Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

TIẾNG VỌNG TỪ NỀN VĂN MINH BỊ BỎ LẠI

TIẾNG VỌNG TỪ NỀN VĂN MINH BỊ BỎ LẠI

(của Gã Khờ)

Mới hôm nào thôi, người Trung Quốc còn đi bộ. Họ đi bộ ra khỏi cơn điên của Cách mạng Văn hóa, đi bộ qua những năm đói nghèo và kiểm duyệt, đi bộ giữa tro tàn của tri thức bị đốt cháy và tượng Khổng Tử bị chôn sâu. Rồi hôm nay - họ đáp xuống Mặt Trăng. Và ngày mai, có lẽ họ sẽ ghé vào Hỏa Tinh.

Còn chúng ta, Việt Nam anh hùng, bốn nghìn năm văn hiến, sau năm mươi năm thống nhất, ta đang ở đâu?

Có lẽ vẫn còn đang tranh cãi xem nên gọi Nguyễn Ánh là “thằng” hay “vua”. Vẫn còn bận phân biệt ai yêu nước theo đúng quy trình. Vẫn loay hoay tổ chức những cuộc thi “tự hào dân tộc” trong khi nền giáo dục dạy trẻ con sợ đặt câu hỏi, và nền truyền thông sợ nói sự thật.

Người viết bài “Nghe tiếng vọng từ nền văn minh bị chôn vùi” đã nói hộ một nỗi niềm mà ít ai dám nói thẳng: rằng văn minh không nằm trong khẩu hiệu, mà trong cách ta ứng xử với quá khứ và với sự khác biệt.

Gã đọc, rồi ngẫm, rồi tự hỏi: có phải dân tộc mình đang cố sống bằng bản sao của lòng tự hào, thay vì bằng chính lòng tự trọng?

Chúng ta vẫn hô “bốn ngàn năm văn hiến”, nhưng thử hỏi, nền văn hiến ấy đang ở đâu khi một học giả bị chụp mũ chỉ vì dám nói khác? Ở đâu khi người ta dạy học sinh học thuộc “tinh thần yêu nước”, nhưng lại không cho chúng biết yêu sự thật?

Cái bi hài là, giữa thế kỷ 21, người Việt Nam vẫn dễ nổi nóng với một bài viết nói ngược, nhưng lại bình thản trước chuyện cả một vùng biển mất dần từng hòn đảo.

Người Trung Quốc từng trả giá đắt cho cơn điên của mình - họ đã giết tri thức, đập văn hóa, xóa lịch sử. Nhưng rồi họ dám sám hối. Họ biết cúi đầu trước Beethoven, học lại Mozart, dựng lại Khổng Tử. Còn ta, ta chưa từng sám hối điều gì.

Ta vẫn nói về “đổi mới tư duy”, nhưng lại bắt mọi tư duy phải đi cùng một hướng. Ta nói về “phát triển khoa học”, nhưng còn chưa dám tin vào nhà khoa học hơn là vào nghị quyết. Ta nói “hòa hợp dân tộc”, nhưng lại không chịu hòa giải với chính lịch sử của mình.

Trung Quốc có thể đáng ghét, nhưng không thể phủ nhận rằng họ đã biết biến tri thức thành sức mạnh. Còn Việt Nam, chúng ta biến tri thức thành nghi ngờ, và nghi ngờ thành công cụ kiểm soát.

Một người bạn của gã nói: “Người Việt mình không nghèo tiền, chỉ nghèo niềm tin vào nhau.”

Gã thấy đúng. Vì một dân tộc văn minh không thể sống bằng sự sợ hãi. Không thể cứ né tránh mọi câu hỏi nhạy cảm, rồi tự ru mình bằng bài hát Tự hào Việt Nam.

Có khi, chúng ta cần ít khẩu hiệu hơn, và nhiều câu hỏi hơn.

Cần ít lời tự khen hơn, và nhiều sự sám hối hơn.

Cần ít những “lễ kỷ niệm” hơn, và nhiều buổi lắng nghe hơn - lắng nghe tiếng của chính lương tri.

Khi nhìn thấy những ngón tay người Trung Hoa chơi Chopin giữa Warsaw, gã chợt nghĩ: âm nhạc ấy đâu chỉ là giai điệu, nó là tuyên ngôn của một dân tộc biết học lại cách làm người sau cơn điên của mình.

Còn chúng ta - vẫn chưa học được điều giản dị ấy: rằng muốn bước vào thế giới, trước hết phải bước ra khỏi sự ngu dốt được tổ chức như một tín điều.

Văn minh, sau cùng, không phải là những tượng đài bằng đồng, mà là khi con người dám tôn trọng lẫn nhau bằng trí tuệ và sự thật.

Và nếu có một tiếng vọng nào còn văng vẳng từ nền văn minh bị bỏ lại, thì đó chính là lời nhắc:

“Một dân tộc không biết sám hối cho những gì đã lãng quên, sẽ mãi chỉ là người đi bộ trong giấc mơ của kẻ khác.”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét