LẠI QUANG TRUNG
Vào khoảng năm 1963 đến 1964 đã có một cuộc tranh luận giữa 2 miền Nam, Bắc về lịch sử với hai nhân vật Quang Trung và Gia Long.
Một bên là Văn Tân, viện Sử học Hà Nội, một bên là Linh mục Nguyễn Phương phụ trách Phòng nghiên cứu Sử của Văn khoa Đại học Huế. Chủ đề : "Ai là người thống nhất Việt Nam : Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh?". Từ năm 1964 trở về trước (1954), giới học thuật và các ấn phẩm của hai miền vẫn được trao đổi qua trung gian là các trí thức Việt ở Paris, trong đó có học giả Hoàng Xuân Hãn.
Cho đến thời kỳ này, lịch sử Việt Nam hầu như chỉ nói về Quang Trung mà không nói về Tây Sơn vì có nhiều ý kiến cho rằng một số người đã xuyên tạc lịch sử nhằm biến Tây Sơn thành một thần tượng cho một cuộc khởi nghĩa nông dân. Cuộc tranh luận giữa hai miền Nam - Bắc đã tạo ra một cảm hứng cho các sử gia nghiên cứu về nhà Tây Sơn.
Riêng Quang Trung, người ta hầu như bỏ qua tất cả mọi vấn đề khác mà chỉ nhằm vào hai võ công hiển hách chống ngoại xâm là quân Xiêm phía Nam và đặc biệt là quân Thanh ở phía Bắc. Hầu như hào quang này của Quang Trung đã che khuất các chính sách đối nội và đối ngoại của ông, vì vậy nhà Tây Sơn cần phải được xem xét một cách đầy đủ.
Sau khi thành công, nhà Tây Sơn chia nước ra làm 3. Nguyễn Nhạc xưng Đế đóng ở Quy Nhơn chia cho 2 em Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương, quản từ Phú Xuân trở ra, Nguyễn Lữ là Đông Định Vương giữ vùng Gia Định đến Bình Thuận. Nhưng Lữ chỉ ở ngôi được 1 năm thì bị Nguyễn Ánh chiếm lại, Lữ chạy về Quy Nhơn rồi chết ở đây. Trước khi ra Bắc phá quân Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế xưng là Quang Trung, vậy là nước ta có 2 ông Hoàng đế. Và hai ông Hoàng Đế này sẽ đánh nhau chí tử.
Một triều đại tiến bộ hay không tất nhiên là ở các chính sách cai trị và ngoại giao của nó. Những chính sách cai trị trong nước của Quang Trung như thế nào?
Về mặt hành chính :
Trong giai đoạn Nguyễn Huệ Bắc tiến lần đầu, lãnh thổ cai trị của ông là từ Nghệ An trở vào không thấy có ghi chép về mặt thay đổi hành chính. Từ sau khi đánh Tôn Sỹ Nghị ta thấy Hoàng Đế Quang Trung đã quản lý toàn bộ lãnh thổ Đại Việt của vua Lê Thánh Tông (thế kỷ 15).
Từ năm 1786 Nguyễn Huệ đã mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp giúp, trong đó có việc sẽ đóng kinh đô ở Nghệ An “Đóng đô ở Nghệ An vừa có thể cai trị trong Nam ngoài Bắc, mặt khác ai kêu kiện đi về cũng tiện”.
Trong các thư từ giao dịch với La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp, ta thấy Quang Trung bắt đầu dùng chữ Nôm trong các văn bản "Hán, Nôm lẫn lộn", có điều lại theo cú pháp Hán, ví dụ một đọan Nguyễn Huệ nói về việc xây dựng kinh đô ở làng Phú Thạch (Nghệ An) như sau:
“Hành cung sảo hậu gần núi. Kỳ chính địa bởi tại dân cư ư gian, hay đâu mới là cát địa khả đô, duy (chỉ có) Phu tử đạo nhẫn giám định. Tảo tảo bốc thành. Ủy cho trấn thủ Thận tạo lập cung điện. Kỳ tam nguyệt nội phải hoàn thành, đắc tiên giá ngự”- Trích: La Sơn Phu tử - Hoàng Xuân Hãn.
Quang Trung đổi Thăng Long thành Bắc Thành và có 7 trấn, Sơn Nam chia ra thành Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ, ngoài ra có các trấn Thanh Hóa ngoại, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương và Phụng Thiên. Trấn có quan trấn thủ và hiệp trấn, dưới Trấn là Huyện, bên văn là Phân tri, bên võ là Phân suất cai trị và Tả hữu quản lý, dưới Huyện là Tổng và Xã, đứng đầu là Tổng trưởng và Xã trưởng.
Chính sách quản lý :
Các xã lập sổ điền (ruộng đất) và sổ đinh (dân số). Điền 3 bậc, Đinh 3 hạng. Từ 9 - 17 tuổi gọi là “vị cập cách”, từ 18 - 55 là “tráng hạng”, từ 56 - 60 là “lão hạng”, từ 61 tuổi trở lên là “lão nhiêu”.
Thuế : ruộng công hạng nhất 1 mẫu nộp 150 thạch, hạng nhì 80 thạch, hạng ba 30 thạch, ruộng tư thuế đóng bằng khoảng 60% ruộng công. Ngoài ra một mẫu phải đóng “thập vật” 1 quan tiền và khoán thổ 50 đồng (nửa quan tiền).
Từ đây dân Bắc hà được nếm mùi “Tín bài” đã áp dụng từ trước ở Đàng Trong của nhà Tây Sơn. Đó là 1 tấm thẻ, mặt trước ghi họ tên, tuổi, quê quán, địa chỉ và dấu tay của người mang thẻ, mặt sau có 4 chữ “ Thiên hạ đại tín”. Mọi người đi đâu đều phải mang theo, ai không có sẽ bị khép vào hạng “dân lậu” bị bắt đi làm phu dịch. Ai có mà không mang theo sẽ bị phạt tiền.
Một người dân Nghệ An tên là Trần Bỉnh Phương kiên quyết không chịu đeo “tín bài” dân làng La Khê tôn ông làm quân sư và định nổi dậy, quan Thủ trấn là Nguyễn Quang Diệu cho quân đến đánh, Trần Bỉnh Phương thua chạy vào một ngôi chùa trên núi, viết một bài tứ tuyệt lên pho tượng rồi tự sát bằng cách tự mổ bụng. Bài thơ viết :
Giữ nước không kế sách
Nhưng thân đã có dao
Ngẩng đầu nhìn Hồng Lĩnh
Chín mươi chín ngọn cao.
Với sổ đinh và tín bài, Quang Trung bắt lính, cứ 3 đinh lấy một, nơi nào ít đinh thì bắt lính từ tuổi 15. Nhiều người dân phải chạy trốn vào rừng. Một Giáo sỹ ghi lại “ Việc đi lại rất khó khăn vì hễ ai không có thẻ đều bị tống vào ngục. Mỗi làng phải làm hai cái trạm để xét tín bài khách qua lại. Nhờ cách này họ có thể bắt được tất cả dân đi lính (tận suất). "
Chính sách nông nghiệp :
Ruộng đất bị bỏ hoang, dân trễ nải cầy bừa, Quang Trung xuống chiếu Khuyến nông kêu gọi dân lưu tán trở về làng cũ để làm ăn nhưng nó chỉ có giá trị về mặt tuyên truyền mà không hiệu quả thực tế, ai trở về chắc chắn sẽ bị bắt lính vì lúc đó Quang Trung đang chuẩn bị chiến tranh. Anh hùng chiến trận như ông không thích hợp cho thời bình.
Khi cùng Ngô Thì Nhậm từ Bắc Thành về Phú Xuân, Cao Huy Diệu có làm bài thơ “Đông lạp Thăng Long thượng mã hồi”
Dịch thơ :
“Thăng Long tháng chạp ra về
Trời xuân đã đến kinh kỳ mừng Xuân
Cờ bay phấp phới hồn oan
Lúa hoa xanh tốt để quan thu vào
Sưu cao bạc thuế càng cao
Con oanh không thẻ xuyên lầu liệng quanh - (chỉ có chim là không phải đeo thẻ tín bài)
Áng xuân ghi mấy sự tình
Cửa khuyết che kín cho mình ngẩn ngơ.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét