Mã Nàm thất thủ là với một gã giang hồ chiếu dưới cũng gốc Nùng: Hổi Phoòng Kin.

Tiệm cơm gà Siu Siu nổi tiếng là ngon, các tay hảo hán giang hồ gốc Hoa lẫn các lão bản đều tìm tới để thưởng thức đệ nhất khoái. Tín Mã Nàm một hôm ghé đến quan cùng thiếu ta Bằng, quận trưởng cảnh sát, mà giang hồ thường gọi là Cò Bằng-băng sĩ quan dưới trướng chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ.

Nghĩ mình là vua hắc đạo một cõi lại đi cùng người đại diện cao nhất của luật pháp của quận 5, Tín Mã Nàm nghênh ngang như chỗ không người. Lần lượt các bàn thực khách khách đến chào 2 ông “vua”. Ngồi bệ vệ đưa tay ra bắt từng kẻ khúm núm quỵ lụy, thậm chí có người chỉ nhận được cái gật đầu trịch thượng từ Tín Mã Nàm, bất chợt gã giang hồ số 1 Chợ Lớn nhìn thấy một thanh niên mặc quần áo Jean, bên cạnh là túi vợt tenis, ngồi ăn một mình. Người này thậm chí không thèm ngẩng lên nhìn Mã Thầu Dậu chớ nói chi tới chuyện chào hỏi. Tín Mã Nàm giận sôi lên và Cò Bằng cũng không khỏi ngạc nhiên về thanh niên điếc không sợ súng này.

Tín Mã Nàm ghé tai gã đàn em hỏi nhỏ và ngạc nhiên khi nhận được cái lắc đầu không biết từ gã đàn em gần như thổ công này. Tín Mã Nàm hạ lệnh, gã đàn em lập tức tiến qua bàn người thanh niên. Gã đàn em cầm bình hắc xì dầu trên bàn chế thẳng lên đầu thanh niên. Lạ thay, người thanh niên vẫn cắm cúi ăn như chẳng có chuyện gì quan trọng. Lùa miếng cơm cuối cùng xong, thanh niên chùi miệng và vẫn để nguyên dấu vết của chai hắc xì dầu đổ lên đầu, quay qua nói nhỏ: “Mày chưa đủ tuổi nói chuyện, chết uổng mạng…Qua nói thằng đánh thầy, giết cha…lại nói chuyện với tao!” Gã đàn em khựng người. Vậy là người này đã biết đang giỡn mặt Tín Mã Nàm, không đơn giản. Quán im phăng phắc chờ xem kết quả cuộc chiến nên giọng thanh niên nói tuy nhỏ nhưng nghe rõ mồn một. Giận tím mặt, Tín Mã Nàm đứng phắt dậy lao qua bàn thanh niên. Chẳng biết từ lúc nào trên tay người thanh niên đã xuất hiện cặp kiếm thép trắng… Tín Mã Nàm quay lưng bỏ chạy dù trong bụng luôn lận khẩu ruleau nhưng không tài nào dừng lại để móc ra nếu không muốn bị chém thành paté!

Người thanh niên quả là cao thủ về sử dụng kiếm nên Tín Mã Nàm dù hết sức né tránh và bỏ chạy vẫn dính luôn 4 nhát!

Sau khi ôm đầu máu về đến sào huyệt, Tín Mã Nàm dò hỏi và khi biết đối thủ là Hải Phoòng Kin, gã lập tức động binh rửa hận. nhưng khi tiến quân vào vùng Hải Phoòng Kin kiểm soát, lần nào cũng thua thiệt. Tín mã Nàm quyết định bỏ cuộc. Nỗi nhục mất số đeo đẳng theo Tín Mã Nàm cho đến ngày Hải Phoòng Kin qua đời vì bệnh trong trại cải tạo.

Thanh Bang sau ngày giải phóng gần như tan rã. Những tên lão tiền bối của bang hội này, lớp chết già trong nghèo khổ, kẻ bị thu gom cải tạo “mút mùa lệ thủy”, kẻ quay về cố hương gậm nhấm nỗi ăn năn một thời hắc đạo. Tín Mã Nàm, trở thành một tên cướp trộm vớ vẩn và đền tội nơi pháp trường sau khi quan thầy bỏ chạy, không còn xe Jeep và súng ống để ra oai. Một kết cục tất yếu của giang hồ thời nay, đã trở thành quy luật!

HẾT

Ngô Nhật Đăng: LẠI QUANG TRUNG

LẠI QUANG TRUNG

Vào khoảng năm 1963 đến 1964 đã có một cuộc tranh luận giữa 2 miền Nam, Bắc về lịch sử với hai nhân vật Quang Trung và Gia Long.

Một bên là Văn Tân, viện Sử học Hà Nội, một bên là Linh mục Nguyễn Phương phụ trách Phòng nghiên cứu Sử của Văn khoa Đại học Huế. Chủ đề : "Ai là người thống nhất Việt Nam : Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh?". Từ năm 1964 trở về trước (1954), giới học thuật và các ấn phẩm của hai miền vẫn được trao đổi qua trung gian là các trí thức Việt  ở Paris, trong đó có học giả Hoàng Xuân Hãn.

Cho đến thời kỳ này, lịch sử  Việt Nam hầu như chỉ nói về Quang Trung mà không nói về Tây Sơn vì có nhiều ý kiến cho rằng một số người đã xuyên tạc lịch sử nhằm biến Tây Sơn thành một thần tượng cho một cuộc khởi nghĩa nông dân. Cuộc tranh luận giữa hai miền Nam - Bắc đã tạo ra một cảm hứng cho các sử gia nghiên cứu về nhà Tây Sơn.

Riêng Quang Trung, người ta hầu như bỏ qua tất cả mọi vấn đề khác mà chỉ nhằm vào hai võ công hiển hách chống ngoại xâm là quân Xiêm phía Nam và đặc biệt là quân Thanh ở phía Bắc. Hầu như hào quang này của Quang Trung đã che khuất các chính sách đối nội và đối ngoại của ông, vì vậy nhà Tây Sơn cần phải được xem xét một cách đầy đủ.

Sau khi thành công, nhà Tây Sơn chia nước ra làm 3. Nguyễn Nhạc xưng Đế đóng ở Quy Nhơn chia cho 2 em Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương, quản từ Phú Xuân trở ra, Nguyễn Lữ là Đông Định Vương giữ vùng Gia Định đến Bình Thuận. Nhưng Lữ chỉ ở ngôi được 1 năm thì bị Nguyễn Ánh chiếm lại, Lữ chạy về Quy Nhơn rồi chết ở đây. Trước khi ra Bắc phá quân Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế xưng là Quang Trung, vậy là nước ta có 2 ông Hoàng đế. Và hai ông Hoàng Đế này sẽ đánh nhau chí tử.

 Một triều đại tiến bộ hay không tất nhiên là ở các chính sách cai trị và ngoại giao của nó. Những chính sách cai trị trong nước của Quang Trung như thế nào?

Về mặt hành chính :

Trong giai đoạn Nguyễn Huệ Bắc tiến lần đầu, lãnh thổ cai trị của ông là từ Nghệ An trở vào không thấy có ghi chép về mặt thay đổi hành chính. Từ sau khi đánh Tôn Sỹ Nghị ta thấy Hoàng Đế Quang Trung đã quản lý toàn bộ lãnh thổ Đại Việt của vua Lê Thánh Tông (thế kỷ 15). 

Từ năm 1786 Nguyễn Huệ đã mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp giúp, trong đó có việc sẽ đóng kinh đô ở Nghệ An “Đóng đô ở Nghệ An vừa có thể cai trị trong Nam ngoài Bắc, mặt khác ai kêu kiện đi về cũng tiện”. 

Trong các thư từ giao dịch với La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp, ta thấy Quang Trung bắt đầu dùng chữ Nôm trong các văn bản "Hán, Nôm lẫn lộn", có điều lại theo cú pháp Hán, ví dụ một đọan Nguyễn Huệ nói về việc xây dựng kinh đô ở làng Phú Thạch (Nghệ An) như sau:

“Hành cung sảo hậu gần núi. Kỳ chính địa bởi tại dân cư ư gian, hay đâu mới là cát địa khả đô, duy (chỉ có) Phu tử đạo nhẫn giám định. Tảo tảo bốc thành. Ủy cho trấn thủ Thận tạo lập cung điện. Kỳ tam nguyệt nội phải hoàn thành, đắc tiên giá ngự”- Trích: La Sơn Phu tử - Hoàng Xuân Hãn.

Quang Trung đổi Thăng Long thành Bắc Thành và có 7 trấn, Sơn Nam chia ra thành Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ, ngoài ra có các trấn Thanh Hóa ngoại, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương và Phụng Thiên. Trấn có quan trấn thủ và hiệp trấn, dưới Trấn là Huyện, bên văn là Phân tri, bên võ là Phân suất cai trị và Tả hữu quản lý, dưới Huyện là Tổng và Xã, đứng đầu là Tổng trưởng và Xã trưởng.

Chính sách quản lý :

Các xã lập sổ điền (ruộng đất) và sổ đinh (dân số). Điền 3 bậc, Đinh 3 hạng. Từ 9 - 17 tuổi gọi là “vị cập cách”, từ 18 - 55 là “tráng hạng”, từ 56 - 60 là “lão hạng”, từ 61 tuổi trở lên là “lão nhiêu”.

Thuế : ruộng công hạng nhất 1 mẫu nộp 150 thạch, hạng nhì 80 thạch, hạng ba 30 thạch, ruộng tư thuế đóng bằng khoảng 60% ruộng công. Ngoài ra một mẫu phải đóng “thập vật” 1 quan tiền và khoán thổ 50 đồng (nửa quan tiền).

Từ đây dân Bắc hà được nếm mùi “Tín bài” đã áp dụng từ trước ở Đàng Trong của nhà Tây Sơn. Đó là 1 tấm thẻ, mặt trước ghi họ tên, tuổi, quê quán, địa chỉ và dấu tay của người mang thẻ, mặt sau có 4 chữ “ Thiên hạ đại tín”. Mọi người đi đâu đều phải mang theo, ai không có sẽ bị khép vào hạng “dân lậu” bị bắt đi làm phu dịch. Ai có mà không mang theo sẽ bị phạt tiền.

Một người dân Nghệ An tên là Trần Bỉnh Phương kiên quyết không chịu đeo “tín bài” dân làng La Khê tôn ông làm quân sư và định nổi dậy, quan Thủ trấn là Nguyễn Quang Diệu cho quân đến đánh, Trần Bỉnh Phương thua chạy vào một ngôi chùa trên núi, viết một bài tứ tuyệt lên pho tượng rồi tự sát bằng cách tự mổ bụng. Bài thơ viết :

Giữ nước không kế sách

Nhưng thân đã có dao

Ngẩng đầu nhìn Hồng Lĩnh

Chín mươi chín ngọn cao.

Với sổ đinh và tín bài, Quang Trung bắt lính, cứ 3 đinh lấy một, nơi nào ít đinh thì bắt lính từ tuổi 15. Nhiều người dân phải chạy trốn vào rừng. Một Giáo sỹ ghi lại “ Việc đi lại rất khó khăn vì hễ ai không có thẻ đều bị tống vào ngục. Mỗi làng phải làm hai cái trạm để xét tín bài khách qua lại. Nhờ cách này họ có thể bắt được tất cả dân đi lính (tận suất). "

Chính sách nông nghiệp :

Ruộng đất bị bỏ hoang, dân trễ nải cầy bừa, Quang Trung xuống chiếu Khuyến nông kêu gọi dân lưu tán trở về làng cũ để làm ăn nhưng nó chỉ có giá trị về mặt tuyên truyền mà không hiệu quả thực tế, ai trở về chắc chắn sẽ bị bắt lính vì lúc đó Quang Trung đang chuẩn bị chiến tranh. Anh hùng chiến trận như ông không thích hợp cho thời bình. 

Khi cùng Ngô Thì Nhậm từ Bắc Thành về Phú Xuân, Cao Huy Diệu có làm bài thơ “Đông lạp Thăng Long thượng mã hồi”

Dịch thơ :

“Thăng Long tháng chạp ra về

Trời xuân đã đến kinh kỳ mừng Xuân

Cờ bay phấp phới hồn oan

Lúa hoa xanh tốt để quan thu vào

Sưu cao bạc thuế càng cao

Con oanh không thẻ xuyên lầu liệng quanh - (chỉ có chim là không phải đeo thẻ tín bài)

Áng xuân ghi mấy sự tình

Cửa khuyết che kín cho mình ngẩn ngơ.”

TIẾNG VỌNG TỪ NỀN VĂN MINH BỊ BỎ LẠI

TIẾNG VỌNG TỪ NỀN VĂN MINH BỊ BỎ LẠI

(của Gã Khờ)

Mới hôm nào thôi, người Trung Quốc còn đi bộ. Họ đi bộ ra khỏi cơn điên của Cách mạng Văn hóa, đi bộ qua những năm đói nghèo và kiểm duyệt, đi bộ giữa tro tàn của tri thức bị đốt cháy và tượng Khổng Tử bị chôn sâu. Rồi hôm nay - họ đáp xuống Mặt Trăng. Và ngày mai, có lẽ họ sẽ ghé vào Hỏa Tinh.

Còn chúng ta, Việt Nam anh hùng, bốn nghìn năm văn hiến, sau năm mươi năm thống nhất, ta đang ở đâu?

Có lẽ vẫn còn đang tranh cãi xem nên gọi Nguyễn Ánh là “thằng” hay “vua”. Vẫn còn bận phân biệt ai yêu nước theo đúng quy trình. Vẫn loay hoay tổ chức những cuộc thi “tự hào dân tộc” trong khi nền giáo dục dạy trẻ con sợ đặt câu hỏi, và nền truyền thông sợ nói sự thật.

Người viết bài “Nghe tiếng vọng từ nền văn minh bị chôn vùi” đã nói hộ một nỗi niềm mà ít ai dám nói thẳng: rằng văn minh không nằm trong khẩu hiệu, mà trong cách ta ứng xử với quá khứ và với sự khác biệt.

Gã đọc, rồi ngẫm, rồi tự hỏi: có phải dân tộc mình đang cố sống bằng bản sao của lòng tự hào, thay vì bằng chính lòng tự trọng?

Chúng ta vẫn hô “bốn ngàn năm văn hiến”, nhưng thử hỏi, nền văn hiến ấy đang ở đâu khi một học giả bị chụp mũ chỉ vì dám nói khác? Ở đâu khi người ta dạy học sinh học thuộc “tinh thần yêu nước”, nhưng lại không cho chúng biết yêu sự thật?

Cái bi hài là, giữa thế kỷ 21, người Việt Nam vẫn dễ nổi nóng với một bài viết nói ngược, nhưng lại bình thản trước chuyện cả một vùng biển mất dần từng hòn đảo.

Người Trung Quốc từng trả giá đắt cho cơn điên của mình - họ đã giết tri thức, đập văn hóa, xóa lịch sử. Nhưng rồi họ dám sám hối. Họ biết cúi đầu trước Beethoven, học lại Mozart, dựng lại Khổng Tử. Còn ta, ta chưa từng sám hối điều gì.

Ta vẫn nói về “đổi mới tư duy”, nhưng lại bắt mọi tư duy phải đi cùng một hướng. Ta nói về “phát triển khoa học”, nhưng còn chưa dám tin vào nhà khoa học hơn là vào nghị quyết. Ta nói “hòa hợp dân tộc”, nhưng lại không chịu hòa giải với chính lịch sử của mình.

Trung Quốc có thể đáng ghét, nhưng không thể phủ nhận rằng họ đã biết biến tri thức thành sức mạnh. Còn Việt Nam, chúng ta biến tri thức thành nghi ngờ, và nghi ngờ thành công cụ kiểm soát.

Một người bạn của gã nói: “Người Việt mình không nghèo tiền, chỉ nghèo niềm tin vào nhau.”

Gã thấy đúng. Vì một dân tộc văn minh không thể sống bằng sự sợ hãi. Không thể cứ né tránh mọi câu hỏi nhạy cảm, rồi tự ru mình bằng bài hát Tự hào Việt Nam.

Có khi, chúng ta cần ít khẩu hiệu hơn, và nhiều câu hỏi hơn.

Cần ít lời tự khen hơn, và nhiều sự sám hối hơn.

Cần ít những “lễ kỷ niệm” hơn, và nhiều buổi lắng nghe hơn - lắng nghe tiếng của chính lương tri.

Khi nhìn thấy những ngón tay người Trung Hoa chơi Chopin giữa Warsaw, gã chợt nghĩ: âm nhạc ấy đâu chỉ là giai điệu, nó là tuyên ngôn của một dân tộc biết học lại cách làm người sau cơn điên của mình.

Còn chúng ta - vẫn chưa học được điều giản dị ấy: rằng muốn bước vào thế giới, trước hết phải bước ra khỏi sự ngu dốt được tổ chức như một tín điều.

Văn minh, sau cùng, không phải là những tượng đài bằng đồng, mà là khi con người dám tôn trọng lẫn nhau bằng trí tuệ và sự thật.

Và nếu có một tiếng vọng nào còn văng vẳng từ nền văn minh bị bỏ lại, thì đó chính là lời nhắc:

“Một dân tộc không biết sám hối cho những gì đã lãng quên, sẽ mãi chỉ là người đi bộ trong giấc mơ của kẻ khác.”

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2025

Nhân Tuấn Trương: Tại sao dân Bắc kỳ có khuynh hướng không thích nhà Nguyễn ?

Tại sao dân Bắc kỳ có khuynh hướng không thích nhà Nguyễn?

Có nhiều lý do mà lý do chính có lẽ vì nhà Nguyễn dời đô từ Hà Nội về Huế. Tình thần "hoài Lê" trong tầng lớp sĩ phu Bắc kỳ rất sâu đậm. Sĩ phu Bắc hà coi việc này là một sự xúc phạm. Nhiều thập niên giặc giã liên tục nổi lên chống nhà triều đình Huế mà hầu hết là hậu duệ nhà Lê ở đất Bắc. Đặc biệt dưới thời Tự Đức. Ta có Lê Duy Minh, Lê Duy Huân, Lê Duy Ân, Lê Duy Phụng...

Dữ kiện lịch sử quan trọng, chưa bao giờ thấy các sử gia VN ghi nhận, là sự nổi dậy của Lê Duy Phụng khiến Tự Đức phải nhượng các tỉnh Nam kỳ cho Pháp năm 1862. 

Sử gia VN đổ cho Phan Thanh Giản và vua nhà Nguyễn "bán nước cho giặc". Nhưng nếu xét tường tận, VN mất đất cho Pháp, sau đó bị lệ thuộc vào Pháp, là do việc Lê Duy Phụng và hậu duệ nhà Lê "đánh Nguyễn giúp Pháp", một kiểu "nối giáo cho giặc". 

Sử gia VN cũng ít thấy ghi lại chuyện hậu duệ nhà Lê nhiều lần cầu thân với Pháp, đề nghị đứng về phía Pháp để lật đổ nhà Nguyễn. 

Tất cả những kẻ "nối giáo cho giặc" "chống Nguyễn phò Tây" triều Tự Đức đều là sĩ phu Bắc hà. 

Tháng rồi tôi có viết tút tựa đề: Người Hà nội không yêu nước nhiều lắm đâu... Thực ra phải nói là dân Bắc kỳ không yêu nước nhiều lắm đâu! Tôi nói có sách, mách có chứng...

Xét lại lịch sử, thời kỳ tiền Pháp thuộc. Hai lần Hà nội bị quân Pháp tấn công. Hai tướng giữ thành Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu lẫn lượt tự vẫn. Với quân số, lần đầu khoảng 150 người, Francis Garnier đã chiếm thành Hà nội. Lần hai Henri Rivière, phá thành Hà nội với khoảng 400 quân. Quân trong thành hai lần đều trên ngàn người. 

Ở đây tôi không phân tích nguyên nhân vì sao quân ta thua. Vấn đề tôi muốn tìm hiểu là thái độ của dân Bắc kỳ, đặc biệt dân Hà nội lúc đó ra sao?

Sự thật sẽ làm nhiều người nhảy nhổm. Dân Hà nội kéo như trẩy hội ra coi quân giặc đánh quân ta ! Dân Hà nội "hồn nhiên" đứng coi quân giặc đánh quân ta như coi diễu binh, như coi một trận đá banh...

Tại sao? 

Là vì Nguyễn Tri Phương là người gốc Huế và Hoàng Diệu gốc Quảng Nam. 

Câu hỏi khác: ai đã trả thù cho Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu ?

Xin thưa không phải dân Hà nội. Giặc Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đã giết tuần tự Francis Garnier và Henri Rivière, trả thù cho Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Lưu Vĩnh Phúc người Hoa, là tàn binh của Thái bình thiên quốc từ bên Tàu dạt qua VN. 

Bà con muốn kiểm chứng thì tìm đọc cuốn sách theo hình ở đây.


Comment của Nghĩa Bùi :

Biến cố Lê Duy Phụng 1862 xảy ra *sau khi* nhà Nguyễn nhượng ba tỉnh cho Pháp chứ không phải trước đó. Sử gia Phạm Văn Sơn có bàn về vụ này như sau:

Nhà sử học Phạm Văn Sơn (1915–1978), trong Việt sử tân biên (tập 5, Sài Gòn, 1962), là một trong những người đầu tiên ở miền Nam viết kỹ về Lê Duy Phụng và biến cố 1862 dưới góc nhìn dân tộc học và chính trị. Dưới đây là tóm lược và trích đoạn từ công trình của ông, kèm giải thích để bạn thấy rõ cách ông phân tích phong trào này trong tổng thể lịch sử Việt Nam giữa thế kỷ XIX.

🧭 I. Bối cảnh theo Phạm Văn Sơn

Trong Việt sử tân biên, chương “Tình hình Bắc Hà sau hiệp ước Nhâm Tuất”, Phạm Văn Sơn viết: "Từ khi triều đình ký hòa ước với Pháp, lòng dân tan nát, sĩ phu phẫn uất. Ở Nam Kỳ, dân không chịu để mất đất; ở Bắc Hà, người ta lại mơ đến bóng xưa nhà Lê. Từ ý tưởng ấy, phong trào phò Lê – chống Nguyễn – chống Tây nổi dậy.”

Ông nhận định: Bắc Hà (tức miền Bắc) vẫn còn nặng tình với nhà Lê, trong khi triều Nguyễn “chưa được lòng dân ngoài Bắc như ở Thuận–Quảng.” Khi Huế “nhún nhường trước Tây”, người Bắc coi đó là mất chính danh, nên việc “phò Lê” có cơ sở tâm lý, chứ không chỉ là loạn thần tặc tử.

⚔️ II. Lê Duy Phụng – con người và phong trào

Phạm Văn Sơn mô tả khá sinh động: "Lê Duy Phụng, hậu duệ nhà Lê, vốn lưu lạc ở vùng Sơn Tây – Hưng Hóa, tính cương trực, học rộng, được dân quanh vùng tin yêu. Khi nghe tin triều đình ký hòa ước, ông tự xưng là Minh Đức Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thiên Hưng, hạ chiếu cáo thiên hạ, nêu khẩu hiệu ‘Phục Lê, diệt Nguyễn, kháng Tây’. Dân gian hưởng ứng khá đông, kẻ vì lòng yêu nước, người vì oán triều đình, tất cả cùng tụ nghĩa.”

Phạm Văn Sơn nói rõ: tuy “phò Lê” là danh nghĩa, nhưng thực chất là một hình thức yêu nước sơ khai, vì chưa có khái niệm “độc lập dân tộc” kiểu hiện đại. Người dân chỉ biết dựa vào biểu tượng cũ (nhà Lê) để chống lại “triều đình đầu hàng và người ngoại quốc”.

⚖️ III. Cuộc đàn áp và phản ứng của Huế

“Triều đình Huế, thay vì nhận ra lòng dân, lại cho là loạn, sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Bá Nghi ra Bắc tiễu trừ. Quân triều lấy danh nghĩa ‘bình giặc phản’, nhưng thực ra là đánh dân mình, khiến lòng người càng xa cách. Phụng bị bắt tại vùng Hưng Hóa, bị xử trảm; nhiều tướng sĩ của ông bị giết hoặc đày đi. Cuộc nổi dậy tan, nhưng tàn lửa yêu nước còn cháy trong dân gian suốt hai chục năm sau.”

🌾 IV. Phân tích và đánh giá

Phạm Văn Sơn viết tiếp: "Nếu xét dưới con mắt chính trị, Lê Duy Phụng là người chưa đủ tầm lãnh tụ quốc gia. Nhưng xét dưới góc độ lịch sử dân tộc, ông là người đầu tiên ở Bắc Hà dám đứng lên phản kháng Pháp và triều đình đầu hàng. Sự kiện này chứng tỏ dân tộc Việt Nam không khuất phục dễ dàng sau hiệp ước 1862. Tinh thần ấy sẽ kế tiếp trong phong trào Cần Vương (1885–1896).”

Ông kết luận bằng một câu ngắn gọn và sâu sắc: "Triều Nguyễn chém đầu Lê Duy Phụng, nhưng lịch sử không chém được tinh thần Lê Duy Phụng.”

Nguồn: chatGPT

Trần Nguyên Duy Thịnh: Nguyễn Hữu Chỉnh- Kẻ Cơ Hội Chính Trị Đàng Ngoài – Bi Kịch Của Tham Vọng Thời Loạn

Nguyễn Hữu Chỉnh: Kẻ Cơ Hội Chính Trị Đàng Ngoài – Bi Kịch Của Tham Vọng Thời Loạn

Nguyễn Hữu Chỉnh (1741–1787), người con của xứ Nghệ An (vùng đất biên thùy thuộc Đàng Ngoài), là một điển hình bi kịch của tham vọng cá nhân trong thế kỷ XVIII đầy biến động. Ông là một võ tướng kiệt xuất về thao lược, nhưng chính cuộc đời ông lại là sự phản chiếu rõ nét nhất của chủ nghĩa cơ hội chính trị và sự thiếu vắng đạo đức nghĩa hiệp trong tầng lớp quan lại Bắc Hà suy tàn.

Khởi nghiệp dưới trướng chúa Trịnh (Đàng Ngoài), Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng chứng tỏ tài năng quân sự và chính trị vượt trội. Ông là người hiểu rõ tường tận hệ thống, quy tắc, và cả những điểm yếu của triều đình Lê – Trịnh ở Thăng Long.

Tuy nhiên, khi quyền lực của chúa Trịnh bắt đầu lung lay và chính quyền mục ruỗng, lòng trung thành của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng dần phai nhạt. Với bản tính thực dụng của người vùng biên, ông nhận ra rằng việc bám víu vào một triều đại đang hấp hối chỉ dẫn đến sự hủy diệt cá nhân.

Khi thất thế, thay vì tìm đường phục hưng cho chính quyền cũ, Nguyễn Hữu Chỉnh đã thực hiện bước đi táo bạo và bị lên án nhất: Đầu hàng Tây Sơn (lực lượng Đàng Trong) và trở thành quân sư đắc lực cho Nguyễn Huệ.

Hành động này, dù giúp ông thoát hiểm, lại mang đậm màu sắc cơ hội chính trị:

Ông đã dùng toàn bộ sự hiểu biết về địa hình, nhân sự và điểm yếu của quân Trịnh để giúp Nguyễn Huệ dễ dàng tiến quân ra Bắc, chấm dứt quyền lực của họ Trịnh (1786).

Mục đích của Chỉnh không phải là vì Tây Sơn hay vì dân chúng, mà là để dùng sức mạnh Tây Sơn để diệt trừ đối thủ và tạo lập chỗ đứng mới cho mình ở Thăng Long.

Sau khi Nguyễn Huệ rút quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh được giao nhiệm vụ quản lý Bắc Hà dưới danh nghĩa phò vua Lê Chiêu Thống. Đây là lúc bản tính cơ hội của ông bộc lộ hoàn toàn:

Chỉnh nhanh chóng biến Lê Chiêu Thống thành một vị vua bù nhìn, nắm trọn binh quyền, tự phong tước vị, và hành xử như một lãnh chúa độc lập ở Bắc Hà.

Hành động của ông bị xem là phản bội lại lòng tin của Nguyễn Huệ và mục tiêu thống nhất đất nước của Tây Sơn, đẩy Đàng Ngoài vào hỗn loạn một lần nữa.

Chính sự thao túng và mưu đồ cát cứ này đã buộc Nguyễn Huệ phải quay trở lại Bắc Hà, nhanh chóng tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh (1787). Cuộc đời ông kết thúc bi thảm, bị giết dưới tay tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm.

Nguyễn Hữu Chỉnh là một nhân vật sở hữu tài năng của một người hùng nhưng lại thiếu đi phẩm chất nghĩa hiệp cần có. Ông dùng tài năng của người Đàng Ngoài để phục vụ cho các phe phái đối lập, cuối cùng chỉ vì tham vọng cá nhân không giới hạn.

Cái chết của Nguyễn Hữu Chỉnh là bài học đắt giá: trong thời loạn, kẻ cơ hội chính trị có thể nhất thời được vinh hoa phú quý, nhưng cuối cùng sẽ bị chính lịch sử đào thải khi đặt lợi ích cá nhân lên trên đạo nghĩa và vận mệnh chung của dân tộc.

- Trần Nguyên Duy Thịnh -

Trần Nguyên Duy Thịnh: Tâm Lý Đàng Ngoài và Lòng Tự Hào Đàng Trong: Vì Sao Người Dân Miền Nam Không Ngại Nói Ra Quê Của Mình?

Tâm Lý Đàng Ngoài và Lòng Tự Hào Đàng Trong: Vì Sao Người Dân Miền Nam Không Ngại Nói Ra Quê Của Mình?

Sự phân biệt vùng miền, đặc biệt là nỗi sợ bị định kiến về nơi chốn sinh ra, dường như là một gánh nặng tâm lý mà chỉ những người mang trong mình sự phức tạp lịch sử của Đàng Ngoài (Bắc Hà) mới thực sự cảm thấy. Ngược lại, đối với người dân Đàng Trong (miền Nam), tinh thần về quê hương là một sự tự hào mãnh liệt và không cần che giấu.

Tâm lý e ngại bị phân biệt vùng miền ở một bộ phận người Bắc xuất phát từ chính lịch sử ngàn năm tập trung quyền lực và sự phân hóa xã hội gay gắt của chế độ phong kiến:

Bắc Hà là cái nôi của các triều đại, nơi đặt Kinh đô và các trung tâm giáo dục—quyền lực. Sự phân biệt thường xoay quanh nguồn gốc địa lý quyết định địa vị và uy tín cá nhân. Nỗi sợ bị đánh giá qua giọng nói, phong tục, hay xuất thân là hệ quả của một xã hội nặng về uy quyền và sự chuẩn mực.

Khi đất nước trải qua chiến tranh và chia cắt, nỗi sợ mất đi sự "chính thống" và bị đánh giá là "lỗi thời" hay "cục bộ" càng trở nên rõ rệt trong tâm lý.

Ngược lại, tâm lý của người miền Nam, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long, mang tinh thần khai phá và tự lập cao độ, khiến họ không cần phải che giấu hay sợ hãi về nguồn gốc:

Miền Nam là vùng đất được mở rộng và xây dựng bởi nhiều thế hệ di dân từ khắp nơi (từ Đàng Ngoài, Đàng Trong cũ, và người Hoa). Sự đa dạng này tạo ra một bản sắc linh hoạt, thực dụng, và khoan dung với sự khác biệt.

Đối với người miền Nam, "quê hương" không chỉ là nơi sinh ra mà còn là thành quả của sự đấu tranh với thiên nhiên, với thú dữ, và với cả địch họa. Họ tự hào về sự cần cù và khả năng thích nghi của mình. Việc hỏi "quê anh ở đâu" là một cách để chia sẻ lịch sử phát triển của vùng đất, chứ không phải để phân định địa vị xã hội.

Giọng điệu và ngôn ngữ của người miền Nam được xem là dấu ấn văn hóa độc đáo, thể hiện sự thoải mái và cởi mở trong giao tiếp. Họ không ngại giọng nói của mình bị coi là khác biệt, mà coi đó là biểu tượng của bản sắc tự do, không bị ràng buộc bởi các quy tắc nghiêm ngặt của triều đình phong kiến cũ.

Trong khi một số người ở Đàng Ngoài còn phải vật lộn với những định kiến cũ kỹ về nơi mình sinh ra, thì người Đàng Trong luôn hãnh diện khi nói về cội nguồn của mình. Đối với họ, quê hương là niềm vui, là câu chuyện về lịch sử mở cõi, chứ không phải là một bí mật cần phải giấu kín! Họ là người viết nên chương mới cho vùng đất này, và họ tự hào về điều đó.

- Trần Nguyên Duy Thịnh -


Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

Nguyễn Minh Chí: CÂU CHUYỆN TRÚC LIÊN BANG…

CÂU CHUYỆN TRÚC LIÊN BANG…

Với số lượng thành viên lên đến gần 30.000, Trúc Liên Bang đã gần như trở thành bang hội giang hồ quy mô lớn nhất trong lịch sử… Ngay cả những bang phái như Hồng Môn, Tiểu Đao Hội, 14K, Thanh Bang .v.v…đã phải bước lùi một bước trước sự đột ngột hùng mạnh này. Vậy Trúc Liên Bang là gì và vì sao hùng mạnh, vì sao suy vong? Và, câu hỏi quan trọng nhất là vì sao hiện nay Trúc Liên Bang phải túa ra khắp nơi để kiếm sống hoặc nương náu ở những nước vùng Đông Nam Á?

NGUỒN GỐC “TRÚC LIÊN BANG” 

“Lúa trúc phiêu phiêu, từng phiến lượn- Cát bay vạn dặm đất liên bang-Trúc Liên ngạo tiếu giang hồ…” Những câu thơ nghe sặc mùi kiếm hiệp cổ trang này, chính là bài thơ được các đại ca xã hội đen Đài Loan “sáng tác” lúc Trúc Liên Bang vừa khởi nghiệp.

Tháng 6 năm 1956, Triệu Ninh- một đại ca xuất thân từ Trung Hòa Bang do Tôn Đức Bồi thành lập năm 1953, đã quyết định “dựng cờ” tại khu vực Song Hòa. Bang hội mới được đặt tên là Trúc Lâm Liên Minh , gọi tắt là Trúc Liên Bang.

Cùng chia nhau với Trúc Liên Bang các lợi nhuận trong hoạt động xã hội đen tại Đài Loan lúc đó là Vạn Tự Bang của Phàn Thế Minh cát cứ vùng Thủy Nguyên và Tam Hoàn Bang của Thậm Huấn Ngô chiếm lĩnh vùng Đại Đại, Tân Thuận, Sư Đại…

Tất cả các thủ lĩnh của những bang hội này đều là thành viên của tổ chức Trung Hòa Bang năm xưa bị tan rã. Năm 1953, Tôn Đức Bồi vừa 16 tuổi đã tạo tên tuổi và băng nhóm lấy hỗn danh là Trung Hòa Bang. Thoạt đầu, hoạt động chủ yếu của đám thiếu niên du đãng này là đòi tiền bảo kê suốt từ Doanh kiều đến giáp Tú lãng và Vĩnh Hòa. Trong một vụ đánh nhau giành địa bàn, Tôn Đức Bồi và thuộc hạ lỡ tay giết một thanh niên  tên là Chu Thiên Tống. Toàn bộ dư luận phẫn nộ dẫn đến việc cảnh sát ra tay dẹp băng đảng “nhóc con” này. Sót lại sau chiến dịch thanh trừng của nhà đương cục Đài Loan có 5 tên bèn tự xưng là “ngũ hổ tướng”. Trúc Liên Bang và những phe nhóm khác đều từ ngũ hổ tướng này mà ra.

Nhưng bước ngoặc thực sự chỉ đến với Trúc Liên Bang khi 1960, Triệu Ninh tình cờ gặp được nhân vật huyền thoại Tây Môn Kim Cương Trần Huệ Văn. Đây là một đại ca khét tiếng giang hồ trốn từ đại lục sang và mai danh ẩn tích từ những năm 50. Được “sư phụ” tận tình đào tạo, chỉ trong một thời gian ngắn, Trúc Liên nổi lên như cồn và hành động kín kẽ nên khó bị nhà đương cục sờ gáy. Chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm, những địa bàn béo bở nhứt ở Đài Bắc đều lọt vào tay Trúc Liên Bang.

Hàng loạt vụ thanh toán nổ ra dưới sự sắp xếp kế hoạch và phân công của Triệu Ninh, đã khiến những băng nhóm đối địch sửng sốt. Sự tàn bạo, cộng tinh vi và chặt chẽ theo cách Thanh Bang tung hoành Trung Hoa gần 3 thế kỷ, đã khiến cho các đối thủ của Trúc Liên Bang phải cởi giáp quy hàng.

Theo chỉ đạo của sư phụ Trần Huệ Văn, thủ lĩnh bang lúc đó là Triệu Ninh đã không tiếc tiền của, gái đẹp để kết giao với một cảnh sát về hưu họ Hà và chủ hiệu ăn khu Trung Sơn tên là Lục Tuyền. Với kinh nghiệm hoạt động xã hội đen, cả 2 trợ thủ đã tận tình chỉ giáo cho Triệu Ninh. Từ đó, Trúc Liên Bang được mệnh danh là Thiên Hạ Đệ Nhất Đại Bang, tất nhiên chỉ ở Đài Loan. Vụ đụng độ ghê gớm nhất trong lịch sử thành lập của Trúc Liên Bang và bang Tứ Hải, khởi nguồn cũng từ Lục Tuyền.

Khu ăn chơi Trung Hòa-Trung Sơn là bầu sữa ngọt nuôi sống giang hô Đài Loan từ nhiều năm, nay thuộc quyền chi phối của Tứ Hải. Lục Tuyền cũng phải nạp tiền bảo kê nên quyết tâm lật đổ bang phái này. Hắn tìm cách mua 5 khẩu súng và 200 viên đạn, giao cho Triệu Ninh. Xảy ra đụng độ, băng Triệu Ninh kéo tới bắn phe Tứ Hải chạy dài. Không cam tâm, Tứ Hải cho người ném mấy trái lựu đạn tự chế và quán ăn của Lục Tuyền. Thế là Triệu Ninh quyết định “giở sổ” băng đối phương. Khi có thông tin các thành viên bang Tứ Hải đang ăn chơi ở Đại Đại, bang Trúc Liên ra quân. Đối phương say đến nỗi cất tay không nổi nói chi tới chuyện chống trả nên cuối cùng đành phải khuất phục hoàn toàn. Sau chuyện dẹp tan bang Tứ Hải, Triệu Ninh đột ngột gọi các thành viên chủ chốt lại và bàn giao ngôi bang chủ cho Trần Khởi Lễ để đi Hồng Kông “trốn quân dịch”. Thực ra, đó chỉ là cái cớ. Đã từ lâu, Triệu Ninh đã biết đến sự ghê gớm của Trần Khởi Lễ nên “tự giác” lui về tuyến sau. Sau khi Trần Khởi Lễ chấp chưởng ngôi bang chủ, Trúc Liên Bang thay đổi phong cách và trở nên nguy hiểm bội phần.

TRẦN KHỞI LỄ VÀ NHỮNG “SƠN ĐƯỜNG”…

Xuất thân từ một gia đình thế gia vọng tộc, bản thân là người có học nên khi trở chứng gia nhập xã hội đen, cậu học trò sơ trung 15 tuổi Trần Khởi Lễ, đã được Triệu Ninh đánh giá cao. Sau vài năm chinh chiến, Trần Khởi Lễ luôn là kẻ xung phong đi đầu, chém giết đối phương không nương tay, đã khiến cho các thành viên khác, không chỉ trong nội bộ Trúc Liên Bang hoàn tàn tâm phục khẩu phục…Khi nhận bàn giao chức bang chủ, Khởi Lễ bắt đầu cải cách theo ý riêng của mình. Bắt chước theo mô hình của các bang phái có từ thời Mãn Thanh, Khởi Lễ sắp xếp lại bang hội thành các phân hội, phân đà và lấy 5 loài vật đặt cho các phân hội gồm Long, Phụng, Sư tử, Báo, Gấu với 5 màu cờ khác nhau. Cách tổ chức chặt chẽ và hương pháp làm ăn của Khởi Lễ cũng tinh vi hơn trước.

Sau vài năm cải tiến, nguồn tài chính thu vào trở thành sung túc hơn trước gấp nhiều lần, Khởi Lễ bắt đầu lấn sân sang lĩnh vực giải trí và tống tiền các doanh nghiệp thay vì chỉ là bảo kê. Chẳng những vậy, Khởi Lễ còn đưa người sang Mỹ để phát triển tổ chức Trúc Liên Bang. Những phân đà được thành lập ở nước ngoài, Khởi Lễ cho gọi tên là các Sơn Đường. Ví dụ như nhà hàng Hàn Hương Thôn, ở NewYork, cũng là một phân đà bị cảnh sát Mỹ phát hiện và dẹp bỏ.

Cực Lạc Sinh Bi, ngay lúc Khởi Lễ đang ở đỉnh cao muôn trượng, đột ngột bị bắt bởi một nguyên cớ kỳ cục! 

Trần Nhân, một thành viên tích cực của bang, do yêu nên quyết tâm rời bỏ giang hồ. Anh ta quyết định theo bạn gái qua Mỹ du học.

Khởi Lễ giận điên lên và hạ lệnh khử Trần Nhân. Bị đích thân Trần Khởi Lễ theo dõi và đâm trọng thương vào lúc 21 giờ ngày 14-7-1970, Trần Nhân quyết định nương vào cảnh sát và khai báo toàn bộ hoạt động của Trúc Liên Bang. Một cuộc thanh trừ diễn ra, Khởi Lễ bị kết án 12 năm tù cùng đồng bọn vì tội giết người có chủ đích. Trúc Liên Bang tan rã sau khi Khởi Lễ bị tống giam.

PHỤC HỒI TRÚC LIÊN…

Khi thụ hình án xong, Khởi Lễ quay về và quyết tâm “gác kiếm quy ẩn”. Hàng loạt đệ tử tìm tới, thậm chí đưa cả chục triệu dollars cho y để lập nghiệp cũ. Khởi Lễ từ chối tất và đi làm một công nhân xây dựng, nghiệp dĩ khó bỏ, một người họ Lưu đến gặp mở lời đề nghị. Bằng thế lực riêng và có một kế hoạch cụ thể, họ Lưu “ép” Khởi Lễ nhận lời. Cùng lúc, các Lão Trúc (Trúc Liên Bang kỳ cựu) từ Mỹ quay về bắt đầu gầy dựng “số má” nhưng quá bá đạo. Khởi Lễ nhận lời vì cũng muốn các đệ tử không phải bị “xài” một cách cẩu thả như kiểu của các Lão Trúc từ Mỹ về quen dùng little killer (tiểu sát tử). Công cuộc phát triển hơn xưa nhưng khác xưa rất nhiều. Khởi Lễ, chỉ phát triển chưa đầy 4 năm lại…gẫy cổ!

Vụ án Giang Nam nổi tiếng đã xô Khởi Lễ và Trúc Liên Bang lần thứ 2 sập-hầm và lần này thì rõ là Khởi Lễ không thể gượng dậy nổi.

Giang Nam tên thật là Lưu Nghị Lương, là một nhà văn nổi danh ở Đài Loan. Va chạm bởi một lý do tế nhị, họ Lưu yêu cầu Khởi Lễ “làm việc” với nhà văn này.

Ngày 15-9-1984, Khởi Lễ đến Mỹ bằng tên giả là Trịnh Thái Thành. Đến nơi, Khởi Lễ hạ lệnh cho Sư Tử Đường (phân hội ở Mỹ) tiến hành. Chúng tìm đến nhà riêng của Lưu Nghị Lương ở Chicago và Quỷ Kiếm Sầu cùng đường chủ Sư Tử Đường Tiểu Đồng ra tay hạ sát Lưu Nghị Lương vào ngày 17-9-1984!

Vụ án gây chấn động khiến Trần Khởi Lễ bị cả Mỹ lẫn Đài Loan lên án. Lần này thì Khởi Lễ bị nhà đương cục Đài Loan bắt giữ và kết án chung thân. Gần như đồng thời, phía Mỹ cũng càn quét băng Trúc Liên cùng các cơ sở tại chỗ. Trần Trí Nhất, Hương Bá Kính, Lâm Tô, Dương Thiên Vận, A.Abisuphiphogra Amndo Delgecdo Marto, Esteban Delgao, cùng thuốc nổ, súng đạn, heroin…bị bắt giữ. Trúc Liên Bang hoàn toàn kiệt quệ cả ở Đài Loan lẫn Mỹ Quốc.

QUẬT KHỞI LẦN 3…

Trúc Liên Bang  sau cú đập mạnh của chính quyền Đài Loan và Mỹ đã hoàn toàn rời khỏi giang hồ, các thành viên cốt cán gồm 119 nhân vật đều hoặc bị bắt, hoặc lặn sâu, gần 12.000 thành viên tép-riu bèn gia nhập những băng đảng khác. Nhưng một cơ hội mới lại mở ra với băng nhóm này. Khi Hongkong được Anh trao trả cho Trung Quốc, bang Triều Châu với 28.000 thành viên lập tức rời bỏ mảnh đất từng là thiên đường của xã hội đen này. Một số núp dưới vỏ bọc của các nhà doanh nhân đáng kính chạy qua Cannada, Anh quốc…Số còn lại, lý lịch “có vấn đề hơn, chọn Đài Loan làm nơi đổ bộ. 

Bang Triều Châu chọn Trúc Liên Bang vì vực dậy một thây ma tốt hơn liên minh với những bang hội đang hùng mạnh. Tiền bạc, nhân lực và quỷ kế đa đoan đã khiến Trúc Liên Bang còn là cái vỏ, phần ruột chính là Bang Triều Châu. Sau một thời gian chinh chiến, giang hồ Đài Loan lại nhất thống dưới ngọn cờ của Trúc Liên Bang. Mạng lưới có sẵn của hắc đạo Hongkong phát  với hơn 30.000 thành viên!

THÒ VÒI BẠCH TUỘT…

Sau khi ôn định đại cục, Trúc Liên Bang giờ đây chọn lối đi an toàn. Rút kinh nghiệm của Triệu Ninh và kế là Trần Khởi Lễ, nhóm thủ lĩnh mới quyết định hoạt động mạnh ở nước ngoài và giảm tối đa những hoạt động tại Đài Loan. Và thế là hàng loạt phái viên ào ạt sang các nước vùng Đông Nam Á đặt vấn đề với các thủ lĩnh người địa phương dể mở rộng hoạt động. Thậm chí hoạt động của Trúc Liên Bang đã vươn đến tận thềm của Tam Giác Vàng… Ở Việt Nam, dấu hiệu hoạt động cũng khá rõ ràng nhưng với phương thức phòng chống tội phạm của công an Việt Nam, thực sự Trúc Liên Bang phải dậm chân tại chỗ suốt 7, 8 năm nay và theo lời của K.M- một thủ lĩnh nhóm Trúc Liên Bang đang dọ dẫm lối đi ở Việt Nam: “Đất này, khó nhai quá!”. 

Câu nhận xét ngắn, gọn, đặc trưng của giang hồ lưu manh quốc tế…Nhưng khá đủ để thay cho một lời kết của bài viết. Và những sòng bạc quốc tế nhan nhãn ở các nước láng giềng là nguồn thu chủ yếu ngoài ma túy của Trúc Liên Bang, hiện cũng đang là điểm ngắm của các cơ quan chức năng Việt Nam, có lẽ chính là câu trả lời trực tiếp, còn ngắn gọn hơn nữa!!!

 NGUYỄN MINH CHÍ

lại phải nói, hình hổng liên quan!

Nguyễn Minh Chí: TỪ THIÊN ĐỊA HỘI ĐẾN HỘI TAM HOÀNG Ở VIỆT NAM

Nhân vụ bọn tội phạm gốc Hoa (Lục Địa) trở thành một thế lưc khuynh đảo và gây họa cho gần như toàn bộ Đông Nam Á, mình đăng lại bài mình viết cách đây gàn 20 năm, về loại hình tội phạm bang hội gốc Hoa này, ở VN... Có thiếu sót, xin lượng thứ và bổ sung. 

xin nói thêm, Trấn Thành khi làm phim Đất Rừng Phương Nam, có lẽ vì anh ấy là người gốc Hoa nên bẻ đi chút chút về Bang Hội Hoa Kiều ở Nam Kỳ Lục Tỉnh. Các kiểu Hắc Bang này chẳng chống và cũng không dám chống Pháp bao giờ! Thậm chí Thủ Khoa Huân còn bị Tổng Đốc Phương bán đứng cho chánh quyền thực dân. Vậy đó chàng ơi!

TỪ THIÊN ĐỊA HỘI ĐẾN HỘI TAM HOÀNG Ở VIỆT NAM.

 NgMinhChí

Sơ đồ tổ chức bang hội:

Biểu tượng Hội Tam Hoàng

“Tam điểm ám tàng cách mệnh tông-Nhập ngã Hồng môn mạc thống phong-Dưỡng thành nhuệ thế tùng cừu nhật-Thệ diệt Thanh triều nhất tảo không.” Những lời thơ phảng phất mùi kiếm hiệp Kim Dung nghe giữa thế kỷ 21 ắt lắm người ngỡ ngàng tưởng như đang xem phim bộ Hồng Kông. Ấy vậy mà đó lại là bài Tam Điểm Cách Mạng Thi, có thực cũng như bản thân của loại bang hội này. Sự phát triển ngấm ngầm nhưng lan tỏa nhanh và rộng trên toàn thế giới theo bước chân di dân của người Hoa kiều tha hương, đặc biệt là ở phía Nam Việt Nam, do yếu tố địa lý văn hóa và cả việc thực dân Pháp có một thời cố tình dung dưỡng vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Bài viết sẽ cung cấp một số tư liệu về bang hội bí mật này và các biến tướng thời xưa đến nay, tuy không đầy đủ nhưng cũng đủ để cung cấp một cái nhìn toàn cục về nó… 

LỊCH SỬ THIÊN ĐỊA HỘI TỪ CHÍNH QUỐC ĐẾN VIỆT NAM…

Thiên Địa Hội, (tiếng Hoa:天地會 tiandihui) còn gọi là Hồng Hoa Hội là một hội kín bắt nguồn từ Trung Hoa vào thời Khang Hy với mục đích phản Thanh phục Minh, khôi phục lại giang sơn của nhà Đại Minh, đánh đuổi quân Mãn Thanh ngoại tộc.

Thiên Địa hội còn được gọi là Hồng môn hay Tam Điểm Hội. Thiên Địa hội đứng đầu là Tổng đà chủ, tiếp sau gồm có mười đường, Tiền ngũ phòng có năm đường, Hậu ngũ phòng năm đường, mỗi đường hoạt động tại một tỉnh của Trung Quốc. Khi Cách Mạng Tân Hợi 10-10-1911 nổ ra dẫn đến hoàng đế Mãn Thanh thoái vị ngày 12-2-1912, sứ mệnh chính trị của Thiên Địa Hội xem như đã chấm dứt. Các bang hội sinh ra từ Thiên Địa Hội hoặc chịu ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại với đầy đủ hệ thống hoạt động ngầm hết sức chặt chẽ, tinh vi của nó. Nhưng mục tiêu đã thay đổi, tất cả đều hướng về tiền bạc và quyền lợi vật chất cụ thể. Tóm lại, những bang hội Phản Thanh Phục Minh ngày đó, giờ đây chỉ còn đơn thuần là những băng nhóm xã hội đen có sự liên kết cao, quy mô lớn hơn bất kỳ loại hình tội phạm có tổ chức nào khác trên thế giới.

Thiên Địa hội theo chân những người Hoa phản Thanh phục Minh du nhập vào Việt Nam. 

“Trong những năm Chiến tranh thế giới I (1914 - 1918), ở Nam Kỳ có từ 70 đến 80 hội kín, có hội do những người lính khố đỏ đứng đầu. Mục đích chủ yếu của hội là chống Pháp, quan lại tham ô, khôi phục Việt Nam. Tôn giáo và phương thuật (pháp sư, bùa chú, uống máu ăn thề, dùng tiếng lóng, dấu hiệu riêng để liên lạc, vv.) giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức hội viên và tuyên truyền cho dân chúng. Địa bàn hoạt động rộng tại Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Bến Tre, Châu Đốc.”

Năm 1913 (Quý Sửu), Phan Phát Sanh tự xưng Phan Xích Long, tự nhận là Đông Cung con vua Hàm Nghi và tự tôn làm Hoàng Đế cùng các thành viên Thiên địa hội làm cách mạng chống Pháp. Họ chế tạo lựu đạn, trái phá, dán truyền đơn khắp chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, Bình Tây kêu gọi dân chúng nổi dậy. Phan Xích Long bị bắt tại Phan Thiết và bị kết án tử hình, bị giam tại nhà lao Chí Hòa chờ ngày hành quyết. Vụ án Phan Xích Long làm chấn động giới anh chị giang hồ thời đó.

Đêm 2 rạng 3 tháng 2 năm 1916, một số đàn em trong "Thiên Địa hội" mặc áo đen, quần trắng, mặc áo giáp da, trang bị bùa chú, tấn công trụ sở mộ lính ở Mỏ Cày. Đêm ngày 14 rạng sáng ngày 15 tháng 2 họ xông vào đánh phá Khám Lớn Sài Gòn để cứu "đại ca". Nhưng họ không chống nổi súng đạn, ngoài một số bị chết tại trận, hầu như tất cả đều bị bắt, tất cả gồm 56 người. Vài ngày sau 56 người này và Phan Xích Long đều bị xử tử và chôn chung trong một mộ ở Đất Thánh Chà (đường Hiền Vương, Chợ Lớn). Sau khi khởi nghĩa của Phan Xích Long thất bại một số thành viên trong tổ chức thành lập những bang phái giang hồ theo cung cách của Thiên Địa hội. 

“ĐỨA CON ÍT HỌC” CỦA THIÊN ĐỊA HỘI: “VẠN-XE”…

Vào năm 1888, hội Van Xe phát triển, lộng hành từ Bình Đông, Phú Lâm, Minh Phụng trở ra An Bình (Chợ lớn) khiến tám ông Hộ trưởng ở các vùng nói trên cầu cưú với nhà đương cuộc Chợ Lớn – Sài Gòn. Vạn tức là hình thức “nghiệp đoàn” theo kiểu vạn lưới vạn chài, vạn cấy. Vạn này thâu nạp những người đánh xe ngựa, loại xe thông dụng nhất ở Sài Gòn – Chợ lớn lúc bấy giờ. Người trong Vạn thề sống chết có nhau, một người bị hà hiếp là cả bọn kéo tới binh vực vô điều kiện, khi thấy lính cảnh sát, họ chạy trốn rất nhanh. Chủ xe phải dùng những người của Vạn đưa vào, không được dùng người ngoài. Ngoài những người sống bằng nghề đánh xe, vạn còn kết nạp bọn bồi bếp, người làm công ở hiệu buôn, cứ đóng tiền thì được che chở không ai hiếp đáp. Nơi nào có gánh hát hội trình diễn là họ kéo tới khuấy rối, nếu chủ gánh biết phải quấy đưa cho một chút tiền thì yên. Họ kiểm soát luôn những ổ mãi dâm và tống tiền những người ra vào. Ai nói xấu họ, họ đánh. Vì chiếm độc quyền phương tiện chuyên chở, họ tự ý đập đồ, dọc đường dừng lại để xin thêm tiền, không cho thì làm nhục, chửi mắng. Đặc biệt nhứt là người trong xóm lao động, bạn hàng chợ nếu gây gổ nhau thì phải nhờ họ phân xử, đóng tiền cho họ. Ai đến nhờ cảnh sát hoặc cò bót phân xử, họ lại đánh đập bằng củ chì, bằng roi cá đuối hoặc họ giết. Trụ sở của Vạn gọi là Tân Hưng hội quán, đóng ở ngôi miếu vùng Tân Hưng. Khi cần ăn nhậu và kiếm thêm tiền xài, họ bày ra lệ cúng miễu để đi lạc quyên bừa bãi khắp đô thành, ai không cho là họ trả thù: họ gop tiền trong giới bạn hàng, giới chủ tiệm Sài Gòn (tức là khu chợ Cũ ngày nay) , chợ Cầu Ông Lãnh, vùng Khánh Hội, những người sống trên ghe thuyền và đặc biệt là những chủ chứa gái điếm. Thực dân ra tay bắt cả bọn, được biết người cầm đầu là bếp Tốt, Sáu Còn. Hai tên này lợi dụng hình thức cúng tế ở miễu để hợp thức hoá những chức vụ: chủ hội, hương nhứt, hương nhị, hương ba, hương tư rồi bày thêm chánh hội, phó hội, tri khách, trị sự, hương hội và phó tổng lý biện . . .” 

THIÊN ĐỊA HỘI Ở CÁC TỈNH MIỀN TÂY…

Về hoạt động của Thiên Địa hội ở tỉnh, chỉ riêng chợ Bạc Liêu là xảy ra náo loạn: người Hoa kiều ở tỉnh lỵ này đồng loạt bãi thị, đóng cửa tiệm để phản đối việc phạt vạ của chủ tỉnh, khi ra lệnh mỗi nhà phải giữ vệ sinh trước cửa, để phòng bệnh thời khí đang lan tràn. 

Nhưng ở thôn quê và chợ nhỏ, Thiên Địa hội do người Việt cầm đầu lại phát triển ngấm ngầm tới mức thực dân không khỏi lâm vào trận hỏa mù, không phân biệt đâu là mục đích, đâu là phương tiện. Một số hương chức hội tề tham gia vào hội để được yên thân hoặc chính họ đóng vai quan trọng. 

Hội viên gặp nhau nhanh chóng, dùng mật hiệu, khi tụ khi tán, hoặc ở ngoài ruộng, hoặc ở quán rượu rồi lại đi. Họ gần như không dùng giấy tờ, ngoại trừ một số sổ sách ghi tiền bạc thâu xuất, nhưng lại che giấu, giả như là đóng tiền hụi hoặc thâu xuất lúc mua bán. Thư từ qua lại nếu có thì vắn tắt và dùng lời lẽ bóng gió, con dấu của hội lại khắc những chữ khó hiểu hoặc là ám hiệu, thoạt xem qua tưởng là con dấu tiệm buôn. 

Hội bị đặt ra ngoài vòng phát luật nhưng nhiều người dám theo và hương chức làng yểm trợ vì lý do: khi bị bắt trong lúc ẩu đả, thanh toán bằng võ lực thì họ tự nhận là ra tay vì thù oán cá nhân, theo lối du đãng để rồi bị buộc tội nhỏ với lý do làm náo động làng xóm, đánh nhau vì nợ nần, cờ bạc. 

Nhờ đó bộ tham mưu chánh trị cầm đầu bên trên ít khi bị bắt quả tang. Thực dân nhìn nhận có hội kín những chỉ trong phạm vị tương tế hoặc chỉ là nhóm du đãng hoành hành tạm thời tại địa phương. Không giấy tờ sổ sách hoặc biên bản thì khó mà tổng kết cụ thể. Hơn nữa, người trong hội nếu bị bắt, thật tình cung khai thì chỉ cung cấp được những chi tiết phiến diện cục bộ. Những tài liệu mà thực dân tịch thâu được từ các tỉnh, các làng ở miền Tây hoặc ở Chợ Lớn đều giống nhau, không đem thêm gì mới mẻ, đại khái một cây gươm, một vài bộ truyện tàu, năm bảy cái bằng cấp in theo công thức giống nhau hoặc vài tờ giấy ghi chép lời thề, mật hiệu, ghi việc xuất tiền hoặc những con dấu giống như của hiệu buôn. 

Henri Dusson, tên chánh án nặng óc thực dân đã chịu khó tổng kết về tình hình trong tỉnh Long Xuyên năm 1909 để rồi báo nguy về Thiên Địa Hội. 

Theo ý kiến của hắn thì Thiên Địa Hội phát triển mạnh vì nhà nước thuộc địa đã kêu án quá nhẹ những người theo phong trào Minh Tân (Duy Tân) của Trần Chánh Chiếu vào tháng 4-1909 Trần Chánh Chiếu được miễn tố cùng với bao nhiêu bạn bè khác do bản án của tòa án Mỹ Tho. Dân chúng nô nức, được trớn, tin rằng vào hội kín để chống đối nhà nước thì không bao giờ bị ở tù nhiều năm, nếu hoạt động kín đáo. So với tội trạng của Trần Chánh Chiếu, họ chỉ là người hiền lành và ít nguy hại.

KÈO XANH? KÈO ĐỎ? KÈO VÀNG? VÀ CUỘC TRANH HÙNG.

Về danh xưng, có hai nhóm quan trọng, đều mạnh ở Long xuyên:

-Nhóm Nghĩa Hưng thường dùng con dấu khắc bốn chữ Nghĩa Hưng công ty, người Việt gọi là Kèo Xanh. Kèo (theo nghĩa cột kèo) là cái vành của mui ghe, làm sườn để lợp lá hoặc đóng ván phía trên. Người thuộc Nghĩa Hưng dùng màu xanh sơn vào cây kèo thứ nhất của mui ghe. 

Từ nhóm Nghĩa Hưng này tách ra một chi nhánh là Hoà Xuân gọi là Kèo Đỏ, kèo của mui ghe dùng để di chuyển hoặc mua bán luôn luôn sơn màu xanh ở vành thứ nhứt (màu chánh của Nghĩa Hưng) nhưng lại có thêm cây kèo thứ nhì sơn màu đỏ. Nhóm Nghĩa Hưng gồm đa số người Hoa Kiều gốc Phước Kiến. Đôi khi họ có những chi nhánh gọi là Nhơn Hưng hoặc Đồng Hưng. 

-Nhóm Nghĩa Hòa, với cây kèo sơn màu vàng (Kèo Vàng) đa số là người Triều Châu. 

-Nhóm của người Hẹ (Hakkas-Khách Gia) thực lực không không đáng kể. 

Về sự phát triển của hội, tài liệu trên cho biết: tỉnh Long Xuyên gồm tất cả 60 làng, chỉ 5 làng là có thể có hội kín, 42 làng kia chia làm hai loại, loại thứ nhất là 35 làng bị ảnh hưởng nặng, thứ nhì là 17 làng bị ảnh hưởng ở mức vừa phải. 

Trong cấp lãnh đạo, người Hoa kiều hoặc Hoa Kiều lai là thiểu số, người Việt chiếm đa số, thường là hương chức hội tề đương nhiên hoặc hương chức cựu. Tại làng thời Thuận, (tổng Định Mỹ) nhiều tín đồ Thiên chúa đã theo hội kín hoặc nhóm Nghĩa Hưng. 

Trong làng, lúc đầu cần vài người hoạt động tích cực, sau đó cứ thuyết phục và hăm dọa để rồi những kẻ cầu an hoặc chống đối cũng lần lượt theo hội để khỏi bị hiếp đáp, vì thấy mình là thiểu số. Hương chức làng, người có uy tín, có đạo đức được chọn trước. Ai không theo thì bị phá rối liên miên: đốt nhà, đánh đập công khai hoặc lén lút, đốn cây ăn trái, phá đám mạ, đập lu hũ trong nhà... 

Trong số 12484 dân Triều Châu và bộ toàn cõi Nam Kỳ (trừ Sài Gòn – Chợ Lớn), riêng tỉnh Sóc Trăng (và một phần của Bạc Liêu ngày nay) chiếm đến 5300 người, tức là non một nửa. Thực dân phỏng đoán ở Sóc Trăng còn đến 6000 người Triều Châu khác trốn thuế, chưa ghi vào bộ. 

Từ năm 1877, nhà cầm quyền ở Sóc Trăng nhận ra sự hoạt động của Thiên Địa hội. Nhưng đến 1880, tình hình trở nên rối rắm lạ thường, các nhóm Thiên Địa hội dậy giặc chòm, họ không xúc phạm đến công sở, không đụng tới lính mã tà nhưng đánh nhau giữa các phe phái: Thiên Địa Hội thuộc Nghĩa Hưng (Kèo Xanh) đánh với Thiên Địa Hội Nghĩa Hòa (Kèo vàng). Cuộc tranh giành ảnh hưởng này xảy ra từ khi họ chưa qua Nam Kỳ, là mối thù truyền kiếp giữa các lãnh tụ lớn, các lãnh tụ nhỏ cứ tiếp tục thanh toán. 

Thiên Địa Hội ở vùng Sóc Trăng lúc đầu chỉ gồm người Huê Kiều và người Minh Hương. Tháng 9-1880, họ đánh nhau có chừng 50 đến 60 người cầm gậy gộc; riêng về Bạc Liêu, có 3 người bị thương nặng phải gởi đi Chợ Lớn điều trị. Ngoài bọn cầm gậy gộc, còn nhiều người đi theo yểm trợ về tinh thần, hò hét. Nên nhớ là người Hoa Kiều am hiểu nhiều môn phái võ thuật, số người cầm gậy toàn là võ sĩ được tuyển chọn. Lúc họ đánh nhau, hương chức làng và lính mã tà giữ thái độ không can thiệp và không đến giải tán. Hai nhóm rút lui sau khi mỏi mệt, không tố cáo với nhà cầm quyền. 

Tháng 11 cũng năm ấy, lại đánh nhau giữa hai phe Nghĩa Hưng và Nghĩa Hòa tại đường phố chợ Sóc Trăng, lần này có xung đột nhỏ với hương chức hội tề. 

Ngày 2 tháng 12 năm ấy tại Bãi Xàu, chừng 100 người dậy giặc ngoài đường, rồi đến 17 tháng 12, chừng 400 người lại đánh nhau giữa đường phố tỉnh lỵ. Thống đốc Nam Kỳ chấp thuận phạt bằng tiền tám bang Hoa Kiều ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bãi Xàu, Trà nho, Bố Thảo, Lai Tâm, Rạch Gòi, Láng Dài. 

Mặc dầu thỉnh thoảng có lục soát, bắt bớ, tịch thu tài liệu, tống xuất về Trung Hoa hoặc đày ra Côn Đảo, Thiên Địa hội cứ phát triển về tổ chức. Ở nơi đất rộng người thưa từ Đại Ngãi tới mũi Cà Mau, bọn “anh hùng” xuất hiện từng toán chừng ba bốn chục người để đốt nhà, cướp giựt, ăn cắp lúa bó (vừa gặt xong). Nên hiểu đây là việc làm nhứt cử lưỡng tiện của họ: vừa có tiền xài, vừa hăm dọa được những người chưa chịu theo hội. Đầu tháng 1-1882, chánh quyền ở Nam Kỳ gởi một pháo hạm cỡ nhỏ đến Đại Ngãi để thị oai, vì vậy mà bọn chúng tạm trốn tránh, tình hình trở nên khả quan. 

Trong phúc trình về an ninh, viên Giám Đốc nội vụ báo động với Thống đốc Nam Kỳ rằng người Hoa kiều đang tuyển mộ, ép buộc người Việt vào Thiên Địa hội. Viên Giám đốc cũng thắc mắc không hiểu tại sao Nghĩa Hưng và Nghĩa Hòa lại chống nhau như rồi tại Sóc Trăng, họ ăn thua ở năm sáu địa điểm khác nhau. Tháng 5 cũng năm 1882, viên cai tổng Định Chí (Sóc Trăng) báo cáo rằng tất cả 18 làng trong tổng gồm người Hoa Kiều, Minh Hương và người Việt đều theo thiên Địa Hội không sót một làng nào cả. Từ Cần Thơ, chủ tỉnh Nicolai nổi tiếng là giỏi giắn và trầm tĩnh báo cáo là tất cả làng trong tỉnh, không chừa một làng, đều có Thiên Địa hội. “Ngay trong lễ gia nhập, hội viên thề nguyền sẽ khởi loạn. Đầu mối của phong trào là từ trên Chợ Lớn phát triển xuống…”

Tuy nhiên, thực dân tạm yên tâm vì chưa thấy hành động chánh trị nào rõ rệt chứng tỏ họ chống Pháp. Phía Sóc Trăng, sát mé biển hoang vu thuộc tổng Thạnh Hòa (sau là Bạc Liêu), thực dân theo dõi một cuộc tập họp qui mô của Hoa kiều đang cất chòi rải rác, canh phòng cẩn mật, số người lui tới thường trực đến 3 hoặc 400. 

Đầu tháng 7-1882, mẻ lưới tung ra với viên cai tổng dẫn đường, một viên đội mật thám cùng 12 nhân viên tháp tùng, ngoài ra còn hơn 50 dân tuần đi theo yểm trợ. 

Bị bao vây thình lình, mấy người Hoa kiều ấy chống cự mãnh liệt bằng gậy gộc. Nhơn viên mật thám bắt 17 người đang tẩu thoát và khi xét trong căn chòi có vẻ bí mật lại gặp trọn ổ 19 người đang nấu á phiện lậu và một số tài liệu liên quan đến hội kín. 

Số người bị bắt là 76, toàn là dân Triều Châu. 

Tại Sài gòn – chợ Lớn, từ lâu thực dân theo dõi, bắt những nhóm lẻ tẻ, tịch thâu tài liệu. Quan trọng nhất là việc khám xét và tịch biên hai căn nhà số 127-129 đường Lareynìere (Sài Gòn) được xem là sào huyệt quan trọng của nhóm Nghĩa Hòa, 7 người bị đề nghị trục xuất về chính quốc. 

Nhóm Nghĩa Hưng ở Sài Gòn và Chợ Lớn với đầu não là người Phước Kiến hoạt động tích cực, với xu hướng chánh trị rõ rệt, trong khi nhóm Nghĩa Hòa chiếm nhiều uy thế ở Sóc Trăng, Bạc Liêu chỉ nặng về hoạt động kinh tài. 

Từ hai năm trước, một nhóm Nghĩa Hưng bị phát giác (15-3-1880), 23 người bị bắt nhưng được thả ra hai tháng sau. 

Người trong hội lợi dụng tật tham nhũng của viên chức Việt và Pháp, cứ lo hối lộ, nhờ vài người có uy tín bảo lãnh là xong vì thiếu yếu tố về mặt pháp lý; họ bảo vô hội là để tương trợ làm ăn, biên lai thâu tiền chỉ là biên lai chơi hụi hoặc góp tiền cúng chùa Ông, chùa Bà. Người Phước Kiến thường tới Chợ Lớn, về nước rồi trở ra giả danh mua bán, mang theo nào là sản phẩm; mỹ nghệ bằng đá, bằng sứ, sơn mài, tơ lụa, đến những nhà khá giả mà bán… cũng là một cách thu tiền quỹ khéo léo của Thiên Địa Hội.

TỪ THIÊN ĐỊA ĐẾN TAM HOÀNG …

Khi triều đại phong kiến Mãn Thanh sụp đổ ở chính quốc dẫn theo việc thay đổi mục tiêu chính trị của Thiên Địa Hội sang hình thái hoạt động xã hội đen thì thực ra ở Việt Nam, các bang hội này đã biến chất từ lâu.

Hai chữ Thiên Địa dành cho bang hội nay đã không còn thích hợp, các thủ lĩnh bèn sáng tạo ra một cái tên tuy mới mà cũ, vì quá khứ đã có dùng rồi cũng là: Thiên-Địa-Nhân, đó là Hội Tam Hoàng: 三合会 .

Ngô đình Diệm khi lên cầm quyền, ý thức được thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy giới chức cầm quyền cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. 

Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn v.v. được ban hành vào 9-1956. 

Ngoài ra còn có lệnh trục xuất người Hoa nếu họ không chịu nhập Việt tịch. Tính đến năm 1961 thì trong số 1.000.000 Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn 2.000 giữ Hoa tịch. 

Điều này đã làm sức mạnh của Hội Tam Hoàng ở Nam Việt Nam giảm sút. Lúc đó có 3 trung tâm quyền lực chi phối hoạt động xã hội đen của Hội Tam Hoàng trên toàn thế giới gồm: Singapore, Cholon và Hongkong. (được sắp xếp theo thứ tự quan trọng). 

Toàn bộ quyền lực chuyển về Singapore với 3 nhân vật chóp bu của Hội Tam Hoàng là Hoàng Long, Hồng Trượng và Bạch Chỉ Phiến…ngoài ra có thêm 2 nhân vật nữa mới đủ bộ ngũ thánh của Hội Tam Hoàng nhưng chỉ là hư vị. 

Hoàng Long, tương đương với chủ tịch HĐQT, Hồng Trượng là trưởng ban ám sát, kỷ luật…và Bạch Chỉ Phiến là Giám đốc điều hành. 

Do giảm sút quyền lực, nhóm thủ lĩnh Hội Tam Hoàng ở Chợ Lớn bèn khép dần hoạt động. Đó chính là lý do tại Chợ Lớn, Thanh Bang vốn là một bang hội ô hợp, nghèo hơn lại phát triển mạnh vào giai đoạn trước 1963 này!

Sau Hiến chương Vũng Tàu do Nguyễn Khánh ký, dẫn đến việc Mỹ có cơ hội tăng quân can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tại miền Nam. 

Theo chân lính Mỹ, các loại hàng P.X (miễn thuế dành cho quân đội), hàng viện trợ các kiểu, dollars…tràn ngập thị trường. Điều này dẫn đến việc dịch chuyển trung tâm quyền lực của Hội Tam Hoàng, quyền hành rơi vào tay các thủ lĩnh Chợ Lớn. 

Đã có một số bài viết cho rằng “Tín Mã Nàm-Mã Thầu Dậu” là nhân vật thứ 2: Hồng Trượng ở Việt Nam. Nói như thế thì đã đánh giá quá cao một tên du đãng nhép gốc Hoa mà đánh giá tầm vóc Hội Tam Hoàng quá thấp! 

Chưa bao giờ Tín Mã Nàm có cơ hội đươc gia nhập, nói chi đến trở thành 1 trong 3 thủ lĩnh Hội Tam Hoàng! 

Hoàng Long là ai, thì ngay cả hồ sơ theo dõi của Bộ Tư lệnh CSQG cũng không có. Nhưng nhân vật thứ 3, nắm giữ tất cả về kinh tế tài chính của Hội Tam Hoàng ở Việt Nam thì chính là Tr. Th. (Trần Thành), người giàu thứ 2 VN chỉ sau Lý Long Thân! 

Nhưng tiếng nói của nhóm thủ lĩnh ở Chợ Lớn chỉ thực sự trở thành tuyệt đối trên toàn bộ hệ thống Hội Tam Hoàng trên thế giới, lại khởi nguồn từ việc lính Mỹ khoái hút xì ke và cần sa…

Thực vậy, từ khâu trồng trọt, thu hoạch cây thẩu ở Thượng Lào, Tam giác vàng của Lý văn Huấn-tướng QDĐ Trung Hoa, đến chế biến tại Chợ Lớn, bán sỉ và lẻ cho thị trường miền Nam, chuyển qua Bắc Mỹ…đều do Hội Tam Hoàng Chợ Lớn đảm nhiệm. 

Những hoạt động khác như tống tiền, chuyển ngân bất hợp pháp, buôn lậu hàng quý hiếm, bắt đầu rơi hết vào tay Hội Tam Hoàng. Lúc đó, do nhân lực ít, mỏng… Hội Tam Hoàng thay vì tuyển thêm lại dùng hình thức khác. Họ thuê luôn Thanh Bang làm người giúp việc!

CUỘC CỜ TÀN…

Sau giải phóng, thế hệ người Hoa sinh sau đẻ muộn đa phần đã không còn giữ nhiều hoặc tuân theo một cách kiên quyết những gì cha ông họ cho là truyền thống như phương ngữ (Tiều, Quảng, Hẹ, Phước Kiến, Hải Nam), “gou” ăn uống, thủ tục cưới xin, ma chay…Chính vì vậy, những loại bang hội như Hội Tam Hoàng hình thành bằng truyền thống, tồn tại bằng phi pháp và phát triển bằng nỗi sợ của cộng đồng, đã không còn chỗ bám. Chẳng những vậy, với sự khắt khe, chặt chẽ của luật pháp dành cho các loại tội phạm có hệ thống, có tổ chức…cũng làm nguội đi cái đầu của các thế hệ thủ lĩnh mới của Hội Tam Hoàng. Sự dịch chuyển trung tâm quyền lực lại bắt đầu. Sau 75, trung tâm đó chuyển trả lại HongKong và khi mảnh đất thuộc địa này được trao trả, trung tâm của Hội Tam Hoàng chuyển luôn qua Hoa Kỳ. Thủ tục “treo đèn kết tụi” trong dịp Tết Nguyên Tiêu rồi đấu giá chiếc đèn lồng của Chùa với giá không thể tưởng tượng nổi, gần 200 triệu đồng (vàng lúc 1.750.000đ/ lượng) cho một đại gia để đại gia ấy khi buôn lậu, có được sự ủng hộ của Hội Tam Hoàng, tức là cả ngũ bang, giờ đây cũng chỉ còn là dĩ vãng. Một người bạn trẻ khi xem qua tài liệu về Hội Tam Hoàng ở Việt Nam, cứ tưởng là tiểu thuyết, khen rối rít. Đủ để hiểu, ở Việt Nam, Hội Tam Hoàng chỉ còn tồn tại trên sách báo, phim ảnh hoặc những câu chuyện kể bắt đầu bằng cụm từ: “Hồi xửa, hồi xưa…”. Các băng nhóm Yakuza, Trúc Liên Bang, đáng sợ hơn nhiều! Và hình ảnh một nhóm Trúc Liên Bang ngồi uống rượu trong nhà hàng, gặp 2 “ôn con” từ Hải Phòng mới vào Sài gòn nhìn ngứa mắt qua tận bàn cà khịa…Cả bọn giang hồ thuộc vào hàng chiếu trên của Trúc Liên Bang phải co vòi, rối rít xin lỗi dù chẳng có lỗi gì cả. Có lẽ đã quá đủ thay cho một lời kết!

 HẾT

NMC







LÊ MINH KHÔI: ĐÃ ĂN HỘT GẠO CỦA MIỀN NAM, ĐỪNG GIỞ GIỌNG VÔ ƠN!…

ĐÃ ĂN HỘT GẠO CỦA MIỀN NAM, ĐỪNG GIỞ GIỌNG VÔ ƠN!…

Xưa rày dân Nam Kỳ và dân Ngũ Quảng chưa bao giờ dám mạnh miệng mà nói đất Nam Kỳ là đất được thiên nhiên ưu đãi, bị dân người ta sống đây xưa giờ, ưu đãi hay không thì người ta quá rõ. 

Chỉ có đám người tới đây sau khi ông bà của đất Nam Kỳ đã hoàn tất xong công việc khai khẩn lập làng lập chợ, đám này mới trơ trẽn tuyên truyền câu nói đó, một số thì do không hiểu về Nam Kỳ, số còn lại ....

Cốt là để chối bỏ công sức tiền nhơn ta đã đổ xương đổ máu cho mảnh đất này!

Cốt là để thế hệ mai sau quên đi ơn đức của tiền nhơn đất Nam Kỳ đã cống hiến cuộc đời lao khổ của mình cho mảnh đất này. 

Cốt là để làm mờ đi sự ảnh hưởng vô cùng lớn lao của những người đi định cõi năm xưa bao gồm: dân Thuận Quảng (dân xứ Đàng Trong vào khai hoang), các sắc dân khác như Chân Lạp, Chăm Pa , dân Stieng, dân Minh hương.

Nhiều khi nghe người ta nói đất Nam Kỳ thiên nhiên ưu đãi mà lòng tui thấy đau, công sức tiền nhơn trầy vi tróc vẩy vì mảnh đất "rừng thiêng nước độc" trong cả mấy trăm năm không được hậu nhơn nói được câu cảm ơn mà chỉ ban tặng cho bốn chữ vàng "thiên nhiên ưu đãi". 

Ưu đãi giống gì mà biết bao nhiêu con người đã bỏ mạng tật nguyền vì lo tạo dựng một chốn an bình cho con cháu mai sau!

Ưu đãi gì giữa nước mặn phèn chua quanh năm nắng gắt thì khô cằn, mưa về thì lụt lội ún ruộng ngập vườn!

Ưu đãi gì mà rắn rít beo hùm tùm lum tế lê , thậm chí con muỗi con đĩa còn giết được người đó đa! Mỗi khi làm gì dân Nam kỳ cũng phải làm mâm cơm để cúng mấy ông hùm ông tý đặng mấy ổng không quấy phá (Hùm được coi là linh vật của đất Nam Kỳ)!

Cũng như công sức cha mẹ người ta đổ ruột đổ gan mà tạo dựng được một căn nhà khang trang, đất đai trồng trọt ê hề cho con cháu có huê lợi mà hưởng. 

Xong, bạn tới ăn nhờ ở đậu rồi kéo bầy kéo lũ tới nương nhờ mần mướn mần thuê ăn chực ăn ké trên đất này, rồi nói cái nhà này trù phú đất đai ê hề dễ mần ăn lắm, con cái trong nhà này thì lười nhác nhàn rỗi ăn trên ngồi trước không như bọn mình siêng năng cần mẫn.

Lạ thay lạ thay, của cha của mẹ người ta tạo dựng con cháu người ta phải hưởng không lẽ chó hưởng?

Mấy bạn khổ là do cha mẹ mấy bạn nghèo không biết vun vén tương lai cho mấy bạn, sao lại lấy cái sự nghèo sự cực của mình mà đi so sánh với cái sự "nhàn hạ" mà cha ông con cháu người ta đánh đổi bằng máu mà có đặng; lại còn đi lấy sự "nhàn hạ" của những con người trên mảnh đất có ơn với bạn bằng sự dè bĩu trơ trẽn (cái này là chỉ nói tới những kẻ vô ơn mất dạy)!

Cái mảnh đất này, tuy khắc nghiệt là có, nhưng nhờ những con người hiền hoà xứ này chịu cực chịu khổ nên mới có được cái nơi cho con cháu và thiên hạ cắm dùi mần ăn. 

Ai tới đây thì dân xứ này đều dang tay chào đón, bị ông bà người ta cũng phận lưu dân nên hiểu nỗi khổ của hạng lưu dân như các bạn. Nếu các bạn sống đường hoàng thì đất này sẽ bao bọc bạn, dân xứ này cũng sẽ đãi tốt các bạn, bị ai thương thì đất này thương lại hà!

Ngược bằng tới đây trịch thượng giọng cha giọng mẹ coi thường dân xứ này, coi rẻ đất đai xứ này thì coi chừng "ông ứng bà hành" méo mỏ!

Những người tuy không sanh đẻ tại đây nhưng đang uống nước Nam Kỳ, ăn hột gạo của Nam Kỳ, xin hãy yêu thương mảnh đất này như những người con Nam Kỳ xưa giờ vẫn làm. 

Mỗi khi tới ngày giỗ quãi cúng kiến, xin hãy chừa ra một mâm cơm nhỏ, có gì cúng nấy, rồi thắp nén nhang đốt vài ba tờ giấy tiền vàng bạc đem ra trước sân nhà bái lạy tạ ơn những người khuất mặt khuất mày đã bỏ mạng vì sự tôn tạo kiến lập mảnh đất yêu thương này.

Những người mà ta kêu là "khuất mặt khuất mày", chính là tiền nhơn mình đó đa! 

Sự "kính ơn" này kể cũng coi như đã trọn đạo với tiền nhơn xứ này rồi đó.

LÊ MINH KHÔI


Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

Nguyễn Minh Chí: SÀI GÒN- TỪ NHỮNG TIẾNG RAO…

SÀI GÒN- TỪ NHỮNG TIẾNG RAO…

Nguyễn minh Chí

Có thể nhận ra một Sài Gòn năng động, chân chất và mến khách không khó khăn gì từ những tiếng rao quen thuộc trên hè phố. Món ăn từ sang đến hèn từ Á đến Âu cực kỳ phong phú, và ngay cả những món ăn tưởng chừng như quý-sờ-tộc, vẫn xuất hiện trong thực đơn ăn vặt hè phố… Có những tiếng rao hài hước, có những giọng mời rất đỗi ngọt ngào và những thức ăn món uống đầy thông minh sáng tạo…

Trung Quốc đất rộng người hẹp, có trên 5.000 món ăn. Âu Mỹ có gần 500 món. Việt nam, chưa lớn bằng tỉnh Quảng Đông của Tàu, nhưng có đến hơn 1.500 món ăn… Quả là một con số ấn tượng!

LỊCH SỬ “QUÀ VẶT” SÀI GÒN VỚI NGƯỜI HOA…

Món ăn vặt, có gần như đồng thời với sự hiện diện của Chợ, hẳn rồi… nhưng thoạt đầu chỉ xuất hiện vào buổi họp chợ sớm tinh mơ và mang tính dành cho việc khách đi chợ mua bán lót lòng hơn là “hằm bà lằng xáng cấu” như hiện nay.

Chợ có mặt ở Sài Gòn sớm hơn cả thành trì. Vùng đất lúc Thành Gia Định chưa được Nguyễn Phúc Ánh xây dựng, được các phe phái quân sự tìm cách đoạt lấy để giành thế thượng phong chính là khu đất tọa lạc ở đường Nguyễn Trãi-Nguyễn văn Cừ-Phạm Viết Chánh-Cống Quỳnh. Đó chính là Dinh Điều Khiển. Và chợ tự phát được hình thành cặp theo đường Nước Nhỉ (Cống Quỳnh), cũng mang tên Chợ Điều Khiển, nay là vị trí Chợ Thái Bình.

Quan quân và gia đình họ vốn là khách mua hàng chủ yếu của chợ. Quà vặt, có mặt ở vùng Sài Gòn thuở ban đầu như vậy. Đó cũng là lý do các thức ăn vặt hoặc lót lòng, từ trước đến nay ở khu vực chợ Thái Bình hết sức phong phú và đa dạng.

Nhưng để rộ lên, đến mức trở thành một văn hóa đặc trưng lại phải kể đến những năm cuối thế kỷ 19-đầu thế kỷ 20.

Đoàn dân lưu tán từ Trung Hoa tràn sang Việt nam bởi 3 lý do chính: Chống triều đình Mãn Thanh, trốn nạn quyền Phỉ và hàng loạt cuộc chiến, và nhiều nhất là đợt tuyển phu đồn điền của Pháp nhằm khai thac thuộc địa Đông Dương.

Người Hoa sính mua bán. Nhưng ở vùng đất mới, ai có vốn ban đầu để lao vào thương trường tuy hấp dẫn nhưng đòi hỏi lượng tài chính dồi dào?

Vốn thông minh, họ nghĩ ra cách mang những thức ăn hàng ngày đậm phong vị Trung hoa ra bán!

Theo tích Giới Tử Thôi bị thiêu cháy trong rừng sâu cùng mẹ, tục lệ không nổi lửa nấu nướng trong ngày chết của mẹ con ông, được gọi là ngày Hàn Thực, tiết Hàn Thực. Người Hoa dùng bột và lá hẹ làm ra loại bánh hệt như bánh đúc của Việt nam để ăn cùng xì dầu, dấm tỏi… Khi đưa ra bán ở lề đường muốn cho lạ hơn, họ dùng dầu chiên sém cạnh cho nóng, hấp dẫn thực khách hơn. Món Bột chiên ra đời từ đó!

Rồi thì món ăn gồm đồ xào cuốn bánh tráng bột mì, được đưa ra bán hè phố với đôi chút cải tiến… gọi là Bò Bía. Tiếng Triều Châu gọi bánh tráng là Bò Bía, trong khi món ăn này chẳng có chút Bò nào…

Nhận ra dân Gia Định sính của ngọt, hàng loạt chè trở thành món ăn vặt hấp dẫn.

Tuy nhiên, người miền Nam ít chịu nhọc công cho việc ăn uống. Thế là, Núi không đến với Alah thì Alah đến với núi vậy… tất cả được bố trí, gói gọn vào hai chiếc thùng gỗ. Với cây đòn gánh xỏ ngang, một cửa tiệm ăn theo Chú Chệt rong ruổi khắp nẻo.

Nào là Chí Mà Phủ (Chí Mà: Mè-Vừng), Hủ Tíu (Huệ Tíu: bánh phở, tiếng Triều Châu), Dầu Chá Quẩy-Bánh Tiêu-Bánh Bò, bánh Ướt…cùng hàng loạt vật thực khác, được đưa lên đôi quang gánh trước khi có xe đạp, lang thang khắp hang cùng ngỏ hẻm phục vụ cho nhu cầu ăn vặt của dân Sài gòn.

Với việc sinh nhai ở vùng đất mới, người Hoa tìm đủ mọi phương cách, nhưng xem ra tính thích quà vặt, thức lạ của dân Gia Định… đã làm cho các kẻ tha hương nhận ra có thể bán bất kỳ thứ gì, lạ đến đâu cũng được miễn là ngon.

Nhưng với số vốn ít ỏi, thị phần hạn chế nên khi khá giả hơn, họ đều bỏ để tìm lấy loại hình buôn bán khác, phù hợp với lượng tiền vốn đã tích lũy được.

Thế là thị trường quà vặt, người dân Sài Gòn buôn thúng bán bưng dần tiếp quản với những thức ăn rặt Việt hơn… chính vì vậy, câu “Ăn Cơm Tàu, Ở Nhà Tây…” mất dần sự chính xác.

Tuy nhiên, có những món ăn mà ngay cả người Hoa ở chính quốc, khi muốn thưởng thức với đầy đủ đặc trưng Trung Hoa, đều phải sang vùng Chợ Lớn.

Ví như món Gà Hấp Muối của Truyền Ký, hơn trăm năm nay chưa hề thay đổi khẩu vị. Trong khi ở Hongkong, để người Âu Mỹ, người tứ phương…dễ chấp nhận, họ đã lai tạp từ lâu.

ĐA DẠNG CÁC “QUÀ VẶT” Ở SÀI GÒN…

Vì là thuộc địa, mà Sài gòn là thủ phủ nên các món ăn rặt Pháp xuất hiện từ lâu. Thoạt đầu các nhà hàng phong vị Tây Phương xuất hiện để phục vụ cho các chủ nhân mới là thực dân Pháp và các thầy thông thầy ký mợ Phán bà hội đồng, theo Tây.

Đa phần chủ nhân hoặc đầu bếp là người Hải Nam. Vốn là hải đảo, người Hải Nam hoặc làm đầu bếp cho các tàu viễn dương hoặc là cướp biển. Việc nấu món ăn Tây, xem ra không khó. Tuy nhiên, với bản tính cố hữu… họ bèn nấu món ăn Tây nhưng nêm nếm kiểu Tàu! Người Việt ăn uống như vậy xem ra hợp “gou” nhưng Tây thực sự thì không.

Dần dà chủ nhân và đầu bếp của các nhà hàng Pháp đều là người Việt.

Món ăn vặt kiểu Tây, theo chân những đầu bếp về hưu hoặc bị sa thải… bắt đầu có mặt trên đường phố.

Đến trào Mỹ can thiệp quân sự vào miền Nam, Sài Gòn tràn ngập hàng miễn thuế (P.X) trong đó tất nhiên là món ăn thức uống nhiều hệt như thứ bổn xứ.

Một khẩu vị mới ra đời: ăn kiểu Mỹ, sống vội cũng như Mỹ…

Khi dollar của cả xanh lẫn đỏ Mỹ sử dụng nhiều hơn tiền Việt trong giao dịch ở mảnh đất Sài Gòn, đủ loại quốc tịch tràn sang miền Nam “làm ăn”. Họ mang theo cả món ăn ưa thích. Thế là, từ việc có mặt để tìm cơ hội, những kẻ cơ hội cũng đã mang theo khẩu vị đặc trưng. Và thế là các món Ý, Nhật, Phi, Hàn… tràn vào thị trường ăn uống của Sài Gòn.

Lượng người Ấn, quanh các chùa Chà (đền thờ Hindu giáo) cũng tham gia vào thị trường ăn uống như mọi sắc dân.

Chiến tranh cũng xua hàng loạt nông dân nhập cư vào thành thị, khiến các thức ăn món uống rất đỗi miền Tây miền Trung xa diệu vợi, xuất hiện làm tăng thêm sự phong phú của quà vặt Sài Gòn.

Nhưng đáng kể nhất là 1.200.000 người Bắc di cư. Họ mang theo Phở, Bún Riêu Cua, Canh Bánh Đa Cá Rô Đồng, Giò Chả… đủ các loại quà vặt du nhập vào Sài Gòn.

Và thế là, chưa vùng đất nào trên toàn quốc quà vặt lại đa dạng và nhiều đến mức không tài nào liệt kê nổi như Sài Gòn… 

BỒI HỒI TỪ NHỮNG TIẾNG RAO…

Chợ miền Bắc, miền Trung…không ồn ào bằng chợ miền Nam, đặc biệt là chợ ở Sài Gòn. Chính vì những tiếng rao…

Ngay như Sài Gòn có một nghề, có hỗn danh: Bán Hàng La. Vừa kéo nguyên cửa hàng vật dụng theo mình vừa la to quảng cáo bằng những câu vần điệu, rất hài hước… nghề này xem ra, chỉ Sài Gòn có và có với mức độ phổ biến đậm đặc.

Tiếng rao đầu tiên, phát xuất từ lưu dân vùng sông nước. Chiếc xuồng tam bản, từ lúc mờ sương sớm đến khuya tắt ánh đèn dầu…họ rao lanh lảnh những món ăn vặt, đa phần là chè cháo. Người Hoa khi tham gia thị trường quà vặt, đi khắp hang cùng ngỏ hẻm để bán buôn, cũng bắt chước. Giờ đây tiếng rao khàn đục của ông Tàu già bán Chí Mà Phủ, tiếng lách cách của hai thanh tre mì gõ… đã không còn, nhưng đêm khuya thì thoảng ký ức dân Sài Gòn hiếu cựu vẫn lùa về nếu như bất chợt lại nghe một tiếng rao văng vẳng.

Một ngày nọ ngồi nhậu với bạn bè cũng là dân sống bằng viết lách, nghe tiếng rao trong đêm. Kẻ viết bài buông luôn một câu: “Ông bán bánh giò này dân Gò Vấp ngay khu Xóm Mới, trước kia nhà làm pháo…”. Cả bọn hoài nghi… Khi gọi lại thì, hoàn toàn chính xác dù người viết và ông bán bánh giò chưa gặp nhau bao giờ!

Đơn giản, khi xưa để dẹp hẳn nghề làm pháo vốn tập trung ở khu vực Xóm mới Gò Vấp, chính quyền đã định hướng các hộ làm pháo sang các nghề khác. Một số ít ỏi, có vốn liếng trở thành chủ tiệm… Còn lại, bèn làm bánh giò bánh chưng độ nhật. Đoán không đúng mới là chuyện lạ!

Lượng dân kể cả nhập cư ở Sài Gòn, hiện nay tròm trèm 20 triệu người, trong đó có cả triệu người sống bằng nghề buôn thúng bán bưng. Quà vặt tràn xuống lòng lề đường, là điều dễ hiểu. Xây dựng các khu chung cư, cao ốc hiện đại bề thế ở Sài Gòn tất nhiên phải giải tỏa. Những dân cố cựu mất nhà, tài sản đền bù không đủ để tái định cư, nói chi đến vốn liếng làm ăn. Chỉ còn giải pháp tồn tại là buôn bán và tất nhiên, để có một gánh bún, một xe bánh mì…Vốn liếng để buôn thúng bán bưng, sinh kế của cả một đại gia đình không bằng một buổi ăn sáng uống cà phê của các đại gia làm giàu bằng dự án, bằng giải tỏa và rút ruột công trình… Nghe chua xót, nhưng tiếc thay…lại là sự thật!

HẾT